[Funland] Bàn về Sách CNGD tiếng Việt lớp 1

Say24h

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-56316
Ngày cấp bằng
1/2/10
Số km
6,584
Động cơ
513,627 Mã lực
Nơi ở
ASEAN
Website
www.facebook.com
Vậy là đủ, trẻ con nó học, k phải phụ huynh học. Sách này đc ghi nhận là giúp xóa mù chữ rất tốt. Các vùng xâu xa mấy năm trc còn xin đc dạy giáo trình cụ Đại vì dạy giáo trình khác tỷ lệ tái mù chữ lên cao quá.
Cụ lớn tuổi quá rồi, não bộ cụ khác trẻ con, cụ k hiểu hay thấy khó hiểu đó là vấn đề của riêng cụ :)
Cháu em á, em còn chưa phải cầm sách của nó. K phải đánh vật dạy thêm nó, tối nó học đàn, chơi, thể dục... quá ưng :D
Em xin lỗi, cụ thế là không trách nhiệm lắm. Cụ quên một việc là ông Đại làm sách khi cũng tầm tuổi em.
 

Say24h

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-56316
Ngày cấp bằng
1/2/10
Số km
6,584
Động cơ
513,627 Mã lực
Nơi ở
ASEAN
Website
www.facebook.com
Ơ, thế 10 tầng rồi, ta đang bàn luận chuyện gì thế ạ ?
Chúng ta đang bàn thứ là sách của ông Đại bị loại bỏ là việc đúng ạ :)). Cụ rất thẳng thắn, em mở bia mời cụ :).
 

zin80

Xe tải
Biển số
OF-685915
Ngày cấp bằng
10/7/19
Số km
285
Động cơ
105,894 Mã lực
Tuổi
44
Vấn đề đây là một phương pháp - em xin phép theo đánh giá của em gọi là không thể chấp nhận, là rào cản của sự phát triển. Không thể đánh lộn việc học ngôn ngữ và phương pháp tư duy. Vì cuối cùng, chúng ta sẽ dùng ngôn ngữ nước khác để học hỏi và tư duy cụ ạ. Làm cách nhận thức của trẻ em cực máy móc, đi ngược với chất lượng con người hiện nay.
Em hoàn toàn ủng hộ quyền đánh giá và phát biểu của cụ.
Ai cũng có thể đúng hoặc sai, càng nhiều ý kiến đa chiều thì càng đến gần chân lý.
 

wildcat74

Xe điện
Biển số
OF-22272
Ngày cấp bằng
11/10/08
Số km
4,849
Động cơ
573,693 Mã lực
Nhìn vào cái hội đồng đã thấy ko chuẩn, nặng về bè cánh. Toàn mấy ông chẳng bao giờ đi dậy trẻ con mà lại đi phán về sách dạy trẻ con. Tại sao trong hội đồng ko có phụ huynh học sinh?; ko có các thày cô trực tiếp dạy học sinh?. Quy trình thẩm định ra sao? Các bố đưa ra parameter thế nào để oánh giá là đạt/ chưa đạt- hay là toàn bấm bụng để ra kết luận!?
 

doctor76

Xe ba gác
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
23,809
Động cơ
689,238 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Vào thăm nhà máy
Sửa chữa ô tô
Ở vùng ngoại ô
.....
Cái kêu rầm rầm
Cái thét ào ào.


Em muốn lái máy bay
Miễn dạy em cầm lái
Đổ xăng vào bình chứa
Nổ máy cánh quạt quay...

Thời ấy nhiều bạn chưa nhìn thấy rõ ô tô và máy bay đâu ạ
Em thấy cải cách phát âm thời Ka Hát U Khu Xê Khúc là có ý nghĩa.
Về bộ sách cụ nêu trên em thấy hời hợt trong việc biên soạn và cách sử dụng từ, ngữ cảnh. Em đoán có mặt của cán bộ không phải miền Bắc !
Có cả bài Cá Gỗ đấy, nhiều cụ miền Trung đọc thấy khó chịu...
 

Azeglio

Xe điện
Biển số
OF-204340
Ngày cấp bằng
31/7/13
Số km
3,558
Động cơ
605,110 Mã lực
Vậy là đủ, trẻ con nó học, k phải phụ huynh học. Sách này đc ghi nhận là giúp xóa mù chữ rất tốt. Các vùng xâu xa mấy năm trc còn xin đc dạy giáo trình cụ Đại vì dạy giáo trình khác tỷ lệ tái mù chữ lên cao quá.
Cụ lớn tuổi quá rồi, não bộ cụ khác trẻ con, cụ k hiểu hay thấy khó hiểu đó là vấn đề của riêng cụ :)
Cháu em á, em còn chưa phải cầm sách của nó. K phải đánh vật dạy thêm nó, tối nó học đàn, chơi, thể dục... quá ưng :D
Mợ chém vừa thôi. Vùng sâu vùng xa nào xin dạy giáo trình của ông Đại? Mợ nghe nói hử?

Mợ đặt chân lên Mường Tè chưa?
 

doctor76

Xe ba gác
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
23,809
Động cơ
689,238 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Em học sách con gà lớp 1 năm 89
Sách con mèo hình như là: mèo con đi học chẳng mang thứ gì
Chỉ mang một mẩu bút chì
Và mang một mảnh bánh mì con con
Không cụ ơi, sách Con Mèo in hình con Mèo ở trang bìa, là tập 2 của sách Con Gà này cụ ạ, hahaha, ra đời năm 1980...
 

Say24h

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-56316
Ngày cấp bằng
1/2/10
Số km
6,584
Động cơ
513,627 Mã lực
Nơi ở
ASEAN
Website
www.facebook.com
Nhìn vào cái hội đồng đã thấy ko chuẩn, nặng về bè cánh. Toàn mấy ông chẳng bao giờ đi dậy trẻ con mà lại đi phán về sách dạy trẻ con. Tại sao trong hội đồng ko có phụ huynh học sinh?; ko có các thày cô trực tiếp dạy học sinh?. Quy trình thẩm định ra sao? Các bố đưa ra parameter thế nào để oánh giá là đạt/ chưa đạt- hay là toàn bấm bụng để ra kết luận!?
Ý kiến cụ rất wild kat.
 

kvboto

Xe container
Biển số
OF-405256
Ngày cấp bằng
17/2/16
Số km
6,849
Động cơ
294,832 Mã lực
Nơi ở
Hà Nội
Vậy là đủ, trẻ con nó học, k phải phụ huynh học. Sách này đc ghi nhận là giúp xóa mù chữ rất tốt. Các vùng xâu xa mấy năm trc còn xin đc dạy giáo trình cụ Đại vì dạy giáo trình khác tỷ lệ tái mù chữ lên cao quá.
Cụ lớn tuổi quá rồi, não bộ cụ khác trẻ con, cụ k hiểu hay thấy khó hiểu đó là vấn đề của riêng cụ :)
Cháu em á, em còn chưa phải cầm sách của nó. K phải đánh vật dạy thêm nó, tối nó học đàn, chơi, thể dục... quá ưng :D
Giáo dục tiểu học chỉ đơn giản vậy, em thấy có câu chuyện thế này.

1. Mấy cậu học sinh thành phố được cấp tiền tính bằng trăm đến vài trăm ngàn/tiếng đến các trumg tâm anh ngữ nổi tiếng của tây học nào là phát âm câu cú, ngữ phát, dùng từ hay, chuẩn, học thuật,.... tốn mớ tiền cho vài năm đến chục năm, hết giáo trình cambridge đến offord, havard,... mà nói chẳng ào ào phần phật gì cả.

2. Vài cậu trai gái bán hàng trên bờ hồ, khu du lịch sapa, hướng dẫn viên du lịch,... níu kéo tây,... 1-2 năm bi bô cực thoái mái thôi rồi nói tiếng anh rào rào ngọt lịm, rào raò, phần phật...

Vậy tiểu học, lớp 1 cứ học đọc, nói vèo vèo,...như 2. trên kia là tốt rồi, khỏi cần học thuật,... như 1. ???
 

Say24h

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-56316
Ngày cấp bằng
1/2/10
Số km
6,584
Động cơ
513,627 Mã lực
Nơi ở
ASEAN
Website
www.facebook.com
Giáo dục tiểu học chỉ đơn giản vậy, em thấy có câu chuyện thế này.

1. Mấy cậu học sinh được cấp tiền tính bằng trăm đến vài trăm ngàn/tiếng đến các trumg tâm anh ngữ nổi tiếng của tây học nào là phát âm câu cú, ngữ phát, dùng từ hay, chuẩn, học thuật,.... tốn mớ tiền cho vài năm đến chục năm, hết giáo trình cambridge đến offord, havard

2. Vài cậu trai gái bán hàng trên bờ hồ, khu du lịch sapa, hướng dẫn viên du lịch,... níu kéo tây,... 1-2 năm bi bô cực thoái mái thôi rồi nói tiếng anh rào rào ngọt lịm,...

