Bây giờ em xin phép cụ Thomas nói đôi chút về người Hải Phòng !
Lịch sử Hải Phòng ảnh hưởng lớn đến việc hình thành tính cách con người Hải Phòng. Sau khi Pháp xâm chiếm nước ta, họ xây dựng Hải Phòng trở thành một hải cảng lớn, Sáu Kho được khởi công xây dựng vào năm 1883 và hoàn thành năm 1898, quá trình xây dựng Cảng cũng là quá trình thành phố Hải Phòng được kiến trúc một cách quy mô với những công trình phục vụ cho chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Sau hòa ước Giáp Tuất (1874), triều đình Nguyễn đã có chính sách khuyến khích người Việt, người ngoại quốc đến của khẩu Ninh Hải mở phố buôn bán. Nhiều người Việt khắp nơi, nhiều người ngoại quốc, chủ yếu là người Hoa, người Pháp đến mở hiệu buôn, mở xưởng thợ, nhà máy...kéo theo nhiều tầng lớp xã hội với quê quán, ngành nghề, giai tầng xuất thân ùn ùn kéo về vùng đất nội thành ngày nay, họ mang theo những tính cách "trội" từ quê gốc về nơi tụ cư mới. Nhưng cư dân Hải Phòng lúc này hầu hết là nông dân phá sản bị thực dân Pháp bần cùng hóa đẩy ra thành phố làm phu phen cho chúng. Nghề nghiệp của họ hầu hết là phu phen tạp dịch, làm thợ rèn, thợ xây, thợ mộc... Đàn bà thì làm hàng sáo, chạy chợ, buôn thúng bán mẹt, dân ven biển thì đánh cá, làm muối… Có lẽ từ hoàn cảnh địa lý, hoàn cảnh xã hội và đặc điểm hình thành dân cư như vậy, nên quá trình hình thành và phát triển tính cách người Hải Phòng cũng có nhiều nét đặc biệt.
Do thiên nhiên nghiệt ngã, cuộc sống quá khổ cực lại bị phong kiến, thực dân dồn đến bước đường cùng nên những người dân ở đây đã sớm tạo dựng cho mình tinh thần đoàn kết đấu tranh, thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Khi cần, có thể hy sinh tất cả vì nghĩa lớn
"cháy hết mình, cánh phượng nhẹ nhàng rơi..."
Những mẹ La, mẹ Nghĩa trong tác phẩm “Sóng gầm” của Nguyên Hồng là những người dân nghèo tiêu biểu cho dân nghèo HPG thời Pháp thuộc; họ đã từng lăn lộn nhiều năm trên miếng đất Hải Phòng, đã từ Sáu kho ra Xi-măng, rồi làm ăn trên các bến sông Tam Bạc, sông Cấm, trên các bến tàu Tây điếc, Phúc Sinh, Thuận Thái… Những người đàn bà này không âm thầm, nhẫn nhục…, họ sẵn sàng chống trả lại bọn giàu có, bọn chỉ điểm, mật thám, không xin xỏ, không quỵ lụy, cắn răng lại, vượt lên hoàn cảnh mà sống. Qua những nét xù xì bên ngoài, thì là bản chất tốt đẹp sâu kín bên trong con người họ.
Đặc biệt, những người lao động Hải Phòng “làm việc trên cửa ngõ giao thông quốc tế và giao thông trong nước, nên được tiếp xúc với nhiều công nhân, thủy thủ các nước, các miền. Quá trình tiếp xúc đó, họ có điều kiện hiểu biết cuộc sống, sớm tiếp nhận những trào lưu mới, hình thành tính cách cởi mở, hấp thụ nhanh cái mới.
Do điều kiện lịch sử - xã hội như vậy, lâu dần đã tạo nên tính cách người Hải Phòng: cần cù, xốc vác, chịu đựng gian khổ, dám hy sinh, xốc nổi nhưng giàu lòng vị tha, dễ xí xóa thù vặt để cùng nhau đoàn kết như câu nói cửa miệng của họ: “Chém nhau đằng mũi – hòa nhau đằng lái”, tiếp thu cái mới rất nhanh và. Do sống giữa một vùng sông nước bão tố nhiều và sau này công nghiệp phát triển, nhịp điệu sống khẩn trương đã tạo cho người Hải Phòng tính cách hoạt bát, quyết đoán, ưa cụ thể, thích gọi tên sự vật bằng chính bản chất của nó, không ưa lập lờ, lèo lá.
Những nhà thơ gạo cội của VN thời hiện đại là Vương Trí Nhân – Lưu Quang Vũ – Xuân Quỳnh cũng có những nhận xét về tính cách người Hải Phòng:
“Ở đâu ta cũng nhận thấy sự có mặt của biển, không hiểu do bầu trời, ánh nắng hồng nhiệt, hơi gió mặn lồng lộng hay do nhịp sống sôi nổi, phóng khoáng của những con người, từ gương mặt, giọng nói, dáng đi, đến cả cách người ta uống cà-phê trong những cốc vại lớn… Hải Phòng giống như một con tàu đang đóng dở, bề bộn, lam lũ nhưng tấp nập, khỏe mạnh và lúc nào cũng như sắp sửa ra khơi”