Vậy tiểu học, lớp 1 cứ học đọc, nói vèo vèo,...như 2. trên kia là tốt rồi, khỏi cần học thuật,... như 1. ???
Thế nên em mới ví dụ cách dạy một ngôn ngữ khác khó hơn, phức tạp hơn nhưng người ta còn muốn giản tiện. Em cuộc là Tây mà học tiếng Việt theo kiểu sách ông Đại thì có mà khóc tiếng Mán (mặc dù em chả biết tiếng Mán nó thế nào)
 

zin80

Xe tải
Biển số
OF-685915
Ngày cấp bằng
10/7/19
Số km
285
Động cơ
105,894 Mã lực
Tuổi
44
Mợ chém vừa thôi. Vùng sâu vùng xa nào xin dạy giáo trình của ông Đại? Mợ nghe nói hử?
Mợ đặt chân lên Mường Tè chưa?
Lào Cai là tỉnh áp dụng thành công nhất.
https://tuoitre.vn/cau-chuyen-ve-mot-bo-sach-giao-khoa-571280.htm

Không biết thì mở mồm ra hỏi cho tử tế!


Sách giáo khoaCải cách giáo dụcXóa mù chữPhổ cập giáo dục
Câu chuyện về một bộ sách giáo khoa
01/10/2013 09:38 GMT+7
TTCT - Câu chuyện từ một bộ sách đã trải qua 35 năm thăng trầm không chỉ có ý nghĩa với bản thân tác giả bộ sách, mà còn là một bài học đầy thấm thía cho những nhà hoạch định chính sách GD-ĐT nước nhà...
Phóng to
Học sinh lớp 1 Trường tiểu học số 1 Trịnh Tường, Bát Xát, Lào Cai và bộ sách Công nghệ giáo dục
Lào Cai là một tỉnh miền núi biên giới phía Bắc, từng chịu nhiều đau thương trong cuộc chiến tranh biên giới năm 1979. Sau chiến tranh cho đến năm 1990 là giai đoạn đời sống kinh tế - xã hội ở Lào Cai đặc biệt khó khăn trong bối cảnh khó khăn chung của cả nước. “Sau sự kiện 17-2-1979, cơ sở giáo dục ở Lào Cai gần như không còn gì. Khi tái lập tỉnh (tháng 10-1991), tỉnh không có trường sư phạm, không có trường dân tộc nội trú, 14 xã trắng trường lớp học.

Hầu hết xã vùng cao không có cấp tiểu học hoàn chỉnh, nghĩa là không có tới lớp 5, thậm chí nhiều nơi không có cả lớp 4. Cả tỉnh chỉ khoảng 1/3 trẻ trong độ tuổi đi học tiểu học. Vậy mà chúng tôi phải làm một nhiệm vụ vô cùng nan giải hồi ấy là phổ cập giáo dục tiểu học và xóa mù chữ” - ông Trương Kim Minh, nguyên giám đốc Sở GD-ĐT Lào Cai, nhớ lại.

Phổ cập tiểu học, xóa mù chữ nhờ có nhiều bộ sách giáo khoa

“Lớp cháu có 24 bạn, trong đó 10 bạn dân tộc Dao, 4 bạn dân tộc Giáy. Các bạn dân tộc nói tiếng Việt rất giỏi. Bạn Giềng Ngọc Ly năm ngoái tham gia thi viết chữ đẹp của trường được giải ba. Còn cháu năm ngoái được giải nhì cuộc thi chữ đẹp tỉnh Lào Cai”.

Em Nguyễn Hồng Ngọc (học sinh lớp 5A Trường tiểu học số 1 Trịnh Tường, Bát Xát, Lào Cai)

Trầy trật mãi, tháng 5-2000 Lào Cai mới đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học, là một trong những tỉnh cuối cùng của cả nước chạm đích phổ cập. Cũng như hầu hết tỉnh còn khó khăn về giáo dục hồi đó, Lào Cai chủ trương áp dụng một cơ chế phổ cập - xóa mù chữ hết sức linh hoạt, theo kiểu “ai có gậy dùng gậy, ai có mai dùng mai”.

Hồi ấy Lào Cai cùng một lúc dùng nhiều chương trình, nhiều bộ sách khác nhau. Ngoài bộ sách giáo khoa (SGK) cải cách (biên soạn từ năm 1981) còn có bộ SGK công nghệ giáo dục (viết tắt là CGD) của GS Hồ Ngọc Đại. Ngoài ra Lào Cai còn ứng dụng các chương trình 120 tuần, 100 tuần.

“Chúng tôi có hơn 74% là người dân tộc thiểu số, nếu cứ bắt các cháu học cùng chương trình với các cháu người Kinh thì khả năng năm 2000 đạt chuẩn phổ cập tiểu học và xóa mù chữ là không thể thực hiện được. Sau khi các nhà khoa học ở Trung tâm Nghiên cứu giáo dục dân tộc lên nghiên cứu khoảng năm năm ở xã Xín Chéng, Simacai, Lào Cai về thì Bộ GD-ĐT phê duyệt chương trình 120 tuần. Chương trình được rút gọn, bỏ bớt những nội dung không cần thiết với học sinh dân tộc thiểu số, tập trung vào kỹ năng tiếng Việt và toán” - ông Minh kể.

PGS.TSKH Nguyễn Kế Hào, nguyên vụ trưởng Vụ Giáo dục tiểu học - Bộ GD-ĐT, cũng xác nhận: “Năm 1981, khi bắt đầu thực hiện chương trình cải cách giáo dục ở cấp tiểu học, chúng ta chỉ có một bộ sách (nếu không tính bộ CGD của GS Hồ Ngọc Đại lúc đó chỉ dùng ở Trường Thực nghiệm). Nhưng qua thực tiễn nhiều nơi giáo viên và học sinh không dạy học được từ một bộ sách đó, Bộ GD-ĐT đã tổ chức biên soạn và cho sử dụng bốn bộ SGK tương ứng các đối tượng học tập khác nhau.

Sách 165 tuần dạy học sinh ở các vùng kinh tế - xã hội bình thường; sách 100 tuần dạy cho trẻ lang thang cơ nhỡ, vừa đi học vừa kiếm sống; sách 120 tuần dành cho học sinh miền núi; sách theo chương trình CGD của GS Hồ Ngọc Đại. Sở dĩ thập niên 1990 chúng ta đạt được mục tiêu phổ cập giáo dục, xóa mù chữ là nhờ đa dạng hóa các loại hình, phương thức dạy học, đa dạng hóa SGK”.

Bước thụt lùi

Theo GS Nguyễn Minh Thuyết, đến nay ta đã trải qua bốn lần thay SGK. Việc thay sách ba lần trước gắn với công cuộc cải cách giáo dục. Lần thứ tư thì không có cải cách mà chỉ là đổi mới chương trình.

“Lần cải cách thứ nhất là năm 1950, trong kháng chiến chống Pháp. Lần thứ hai là năm 1956 sau khi giải phóng miền Bắc, chúng ta tiến hành cải cách giáo dục để thống nhất lại nền giáo dục trong kháng chiến với nền giáo dục trong vùng bị tạm chiếm. Chúng ta xây dựng nền giáo dục phổ thông 10 năm thay vì 9 năm như thời kháng chiến. Năm 1979 chúng ta lại tiến hành một cuộc cải cách giáo dục mới, thống nhất lại nền giáo dục chung cho cả đất nước, thực hiện hệ thống giáo dục phổ thông 12 năm. Đến năm 2002 ta chỉ thay đổi chương trình và SGK thông thường chứ không phải cải cách giáo dục” - ông cho biết.

Cũng theo GS Thuyết, so với những lần trước đây thì lần đổi mới SGK năm 2002 là “bài bản nhất”. Những lần trước đây không hề có quyết định của Quốc hội hay Chính phủ, cũng không có bất kỳ chương trình nào được thông qua bởi các quyết định của cơ quan có thẩm quyền. Các nhà khoa học, nhà giáo vừa viết sách vừa hình thành chương trình giáo dục.

Còn năm 2002, ngành giáo dục xây dựng chương trình trước, biên soạn tài liệu dạy thử nghiệm bốn năm mới hoàn thành chương trình, rồi mới làm SGK chính thức. Nếu tính cả người viết sách, người thẩm định của cả ba cấp thì có tới 500 nhà khoa học tham gia biên soạn, thẩm định SGK.

Tuy nhiên bộ sách được xem là công phu đó đã khiến nhiều lãnh đạo ngành GD-ĐT các tỉnh miền núi phía Bắc đau đầu khi nghĩ cách duy trì được kết quả phổ cập - xóa mù chữ.

“SGK Tiếng Việt chương trình 2000 là viết cho người Kinh, tiếng Việt là tiếng mẹ đẻ của các em. Còn học sinh của chúng tôi là người dân tộc thiểu số, tiếng mẹ đẻ của các em không phải là tiếng Việt. Làm sao để các em nghe, nói, đọc, viết tiếng Việt tốt thì mới không bị rơi vào nguy cơ tái mù chữ. Tôi bỗng nhớ ra là những năm 1990 có bộ SGK của GS Hồ Ngọc Đại. Lúc đó cả nước chỉ dùng thống nhất một bộ SGK nên không ai dùng bộ sách của GS Hồ Ngọc Đại nữa. Nhưng Lào Cai vẫn quyết định dùng” - ông Minh kể lại.

Còn ông Nguyễn Anh Ninh, người kế nhiệm ông Minh làm giám đốc Sở GD-ĐT Lào Cai, cho biết: “Ban đầu chúng tôi đưa Tiếng Việt CGD vào bốn huyện Mường Khương, Simacai, Bảo Yên, Bảo Thắng, không ngờ thay đổi hẳn chất lượng môn tiếng Việt ở tiểu học. Rõ ràng giải pháp này đã giải quyết được một vấn đề rất quan trọng trong giáo dục tiểu học ở Lào Cai. Ở vùng cao, không giải quyết được vấn đề tiếng Việt thì đừng nói gì đến việc chất lượng giáo dục tiểu học!”.

Ông Minh thẳng thắn đánh giá việc năm 2002 cả nước chỉ sử dụng thống nhất một chương trình - một bộ SGK là bước thụt lùi về tư duy giáo dục.

Việc thay SGK không phải vì bộ này tốt hơn bộ kia mà đơn giản là để thực hiện nhiệm vụ chính trị: “Về căn bản chúng ta không theo kịp xu thế của tư tưởng giáo dục cho mọi người mà các nền giáo dục tiên tiến trên thế giới đang thực hiện. Ở những nước tiên tiến, Bộ giáo dục của họ chỉ đưa ra chương trình khung, thậm chí chương trình cụ thể sẽ do từng vùng miền khảo nghiệm và lựa chọn. Ngoài chương trình bắt buộc, họ còn tăng cường chương trình tự chọn. Một nền giáo dục mà số môn tự chọn càng cao càng đáp ứng tốt nhu cầu học tập của từng cá nhân học sinh”.

Năm 2001, PGS.TSKH Nguyễn Kế Hào từ chức vụ trưởng Vụ Giáo dục tiểu học để phản đối việc Bộ GD-ĐT quyết định triển khai đại trà chương trình 2000.

Theo ông, bộ SGK cải cách năm 1981 không phải là một bộ sách tốt. Ông Hào lý giải ông chỉ nêu và cảnh báo những bất cập để cuộc đổi mới của Bộ GD-ĐT không lặp lại vết xe đổ của cuộc cải cách giáo dục lần thứ ba vào năm 1981, vốn đã để lại nhiều bài học đắt giá do thiếu một tổng chỉ huy, thiếu một kế hoạch thiết kế chương trình ngay từ đầu nên nhiều cuốn SGK được viết theo ý tác giả và đã khiến học sinh bị quá tải.

Đặc biệt, việc chỉ đạo cả nước chỉ dùng một bộ SGK đã làm nhiều học sinh ở vùng sâu vùng xa không thể học tập đạt kết quả, dẫn đến tình trạng học sinh lưu ban, bỏ học nhiều... Về sau ngành GD-ĐT đã thực hiện điều chỉnh cải cách giáo dục bằng nhiều giải pháp, trong đó có việc ban hành và cho phép thực hiện nhiều chương trình cùng lúc để đáp ứng từng đối tượng.

“Có thể nói sau 20 năm vừa điều chỉnh, sửa chữa, bổ sung thì đến tận năm 2000, chương trình và SGK bậc tiểu học mới bắt đầu ổn định và bước đầu cải thiện về chất lượng. Nhưng 2000-2001 cũng là năm học đầu tiên thực hiện chương trình giảm tải thì bộ lại chủ trương bỏ tất cả chương trình hiện hành để triển khai một chương trình mới với rất nhiều bất cập” - PGS.TSKH Nguyễn Kế Hào nhận xét.

Phóng to
Bộ sách Công nghệ giáo dục của GS Hồ Ngọc Đại
Sự hồi sinh của một bộ SGK

Không nhiều người biết bộ SGK “cứu” chất lượng dạy học môn tiếng Việt ở Lào Cai mà nhà giáo Trương Kim Minh và ông Nguyễn Anh Ninh nhắc đến ở trên có một số phận trầm luân trong 35 năm qua. Tác giả của bộ sách là GS Hồ Ngọc Đại, nguyên giám đốc Trung tâm Công nghệ giáo dục, Bộ GD-ĐT.

GS Hồ Ngọc Đại kể: “Tôi sang Nga từ cuối năm 1968 để nghiên cứu tâm lý giáo dục bằng thực nghiệm. Về nước năm 1977 thì năm 1978 tôi mở Trường Thực nghiệm ở Hà Nội. Suy nghĩ của tôi lúc ấy là phải làm sao để trẻ con Việt Nam tiếp cận với thành tựu cuối cùng đã được xác lập, đã được khoa học công nhận. Thời điểm đó, giới nghiên cứu ngôn ngữ Việt Nam tổ chức tổng kết 300 năm nghiên cứu ngữ âm, tài liệu này được làm giáo trình chính thức cho sinh viên năm 3 chuyên ngành ngôn ngữ Trường ĐH Tổng hợp (nay là ĐH Khoa học xã hội & nhân văn - ĐH Quốc gia Hà Nội).

Tôi đã sử dụng thành tựu nghiên cứu đó để đưa vào SGK dạy tiếng Việt cho trẻ lớp 1. Chuyên môn của tôi là tâm lý giáo dục, không phải là ngôn ngữ học nên ban đầu tôi có nhờ một số cộng sự về ngôn ngữ biên soạn sách. Vì sách chưa đạt yêu cầu nên cuối cùng tôi phải tự biên soạn lấy”.

Với môn tiếng Việt lớp 1, GS Hồ Ngọc Đại đặt ra ba mục tiêu: đọc thông viết thạo, viết đúng chính tả và không bao giờ tái mù. Đọc thông viết thạo nghĩa là “nghe được, nhắc lại được, viết ra được và đọc được”. Nhưng trong suốt tám năm đầu giai đoạn thực nghiệm, chương trình tiếng Việt CGD chỉ được ứng dụng tại Trường Thực nghiệm. Năm 1986, sự thất bại của chương trình cải cách giáo dục khiến chương trình CGD vượt khỏi phạm vi thực nghiệm.

Trước kết quả học tiếng Việt quá tệ của cả nước hồi đó (có năm có tới 650.000 học sinh lớp 1 lưu ban trên tổng số gần 2 triệu học sinh), Bộ trưởng Bộ Giáo dục lúc đó là bà Nguyễn Thị Bình đã quyết định khuyến khích các địa phương dùng bộ sách của GS Hồ Ngọc Đại.

GS Hồ Ngọc Đại kể: “Phản hồi từ các giám đốc sở hồi ấy với bộ sách khá tích cực, nhưng nhiều người còn ngại vì phải chờ ý kiến chỉ đạo của địa phương. Lần ấy tôi gặp vị bí thư Tỉnh ủy Tây Ninh, ông ấy hỏi tôi về ưu điểm của phương pháp CGD. Tôi trả lời nếu học theo phương pháp của tôi, học sinh có thể đọc được một phút 60 chữ trong khi phương pháp hiện thời là một phút 25 chữ mà học sinh vẫn không học nổi, non một nửa số em lưu ban.

Ông ấy nói vui: “Tôi không cần một phút 60 chữ. Tôi chỉ cần một chữ 60 phút nhưng chữ nào cũng phải đọc được” và giải thích cháu ông ấy học hết lớp 1 nhưng không đánh vần nổi chữ “Nhân dân” trên tờ báo ông ấy vẫn đọc hằng ngày do trong SGK không có hai chữ đó. Chuyện vui nhưng phản ánh một thực tế là học trò của chúng ta vẫn được dạy học theo kiểu học vẹt, chữ nào có hình dạng giống như trong SGK thì mới “đọc” được”.

Ban đầu 12 tỉnh tham gia. Hơn chục năm sau số tỉnh tham gia chương trình CGD là 43. Thầy Nguyễn Đức Trường, nguyên hiệu trưởng một trường tiểu học ở thị trấn Phúc Yên (Vĩnh Phúc), cho biết: “Hồi ấy tất cả các trường tiểu học của Phúc Yên đều tham gia dạy chương trình CGD. Trường tôi còn là trường được ghi hình các tiết dạy để làm mẫu. Qua trải nghiệm thực tế chúng tôi thấy rõ hiệu quả của chương trình tiếng Việt 1 CGD. Học sinh nắm luật chính tả rất tốt, trong khi chương trình bình thường thì các em học mãi vẫn không nắm chắc được. Nhưng môn toán thì nhìn chung là khó dạy vì nhiều vấn đề trừu tượng bác Đại đưa vào sớm quá”.

Tuy nhiên, năm 2002, Bộ GD-ĐT bắt đầu triển khai việc đổi mới chương trình và chỉ cho phép sử dụng một bộ SGK duy nhất do bộ tổ chức biên soạn.

Việc Lào Cai quyết định thử nghiệm việc dạy tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số của mình bằng sách của GS Hồ Ngọc Đại đã tạo cơ hội để cuốn sách thể hiện được giá trị của mình. Điều để hai bên gặp nhau là nghị quyết 40 của Quốc hội khóa X về đổi mới chương trình - SGK.

“Hôm ấy tôi làm việc với Tỉnh ủy Lào Cai, tiếp tôi là anh Sùng Chúng, phó bí thư thường trực kiêm chủ tịch HĐND tỉnh. Anh ấy rất quan tâm việc tôi hứa sẽ dạy cho con em các dân tộc Lào Cai đọc thông viết thạo tiếng Việt chỉ sau một năm. Khi tôi bày tỏ lo ngại về việc Quốc hội đã thông qua Luật giáo dục, trong đó quy định cả nước thống nhất dùng một bộ SGK thì anh Sùng Chúng hỏi: Con em của Quốc hội hay con em của chúng tôi?” - GS Hồ Ngọc Đại nhớ lại.

Sau khi Lào Cai thí điểm thành công sử dụng sách tiếng Việt 1 CGD của GS Hồ Ngọc Đại, năm 2008 Bộ GD-ĐT đã cho phép năm địa phương khác thí điểm: Tây Ninh, Kon Tum, Kiên Giang, Đắk Lắk, An Giang. Số tỉnh sử dụng tiếng Việt 1 CGD tăng dần. Năm ngoái, hai tỉnh đồng bằng và có mặt bằng giáo dục phổ thông cao bậc nhất là Nam Định và Hải Dương cũng dùng bộ sách này. Năm học này, 37 tỉnh thành dùng sách tiếng Việt 1 CGD.

“Khi chương trình của tôi phải ngừng lại nhường chỗ cho chương trình 2002, tôi tin rằng bộ sách của mình “thất thế” không phải về mặt khoa học mà là do những toan tính vụ lợi, mà đã vụ lợi thì một lúc nào đó sẽ hết lợi, bộ sách của tôi sẽ được ghi nhận. Sự thật đã là như thế” - GS Hồ Ngọc Đại chia sẻ.
 
Chỉnh sửa cuối:

kvboto

Xe container
Biển số
OF-405256
Ngày cấp bằng
17/2/16
Số km
6,849
Động cơ
294,832 Mã lực
Nơi ở
Hà Nội
Nhìn vào cái hội đồng đã thấy ko chuẩn, nặng về bè cánh. Toàn mấy ông chẳng bao giờ đi dậy trẻ con mà lại đi phán về sách dạy trẻ con. Tại sao trong hội đồng ko có phụ huynh học sinh?; ko có các thày cô trực tiếp dạy học sinh?. Quy trình thẩm định ra sao? Các bố đưa ra parameter thế nào để oánh giá là đạt/ chưa đạt- hay là toàn bấm bụng để ra kết luận!?
Cụ quan tâm thì tự tìm hiểu hay hỏi cái hội đồng đó, hỏi thế diễn đàn ai trả lời cho cụ được

Cụ mà đi khám bác sỹ xong rồi có khi xé phiếu kết quả khám chỉ vì nhìn cái mặt và vẻ ngoài của bác sỹ, xong rồi tự mình khám cho mình và khám cho cả người khác luôn ấy nhỉ.

Chuẩn wildcat
 

Kitcat

Xe container
Biển số
OF-569708
Ngày cấp bằng
18/5/18
Số km
8,952
Động cơ
236,360 Mã lực
Em xin lỗi, cụ thế là không trách nhiệm lắm. Cụ quên một việc là ông Đại làm sách khi cũng tầm tuổi em.
Dạ em thấy cụ chém gió học cao, k tái mù chữ. Ổn quá :D
Chả cần cao sang gì ạ. Nó học trên lớp hiểu bài, nhớ bài, tỷ lệ tái mù chữ thấp là đc. Ý nghĩa cao sang gì đó toàn ng lớn nhìn sách áp đặt. Các cụ có đọc lesson plan đâu, không biết giáo viên sẽ giảng gì trên nền quyển sách mà chê bai với góc nhìn của ng lớn, quên trẻ em là thế nào thì kém cả thầy bói xem voi.
K cùng góc nhìn, k có đủ dữ liệu đánh giá đc thì đánh giá làm sao trời?!

Giáo dục tiểu học chỉ đơn giản vậy, em thấy có câu chuyện thế này.

1. Mấy cậu học sinh thành phố được cấp tiền tính bằng trăm đến vài trăm ngàn/tiếng đến các trumg tâm anh ngữ nổi tiếng của tây học nào là phát âm câu cú, ngữ phát, dùng từ hay, chuẩn, học thuật,.... tốn mớ tiền cho vài năm đến chục năm, hết giáo trình cambridge đến offord, havard,... mà nói chẳng ào ào phần phật gì cả.

2. Vài cậu trai gái bán hàng trên bờ hồ, khu du lịch sapa, hướng dẫn viên du lịch,... níu kéo tây,... 1-2 năm bi bô cực thoái mái thôi rồi nói tiếng anh rào rào ngọt lịm, rào raò, phần phật...

Vậy tiểu học, lớp 1 cứ học đọc, nói vèo vèo,...như 2. trên kia là tốt rồi, khỏi cần học thuật,... như 1. ???


Mợ chém vừa thôi. Vùng sâu vùng xa nào xin dạy giáo trình của ông Đại? Mợ nghe nói hử?

Mợ đặt chân lên Mường Tè chưa?
Báo đăng mà cụ. Cụ search gúc gờ đi từ khoá tỷ lệ tái mù chữ hồ ngọc đại
Ảnh demo q sách e vừa mượn đây nhé
 

Say24h

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-56316
Ngày cấp bằng
1/2/10
Số km
6,584
Động cơ
513,627 Mã lực
Nơi ở
ASEAN
Website
www.facebook.com
Cụ quan tâm thì tự tìm hiểu hay hỏi cái hội đồng đó, hỏi thế diễn đàn ai trả lời cho cụ được

Cụ mà đi khám bác sỹ xong rồi có khi xé phiếu kết quả khám chỉ vì nhìn cái mặt và vẻ ngoài của bác sỹ, xong rồi tự mình khám cho mình và khám cho cả người khác luôn ấy nhỉ.

Chuẩn wildcat
Phải là wild kat cụ ạ :))
 

ngocmai227

Xe lăn
Biển số
OF-354323
Ngày cấp bằng
11/2/15
Số km
13,435
Động cơ
2,140 Mã lực
Nơi ở
Ở nhà vợ nuôi.
Hì hì, cháu em năm nay vừa vào học năm đầu giáo trình cụ Đại. Tối nay xem thời sự thấy chiếu qua sgk, giọng nó rất tự hào: sách trường con nè.
Ơ thế à, mang sách con ra đây c xem nào? (E muốn check xem ảnh mấy cụ ở đây chụp có thật là trong sách đó hay sách khác)
Thằng bé mang ra quyển tập viết, giở ra cũng bt. Thế mấy q kia đâu con? Sách ạ, cô giáo con k cho mang về.
Nó mới đi học 1 tháng, thạo lắm, youtube tự đọc được chữ để search. Tự tin, dám thể hiện, dám tranh luận với ng lớn và ng lớn còn chả cần cầm sgk của con đọc. Thế là em ưng. K quan tâm mấy cụ ở đây đao to búa lớn là các Cụ đọc không với khó hiểu. Trẻ con hiểu là đc rồi.
Cháu nó vào lớp 1 rồi đấy, nàng xem thế nào đê nàng, chờ người ngoài hành tinh lâu lắm ;;)
 

Say24h

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-56316
Ngày cấp bằng
1/2/10
Số km
6,584
Động cơ
513,627 Mã lực
Nơi ở
ASEAN
Website
www.facebook.com
Dạ em thấy cụ chém gió học cao, k tái mù chữ. Ổn quá :D
Chả cần cao sang gì ạ. Nó học trên lớp hiểu bài, nhớ bài, tỷ lệ tái mù chữ thấp là đc. Ý nghĩa cao sang gì đó toàn ng lớn nhìn sách áp đặt. Các cụ có đọc lesson plan đâu, không biết giáo viên sẽ giảng gì trên nền quyển sách mà chê bai với góc nhìn của ng lớn, quên trẻ em là thế nào thì kém cả thầy bói xem voi.
K cùng góc nhìn, k có đủ dữ liệu đánh giá đc thì đánh giá làm sao trời?!






Báo đăng mà cụ. Cụ search gúc gờ đi từ khoá tỷ lệ tái mù chữ hồ ngọc đại
Ảnh demo q sách e vừa mượn đây nhé
Cụ toàn dùng những từ như cao sang rồi đao to búa lớn xyz từa tựa thế. Lại còn tái mù chữ...Cụ có ổn không ạ ?
 

Say24h

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-56316
Ngày cấp bằng
1/2/10
Số km
6,584
Động cơ
513,627 Mã lực
Nơi ở
ASEAN
Website
www.facebook.com
Lào Cai là tỉnh áp dụng thành công nhất.
https://tuoitre.vn/cau-chuyen-ve-mot-bo-sach-giao-khoa-571280.htm

Không biết thì mở mồm ra hỏi cho tử tế!


Sách giáo khoaCải cách giáo dụcXóa mù chữPhổ cập giáo dục
Câu chuyện về một bộ sách giáo khoa
01/10/2013 09:38 GMT+7
TTCT - Câu chuyện từ một bộ sách đã trải qua 35 năm thăng trầm không chỉ có ý nghĩa với bản thân tác giả bộ sách, mà còn là một bài học đầy thấm thía cho những nhà hoạch định chính sách GD-ĐT nước nhà...
Phóng to
Học sinh lớp 1 Trường tiểu học số 1 Trịnh Tường, Bát Xát, Lào Cai và bộ sách Công nghệ giáo dục
Lào Cai là một tỉnh miền núi biên giới phía Bắc, từng chịu nhiều đau thương trong cuộc chiến tranh biên giới năm 1979. Sau chiến tranh cho đến năm 1990 là giai đoạn đời sống kinh tế - xã hội ở Lào Cai đặc biệt khó khăn trong bối cảnh khó khăn chung của cả nước. “Sau sự kiện 17-2-1979, cơ sở giáo dục ở Lào Cai gần như không còn gì. Khi tái lập tỉnh (tháng 10-1991), tỉnh không có trường sư phạm, không có trường dân tộc nội trú, 14 xã trắng trường lớp học.

Hầu hết xã vùng cao không có cấp tiểu học hoàn chỉnh, nghĩa là không có tới lớp 5, thậm chí nhiều nơi không có cả lớp 4. Cả tỉnh chỉ khoảng 1/3 trẻ trong độ tuổi đi học tiểu học. Vậy mà chúng tôi phải làm một nhiệm vụ vô cùng nan giải hồi ấy là phổ cập giáo dục tiểu học và xóa mù chữ” - ông Trương Kim Minh, nguyên giám đốc Sở GD-ĐT Lào Cai, nhớ lại.

Phổ cập tiểu học, xóa mù chữ nhờ có nhiều bộ sách giáo khoa

“Lớp cháu có 24 bạn, trong đó 10 bạn dân tộc Dao, 4 bạn dân tộc Giáy. Các bạn dân tộc nói tiếng Việt rất giỏi. Bạn Giềng Ngọc Ly năm ngoái tham gia thi viết chữ đẹp của trường được giải ba. Còn cháu năm ngoái được giải nhì cuộc thi chữ đẹp tỉnh Lào Cai”.

Em Nguyễn Hồng Ngọc (học sinh lớp 5A Trường tiểu học số 1 Trịnh Tường, Bát Xát, Lào Cai)

Trầy trật mãi, tháng 5-2000 Lào Cai mới đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học, là một trong những tỉnh cuối cùng của cả nước chạm đích phổ cập. Cũng như hầu hết tỉnh còn khó khăn về giáo dục hồi đó, Lào Cai chủ trương áp dụng một cơ chế phổ cập - xóa mù chữ hết sức linh hoạt, theo kiểu “ai có gậy dùng gậy, ai có mai dùng mai”.

Hồi ấy Lào Cai cùng một lúc dùng nhiều chương trình, nhiều bộ sách khác nhau. Ngoài bộ sách giáo khoa (SGK) cải cách (biên soạn từ năm 1981) còn có bộ SGK công nghệ giáo dục (viết tắt là CGD) của GS Hồ Ngọc Đại. Ngoài ra Lào Cai còn ứng dụng các chương trình 120 tuần, 100 tuần.

“Chúng tôi có hơn 74% là người dân tộc thiểu số, nếu cứ bắt các cháu học cùng chương trình với các cháu người Kinh thì khả năng năm 2000 đạt chuẩn phổ cập tiểu học và xóa mù chữ là không thể thực hiện được. Sau khi các nhà khoa học ở Trung tâm Nghiên cứu giáo dục dân tộc lên nghiên cứu khoảng năm năm ở xã Xín Chéng, Simacai, Lào Cai về thì Bộ GD-ĐT phê duyệt chương trình 120 tuần. Chương trình được rút gọn, bỏ bớt những nội dung không cần thiết với học sinh dân tộc thiểu số, tập trung vào kỹ năng tiếng Việt và toán” - ông Minh kể.

PGS.TSKH Nguyễn Kế Hào, nguyên ********* Vụ Giáo dục tiểu học - Bộ GD-ĐT, cũng xác nhận: “Năm 1981, khi bắt đầu thực hiện chương trình cải cách giáo dục ở cấp tiểu học, chúng ta chỉ có một bộ sách (nếu không tính bộ CGD của GS Hồ Ngọc Đại lúc đó chỉ dùng ở Trường Thực nghiệm). Nhưng qua thực tiễn nhiều nơi giáo viên và học sinh không dạy học được từ một bộ sách đó, Bộ GD-ĐT đã tổ chức biên soạn và cho sử dụng bốn bộ SGK tương ứng các đối tượng học tập khác nhau.

Sách 165 tuần dạy học sinh ở các vùng kinh tế - xã hội bình thường; sách 100 tuần dạy cho trẻ lang thang cơ nhỡ, vừa đi học vừa kiếm sống; sách 120 tuần dành cho học sinh miền núi; sách theo chương trình CGD của GS Hồ Ngọc Đại. Sở dĩ thập niên 1990 chúng ta đạt được mục tiêu phổ cập giáo dục, xóa mù chữ là nhờ đa dạng hóa các loại hình, phương thức dạy học, đa dạng hóa SGK”.

Bước thụt lùi

Theo GS Nguyễn Minh Thuyết, đến nay ta đã trải qua bốn lần thay SGK. Việc thay sách ba lần trước gắn với công cuộc cải cách giáo dục. Lần thứ tư thì không có cải cách mà chỉ là đổi mới chương trình.

“Lần cải cách thứ nhất là năm 1950, trong kháng chiến chống Pháp. Lần thứ hai là năm 1956 sau khi giải phóng miền Bắc, chúng ta tiến hành cải cách giáo dục để thống nhất lại nền giáo dục trong kháng chiến với nền giáo dục trong vùng bị tạm chiếm. Chúng ta xây dựng nền giáo dục phổ thông 10 năm thay vì 9 năm như thời kháng chiến. Năm 1979 chúng ta lại tiến hành một cuộc cải cách giáo dục mới, thống nhất lại nền giáo dục chung cho cả đất nước, thực hiện hệ thống giáo dục phổ thông 12 năm. Đến năm 2002 ta chỉ thay đổi chương trình và SGK thông thường chứ không phải cải cách giáo dục” - ông cho biết.

Cũng theo GS Thuyết, so với những lần trước đây thì lần đổi mới SGK năm 2002 là “bài bản nhất”. Những lần trước đây không hề có quyết định của Quốc hội hay Chính phủ, cũng không có bất kỳ chương trình nào được thông qua bởi các quyết định của cơ quan có thẩm quyền. Các nhà khoa học, nhà giáo vừa viết sách vừa hình thành chương trình giáo dục.

Còn năm 2002, ngành giáo dục xây dựng chương trình trước, biên soạn tài liệu dạy thử nghiệm bốn năm mới hoàn thành chương trình, rồi mới làm SGK chính thức. Nếu tính cả người viết sách, người thẩm định của cả ba cấp thì có tới 500 nhà khoa học tham gia biên soạn, thẩm định SGK.

Tuy nhiên bộ sách được xem là công phu đó đã khiến nhiều lãnh đạo ngành GD-ĐT các tỉnh miền núi phía Bắc đau đầu khi nghĩ cách duy trì được kết quả phổ cập - xóa mù chữ.

“SGK Tiếng Việt chương trình 2000 là viết cho người Kinh, tiếng Việt là tiếng mẹ đẻ của các em. Còn học sinh của chúng tôi là người dân tộc thiểu số, tiếng mẹ đẻ của các em không phải là tiếng Việt. Làm sao để các em nghe, nói, đọc, viết tiếng Việt tốt thì mới không bị rơi vào nguy cơ tái mù chữ. Tôi bỗng nhớ ra là những năm 1990 có bộ SGK của GS Hồ Ngọc Đại. Lúc đó cả nước chỉ dùng thống nhất một bộ SGK nên không ai dùng bộ sách của GS Hồ Ngọc Đại nữa. Nhưng Lào Cai vẫn quyết định dùng” - ông Minh kể lại.

Còn ông Nguyễn Anh Ninh, người kế nhiệm ông Minh làm giám đốc Sở GD-ĐT Lào Cai, cho biết: “Ban đầu chúng tôi đưa Tiếng Việt CGD vào bốn huyện Mường Khương, Simacai, Bảo Yên, Bảo Thắng, không ngờ thay đổi hẳn chất lượng môn tiếng Việt ở tiểu học. Rõ ràng giải pháp này đã giải quyết được một vấn đề rất quan trọng trong giáo dục tiểu học ở Lào Cai. Ở vùng cao, không giải quyết được vấn đề tiếng Việt thì đừng nói gì đến việc chất lượng giáo dục tiểu học!”.

Ông Minh thẳng thắn đánh giá việc năm 2002 cả nước chỉ sử dụng thống nhất một chương trình - một bộ SGK là bước thụt lùi về tư duy giáo dục.

Việc thay SGK không phải vì bộ này tốt hơn bộ kia mà đơn giản là để thực hiện nhiệm vụ chính trị: “Về căn bản chúng ta không theo kịp xu thế của tư tưởng giáo dục cho mọi người mà các nền giáo dục tiên tiến trên thế giới đang thực hiện. Ở những nước tiên tiến, Bộ giáo dục của họ chỉ đưa ra chương trình khung, thậm chí chương trình cụ thể sẽ do từng vùng miền khảo nghiệm và lựa chọn. Ngoài chương trình bắt buộc, họ còn tăng cường chương trình tự chọn. Một nền giáo dục mà số môn tự chọn càng cao càng đáp ứng tốt nhu cầu học tập của từng cá nhân học sinh”.

Năm 2001, PGS.TSKH Nguyễn Kế Hào từ chức ********* Vụ Giáo dục tiểu học để phản đối việc Bộ GD-ĐT quyết định triển khai đại trà chương trình 2000.

Theo ông, bộ SGK cải cách năm 1981 không phải là một bộ sách tốt. Ông Hào lý giải ông chỉ nêu và cảnh báo những bất cập để cuộc đổi mới của Bộ GD-ĐT không lặp lại vết xe đổ của cuộc cải cách giáo dục lần thứ ba vào năm 1981, vốn đã để lại nhiều bài học đắt giá do thiếu một tổng chỉ huy, thiếu một kế hoạch thiết kế chương trình ngay từ đầu nên nhiều cuốn SGK được viết theo ý tác giả và đã khiến học sinh bị quá tải.

Đặc biệt, việc chỉ đạo cả nước chỉ dùng một bộ SGK đã làm nhiều học sinh ở vùng sâu vùng xa không thể học tập đạt kết quả, dẫn đến tình trạng học sinh lưu ban, bỏ học nhiều... Về sau ngành GD-ĐT đã thực hiện điều chỉnh cải cách giáo dục bằng nhiều giải pháp, trong đó có việc ban hành và cho phép thực hiện nhiều chương trình cùng lúc để đáp ứng từng đối tượng.

“Có thể nói sau 20 năm vừa điều chỉnh, sửa chữa, bổ sung thì đến tận năm 2000, chương trình và SGK bậc tiểu học mới bắt đầu ổn định và bước đầu cải thiện về chất lượng. Nhưng 2000-2001 cũng là năm học đầu tiên thực hiện chương trình giảm tải thì bộ lại chủ trương bỏ tất cả chương trình hiện hành để triển khai một chương trình mới với rất nhiều bất cập” - PGS.TSKH Nguyễn Kế Hào nhận xét.

Phóng to
Bộ sách Công nghệ giáo dục của GS Hồ Ngọc Đại
Sự hồi sinh của một bộ SGK

Không nhiều người biết bộ SGK “cứu” chất lượng dạy học môn tiếng Việt ở Lào Cai mà nhà giáo Trương Kim Minh và ông Nguyễn Anh Ninh nhắc đến ở trên có một số phận trầm luân trong 35 năm qua. Tác giả của bộ sách là GS Hồ Ngọc Đại, nguyên giám đốc Trung tâm Công nghệ giáo dục, Bộ GD-ĐT.

GS Hồ Ngọc Đại kể: “Tôi sang Nga từ cuối năm 1968 để nghiên cứu tâm lý giáo dục bằng thực nghiệm. Về nước năm 1977 thì năm 1978 tôi mở Trường Thực nghiệm ở Hà Nội. Suy nghĩ của tôi lúc ấy là phải làm sao để trẻ con Việt Nam tiếp cận với thành tựu cuối cùng đã được xác lập, đã được khoa học công nhận. Thời điểm đó, giới nghiên cứu ngôn ngữ Việt Nam tổ chức tổng kết 300 năm nghiên cứu ngữ âm, tài liệu này được làm giáo trình chính thức cho sinh viên năm 3 chuyên ngành ngôn ngữ Trường ĐH Tổng hợp (nay là ĐH Khoa học xã hội & nhân văn - ĐH Quốc gia Hà Nội).

Tôi đã sử dụng thành tựu nghiên cứu đó để đưa vào SGK dạy tiếng Việt cho trẻ lớp 1. Chuyên môn của tôi là tâm lý giáo dục, không phải là ngôn ngữ học nên ban đầu tôi có nhờ một số cộng sự về ngôn ngữ biên soạn sách. Vì sách chưa đạt yêu cầu nên cuối cùng tôi phải tự biên soạn lấy”.

Với môn tiếng Việt lớp 1, GS Hồ Ngọc Đại đặt ra ba mục tiêu: đọc thông viết thạo, viết đúng chính tả và không bao giờ tái mù. Đọc thông viết thạo nghĩa là “nghe được, nhắc lại được, viết ra được và đọc được”. Nhưng trong suốt tám năm đầu giai đoạn thực nghiệm, chương trình tiếng Việt CGD chỉ được ứng dụng tại Trường Thực nghiệm. Năm 1986, sự thất bại của chương trình cải cách giáo dục khiến chương trình CGD vượt khỏi phạm vi thực nghiệm.

Trước kết quả học tiếng Việt quá tệ của cả nước hồi đó (có năm có tới 650.000 học sinh lớp 1 lưu ban trên tổng số gần 2 triệu học sinh), ********* Bộ Giáo dục lúc đó là bà Nguyễn Thị Bình đã quyết định khuyến khích các địa phương dùng bộ sách của GS Hồ Ngọc Đại.

GS Hồ Ngọc Đại kể: “Phản hồi từ các giám đốc sở hồi ấy với bộ sách khá tích cực, nhưng nhiều người còn ngại vì phải chờ ý kiến chỉ đạo của địa phương. Lần ấy tôi gặp vị bí thư Tỉnh ủy Tây Ninh, ông ấy hỏi tôi về ưu điểm của phương pháp CGD. Tôi trả lời nếu học theo phương pháp của tôi, học sinh có thể đọc được một phút 60 chữ trong khi phương pháp hiện thời là một phút 25 chữ mà học sinh vẫn không học nổi, non một nửa số em lưu ban.

Ông ấy nói vui: “Tôi không cần một phút 60 chữ. Tôi chỉ cần một chữ 60 phút nhưng chữ nào cũng phải đọc được” và giải thích cháu ông ấy học hết lớp 1 nhưng không đánh vần nổi chữ “Nhân dân” trên tờ báo ông ấy vẫn đọc hằng ngày do trong SGK không có hai chữ đó. Chuyện vui nhưng phản ánh một thực tế là học trò của chúng ta vẫn được dạy học theo kiểu học vẹt, chữ nào có hình dạng giống như trong SGK thì mới “đọc” được”.

Ban đầu 12 tỉnh tham gia. Hơn chục năm sau số tỉnh tham gia chương trình CGD là 43. Thầy Nguyễn Đức Trường, nguyên hiệu trưởng một trường tiểu học ở thị trấn Phúc Yên (Vĩnh Phúc), cho biết: “Hồi ấy tất cả các trường tiểu học của Phúc Yên đều tham gia dạy chương trình CGD. Trường tôi còn là trường được ghi hình các tiết dạy để làm mẫu. Qua trải nghiệm thực tế chúng tôi thấy rõ hiệu quả của chương trình tiếng Việt 1 CGD. Học sinh nắm luật chính tả rất tốt, trong khi chương trình bình thường thì các em học mãi vẫn không nắm chắc được. Nhưng môn toán thì nhìn chung là khó dạy vì nhiều vấn đề trừu tượng bác Đại đưa vào sớm quá”.

Tuy nhiên, năm 2002, Bộ GD-ĐT bắt đầu triển khai việc đổi mới chương trình và chỉ cho phép sử dụng một bộ SGK duy nhất do bộ tổ chức biên soạn.

Việc Lào Cai quyết định thử nghiệm việc dạy tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số của mình bằng sách của GS Hồ Ngọc Đại đã tạo cơ hội để cuốn sách thể hiện được giá trị của mình. Điều để hai bên gặp nhau là nghị quyết 40 của Quốc hội khóa X về đổi mới chương trình - SGK.

“Hôm ấy tôi làm việc với Tỉnh ủy Lào Cai, tiếp tôi là anh Sùng Chúng, phó bí thư thường trực kiêm chủ tịch HĐND tỉnh. Anh ấy rất quan tâm việc tôi hứa sẽ dạy cho con em các dân tộc Lào Cai đọc thông viết thạo tiếng Việt chỉ sau một năm. Khi tôi bày tỏ lo ngại về việc Quốc hội đã thông qua Luật giáo dục, trong đó quy định cả nước thống nhất dùng một bộ SGK thì anh Sùng Chúng hỏi: Con em của Quốc hội hay con em của chúng tôi?” - GS Hồ Ngọc Đại nhớ lại.

Sau khi Lào Cai thí điểm thành công sử dụng sách tiếng Việt 1 CGD của GS Hồ Ngọc Đại, năm 2008 Bộ GD-ĐT đã cho phép năm địa phương khác thí điểm: Tây Ninh, Kon Tum, Kiên Giang, Đắk Lắk, An Giang. Số tỉnh sử dụng tiếng Việt 1 CGD tăng dần. Năm ngoái, hai tỉnh đồng bằng và có mặt bằng giáo dục phổ thông cao bậc nhất là Nam Định và Hải Dương cũng dùng bộ sách này. Năm học này, 37 tỉnh thành dùng sách tiếng Việt 1 CGD.

“Khi chương trình của tôi phải ngừng lại nhường chỗ cho chương trình 2002, tôi tin rằng bộ sách của mình “thất thế” không phải về mặt khoa học mà là do những toan tính vụ lợi, mà đã vụ lợi thì một lúc nào đó sẽ hết lợi, bộ sách của tôi sẽ được ghi nhận. Sự thật đã là như thế” - GS Hồ Ngọc Đại chia sẻ.
Không liên quan, nhưng em bỏ qua sự ngu nói chung của nhà báo. GS éo gì. Thế giới chả có ai có học hàm muôn đời mà lại không có học vị, không có học vị thì không có học hàm. Sao không không thí điểm ở Thủ Đô ý ? Nên nhớ có một bộ phận bố mẹ các cháu về trình độ nhận thức còn cao hơn ông Đại rất nhiều.
 

Hưngchột

Xe buýt
Biển số
OF-584085
Ngày cấp bằng
8/8/18
Số km
537
Động cơ
141,948 Mã lực
Tuổi
43
Đem trẻ con ra làm thí nghiệm quả thật là tội ác
 

musvn84

Xe tải
Biển số
OF-626347
Ngày cấp bằng
23/3/19
Số km
293
Động cơ
116,741 Mã lực
Không liên quan, nhưng em bỏ qua sự ngu nói chung của nhà báo. GS éo gì. Thế giới chả có ai có học hàm muôn đời mà lại không có học vị, không có học vị thì không có học hàm. Sao không không thí điểm ở Thủ Đô ý ? Nên nhớ có một bộ phận bố mẹ các cháu về trình độ nhận thức còn cao hơn ông Đại rất nhiều.
Cụ đã nghe trường Thực Nghiệm ở Liễu Giai chưa ? GS Ngô Bảo Châu học trường Thực Nghiệm đó, gần nhất mình cũng biết 1 bạn lớp 11 đạt giải nhất Quốc Gia cũng học Thực Nghiệm
 

Zabre

Xe đạp
Biển số
OF-696227
Ngày cấp bằng
27/8/19
Số km
11
Động cơ
98,310 Mã lực
Tuổi
33
Lào Cai là tỉnh áp dụng thành công nhất.
https://tuoitre.vn/cau-chuyen-ve-mot-bo-sach-giao-khoa-571280.htm

Không biết thì mở mồm ra hỏi cho tử tế!


Sách giáo khoaCải cách giáo dụcXóa mù chữPhổ cập giáo dục
Câu chuyện về một bộ sách giáo khoa
01/10/2013 09:38 GMT+7
TTCT - Câu chuyện từ một bộ sách đã trải qua 35 năm thăng trầm không chỉ có ý nghĩa với bản thân tác giả bộ sách, mà còn là một bài học đầy thấm thía cho những nhà hoạch định chính sách GD-ĐT nước nhà...
Phóng to
Học sinh lớp 1 Trường tiểu học số 1 Trịnh Tường, Bát Xát, Lào Cai và bộ sách Công nghệ giáo dục
Lào Cai là một tỉnh miền núi biên giới phía Bắc, từng chịu nhiều đau thương trong cuộc chiến tranh biên giới năm 1979. Sau chiến tranh cho đến năm 1990 là giai đoạn đời sống kinh tế - xã hội ở Lào Cai đặc biệt khó khăn trong bối cảnh khó khăn chung của cả nước. “Sau sự kiện 17-2-1979, cơ sở giáo dục ở Lào Cai gần như không còn gì. Khi tái lập tỉnh (tháng 10-1991), tỉnh không có trường sư phạm, không có trường dân tộc nội trú, 14 xã trắng trường lớp học.

Hầu hết xã vùng cao không có cấp tiểu học hoàn chỉnh, nghĩa là không có tới lớp 5, thậm chí nhiều nơi không có cả lớp 4. Cả tỉnh chỉ khoảng 1/3 trẻ trong độ tuổi đi học tiểu học. Vậy mà chúng tôi phải làm một nhiệm vụ vô cùng nan giải hồi ấy là phổ cập giáo dục tiểu học và xóa mù chữ” - ông Trương Kim Minh, nguyên giám đốc Sở GD-ĐT Lào Cai, nhớ lại.

Phổ cập tiểu học, xóa mù chữ nhờ có nhiều bộ sách giáo khoa

“Lớp cháu có 24 bạn, trong đó 10 bạn dân tộc Dao, 4 bạn dân tộc Giáy. Các bạn dân tộc nói tiếng Việt rất giỏi. Bạn Giềng Ngọc Ly năm ngoái tham gia thi viết chữ đẹp của trường được giải ba. Còn cháu năm ngoái được giải nhì cuộc thi chữ đẹp tỉnh Lào Cai”.

Em Nguyễn Hồng Ngọc (học sinh lớp 5A Trường tiểu học số 1 Trịnh Tường, Bát Xát, Lào Cai)

Trầy trật mãi, tháng 5-2000 Lào Cai mới đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học, là một trong những tỉnh cuối cùng của cả nước chạm đích phổ cập. Cũng như hầu hết tỉnh còn khó khăn về giáo dục hồi đó, Lào Cai chủ trương áp dụng một cơ chế phổ cập - xóa mù chữ hết sức linh hoạt, theo kiểu “ai có gậy dùng gậy, ai có mai dùng mai”.

Hồi ấy Lào Cai cùng một lúc dùng nhiều chương trình, nhiều bộ sách khác nhau. Ngoài bộ sách giáo khoa (SGK) cải cách (biên soạn từ năm 1981) còn có bộ SGK công nghệ giáo dục (viết tắt là CGD) của GS Hồ Ngọc Đại. Ngoài ra Lào Cai còn ứng dụng các chương trình 120 tuần, 100 tuần.

“Chúng tôi có hơn 74% là người dân tộc thiểu số, nếu cứ bắt các cháu học cùng chương trình với các cháu người Kinh thì khả năng năm 2000 đạt chuẩn phổ cập tiểu học và xóa mù chữ là không thể thực hiện được. Sau khi các nhà khoa học ở Trung tâm Nghiên cứu giáo dục dân tộc lên nghiên cứu khoảng năm năm ở xã Xín Chéng, Simacai, Lào Cai về thì Bộ GD-ĐT phê duyệt chương trình 120 tuần. Chương trình được rút gọn, bỏ bớt những nội dung không cần thiết với học sinh dân tộc thiểu số, tập trung vào kỹ năng tiếng Việt và toán” - ông Minh kể.

PGS.TSKH Nguyễn Kế Hào, nguyên ********* Vụ Giáo dục tiểu học - Bộ GD-ĐT, cũng xác nhận: “Năm 1981, khi bắt đầu thực hiện chương trình cải cách giáo dục ở cấp tiểu học, chúng ta chỉ có một bộ sách (nếu không tính bộ CGD của GS Hồ Ngọc Đại lúc đó chỉ dùng ở Trường Thực nghiệm). Nhưng qua thực tiễn nhiều nơi giáo viên và học sinh không dạy học được từ một bộ sách đó, Bộ GD-ĐT đã tổ chức biên soạn và cho sử dụng bốn bộ SGK tương ứng các đối tượng học tập khác nhau.

Sách 165 tuần dạy học sinh ở các vùng kinh tế - xã hội bình thường; sách 100 tuần dạy cho trẻ lang thang cơ nhỡ, vừa đi học vừa kiếm sống; sách 120 tuần dành cho học sinh miền núi; sách theo chương trình CGD của GS Hồ Ngọc Đại. Sở dĩ thập niên 1990 chúng ta đạt được mục tiêu phổ cập giáo dục, xóa mù chữ là nhờ đa dạng hóa các loại hình, phương thức dạy học, đa dạng hóa SGK”.

Bước thụt lùi

Theo GS Nguyễn Minh Thuyết, đến nay ta đã trải qua bốn lần thay SGK. Việc thay sách ba lần trước gắn với công cuộc cải cách giáo dục. Lần thứ tư thì không có cải cách mà chỉ là đổi mới chương trình.

“Lần cải cách thứ nhất là năm 1950, trong kháng chiến chống Pháp. Lần thứ hai là năm 1956 sau khi giải phóng miền Bắc, chúng ta tiến hành cải cách giáo dục để thống nhất lại nền giáo dục trong kháng chiến với nền giáo dục trong vùng bị tạm chiếm. Chúng ta xây dựng nền giáo dục phổ thông 10 năm thay vì 9 năm như thời kháng chiến. Năm 1979 chúng ta lại tiến hành một cuộc cải cách giáo dục mới, thống nhất lại nền giáo dục chung cho cả đất nước, thực hiện hệ thống giáo dục phổ thông 12 năm. Đến năm 2002 ta chỉ thay đổi chương trình và SGK thông thường chứ không phải cải cách giáo dục” - ông cho biết.

Cũng theo GS Thuyết, so với những lần trước đây thì lần đổi mới SGK năm 2002 là “bài bản nhất”. Những lần trước đây không hề có quyết định của Quốc hội hay Chính phủ, cũng không có bất kỳ chương trình nào được thông qua bởi các quyết định của cơ quan có thẩm quyền. Các nhà khoa học, nhà giáo vừa viết sách vừa hình thành chương trình giáo dục.

Còn năm 2002, ngành giáo dục xây dựng chương trình trước, biên soạn tài liệu dạy thử nghiệm bốn năm mới hoàn thành chương trình, rồi mới làm SGK chính thức. Nếu tính cả người viết sách, người thẩm định của cả ba cấp thì có tới 500 nhà khoa học tham gia biên soạn, thẩm định SGK.

Tuy nhiên bộ sách được xem là công phu đó đã khiến nhiều lãnh đạo ngành GD-ĐT các tỉnh miền núi phía Bắc đau đầu khi nghĩ cách duy trì được kết quả phổ cập - xóa mù chữ.

“SGK Tiếng Việt chương trình 2000 là viết cho người Kinh, tiếng Việt là tiếng mẹ đẻ của các em. Còn học sinh của chúng tôi là người dân tộc thiểu số, tiếng mẹ đẻ của các em không phải là tiếng Việt. Làm sao để các em nghe, nói, đọc, viết tiếng Việt tốt thì mới không bị rơi vào nguy cơ tái mù chữ. Tôi bỗng nhớ ra là những năm 1990 có bộ SGK của GS Hồ Ngọc Đại. Lúc đó cả nước chỉ dùng thống nhất một bộ SGK nên không ai dùng bộ sách của GS Hồ Ngọc Đại nữa. Nhưng Lào Cai vẫn quyết định dùng” - ông Minh kể lại.

Còn ông Nguyễn Anh Ninh, người kế nhiệm ông Minh làm giám đốc Sở GD-ĐT Lào Cai, cho biết: “Ban đầu chúng tôi đưa Tiếng Việt CGD vào bốn huyện Mường Khương, Simacai, Bảo Yên, Bảo Thắng, không ngờ thay đổi hẳn chất lượng môn tiếng Việt ở tiểu học. Rõ ràng giải pháp này đã giải quyết được một vấn đề rất quan trọng trong giáo dục tiểu học ở Lào Cai. Ở vùng cao, không giải quyết được vấn đề tiếng Việt thì đừng nói gì đến việc chất lượng giáo dục tiểu học!”.

Ông Minh thẳng thắn đánh giá việc năm 2002 cả nước chỉ sử dụng thống nhất một chương trình - một bộ SGK là bước thụt lùi về tư duy giáo dục.

Việc thay SGK không phải vì bộ này tốt hơn bộ kia mà đơn giản là để thực hiện nhiệm vụ chính trị: “Về căn bản chúng ta không theo kịp xu thế của tư tưởng giáo dục cho mọi người mà các nền giáo dục tiên tiến trên thế giới đang thực hiện. Ở những nước tiên tiến, Bộ giáo dục của họ chỉ đưa ra chương trình khung, thậm chí chương trình cụ thể sẽ do từng vùng miền khảo nghiệm và lựa chọn. Ngoài chương trình bắt buộc, họ còn tăng cường chương trình tự chọn. Một nền giáo dục mà số môn tự chọn càng cao càng đáp ứng tốt nhu cầu học tập của từng cá nhân học sinh”.

Năm 2001, PGS.TSKH Nguyễn Kế Hào từ chức ********* Vụ Giáo dục tiểu học để phản đối việc Bộ GD-ĐT quyết định triển khai đại trà chương trình 2000.

Theo ông, bộ SGK cải cách năm 1981 không phải là một bộ sách tốt. Ông Hào lý giải ông chỉ nêu và cảnh báo những bất cập để cuộc đổi mới của Bộ GD-ĐT không lặp lại vết xe đổ của cuộc cải cách giáo dục lần thứ ba vào năm 1981, vốn đã để lại nhiều bài học đắt giá do thiếu một tổng chỉ huy, thiếu một kế hoạch thiết kế chương trình ngay từ đầu nên nhiều cuốn SGK được viết theo ý tác giả và đã khiến học sinh bị quá tải.

Đặc biệt, việc chỉ đạo cả nước chỉ dùng một bộ SGK đã làm nhiều học sinh ở vùng sâu vùng xa không thể học tập đạt kết quả, dẫn đến tình trạng học sinh lưu ban, bỏ học nhiều... Về sau ngành GD-ĐT đã thực hiện điều chỉnh cải cách giáo dục bằng nhiều giải pháp, trong đó có việc ban hành và cho phép thực hiện nhiều chương trình cùng lúc để đáp ứng từng đối tượng.

“Có thể nói sau 20 năm vừa điều chỉnh, sửa chữa, bổ sung thì đến tận năm 2000, chương trình và SGK bậc tiểu học mới bắt đầu ổn định và bước đầu cải thiện về chất lượng. Nhưng 2000-2001 cũng là năm học đầu tiên thực hiện chương trình giảm tải thì bộ lại chủ trương bỏ tất cả chương trình hiện hành để triển khai một chương trình mới với rất nhiều bất cập” - PGS.TSKH Nguyễn Kế Hào nhận xét.

Phóng to
Bộ sách Công nghệ giáo dục của GS Hồ Ngọc Đại
Sự hồi sinh của một bộ SGK

Không nhiều người biết bộ SGK “cứu” chất lượng dạy học môn tiếng Việt ở Lào Cai mà nhà giáo Trương Kim Minh và ông Nguyễn Anh Ninh nhắc đến ở trên có một số phận trầm luân trong 35 năm qua. Tác giả của bộ sách là GS Hồ Ngọc Đại, nguyên giám đốc Trung tâm Công nghệ giáo dục, Bộ GD-ĐT.

GS Hồ Ngọc Đại kể: “Tôi sang Nga từ cuối năm 1968 để nghiên cứu tâm lý giáo dục bằng thực nghiệm. Về nước năm 1977 thì năm 1978 tôi mở Trường Thực nghiệm ở Hà Nội. Suy nghĩ của tôi lúc ấy là phải làm sao để trẻ con Việt Nam tiếp cận với thành tựu cuối cùng đã được xác lập, đã được khoa học công nhận. Thời điểm đó, giới nghiên cứu ngôn ngữ Việt Nam tổ chức tổng kết 300 năm nghiên cứu ngữ âm, tài liệu này được làm giáo trình chính thức cho sinh viên năm 3 chuyên ngành ngôn ngữ Trường ĐH Tổng hợp (nay là ĐH Khoa học xã hội & nhân văn - ĐH Quốc gia Hà Nội).

Tôi đã sử dụng thành tựu nghiên cứu đó để đưa vào SGK dạy tiếng Việt cho trẻ lớp 1. Chuyên môn của tôi là tâm lý giáo dục, không phải là ngôn ngữ học nên ban đầu tôi có nhờ một số cộng sự về ngôn ngữ biên soạn sách. Vì sách chưa đạt yêu cầu nên cuối cùng tôi phải tự biên soạn lấy”.

Với môn tiếng Việt lớp 1, GS Hồ Ngọc Đại đặt ra ba mục tiêu: đọc thông viết thạo, viết đúng chính tả và không bao giờ tái mù. Đọc thông viết thạo nghĩa là “nghe được, nhắc lại được, viết ra được và đọc được”. Nhưng trong suốt tám năm đầu giai đoạn thực nghiệm, chương trình tiếng Việt CGD chỉ được ứng dụng tại Trường Thực nghiệm. Năm 1986, sự thất bại của chương trình cải cách giáo dục khiến chương trình CGD vượt khỏi phạm vi thực nghiệm.

Trước kết quả học tiếng Việt quá tệ của cả nước hồi đó (có năm có tới 650.000 học sinh lớp 1 lưu ban trên tổng số gần 2 triệu học sinh), ********* Bộ Giáo dục lúc đó là bà Nguyễn Thị Bình đã quyết định khuyến khích các địa phương dùng bộ sách của GS Hồ Ngọc Đại.

GS Hồ Ngọc Đại kể: “Phản hồi từ các giám đốc sở hồi ấy với bộ sách khá tích cực, nhưng nhiều người còn ngại vì phải chờ ý kiến chỉ đạo của địa phương. Lần ấy tôi gặp vị bí thư Tỉnh ủy Tây Ninh, ông ấy hỏi tôi về ưu điểm của phương pháp CGD. Tôi trả lời nếu học theo phương pháp của tôi, học sinh có thể đọc được một phút 60 chữ trong khi phương pháp hiện thời là một phút 25 chữ mà học sinh vẫn không học nổi, non một nửa số em lưu ban.

Ông ấy nói vui: “Tôi không cần một phút 60 chữ. Tôi chỉ cần một chữ 60 phút nhưng chữ nào cũng phải đọc được” và giải thích cháu ông ấy học hết lớp 1 nhưng không đánh vần nổi chữ “Nhân dân” trên tờ báo ông ấy vẫn đọc hằng ngày do trong SGK không có hai chữ đó. Chuyện vui nhưng phản ánh một thực tế là học trò của chúng ta vẫn được dạy học theo kiểu học vẹt, chữ nào có hình dạng giống như trong SGK thì mới “đọc” được”.

Ban đầu 12 tỉnh tham gia. Hơn chục năm sau số tỉnh tham gia chương trình CGD là 43. Thầy Nguyễn Đức Trường, nguyên hiệu trưởng một trường tiểu học ở thị trấn Phúc Yên (Vĩnh Phúc), cho biết: “Hồi ấy tất cả các trường tiểu học của Phúc Yên đều tham gia dạy chương trình CGD. Trường tôi còn là trường được ghi hình các tiết dạy để làm mẫu. Qua trải nghiệm thực tế chúng tôi thấy rõ hiệu quả của chương trình tiếng Việt 1 CGD. Học sinh nắm luật chính tả rất tốt, trong khi chương trình bình thường thì các em học mãi vẫn không nắm chắc được. Nhưng môn toán thì nhìn chung là khó dạy vì nhiều vấn đề trừu tượng bác Đại đưa vào sớm quá”.

Tuy nhiên, năm 2002, Bộ GD-ĐT bắt đầu triển khai việc đổi mới chương trình và chỉ cho phép sử dụng một bộ SGK duy nhất do bộ tổ chức biên soạn.

Việc Lào Cai quyết định thử nghiệm việc dạy tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số của mình bằng sách của GS Hồ Ngọc Đại đã tạo cơ hội để cuốn sách thể hiện được giá trị của mình. Điều để hai bên gặp nhau là nghị quyết 40 của Quốc hội khóa X về đổi mới chương trình - SGK.

“Hôm ấy tôi làm việc với Tỉnh ủy Lào Cai, tiếp tôi là anh Sùng Chúng, phó bí thư thường trực kiêm chủ tịch HĐND tỉnh. Anh ấy rất quan tâm việc tôi hứa sẽ dạy cho con em các dân tộc Lào Cai đọc thông viết thạo tiếng Việt chỉ sau một năm. Khi tôi bày tỏ lo ngại về việc Quốc hội đã thông qua Luật giáo dục, trong đó quy định cả nước thống nhất dùng một bộ SGK thì anh Sùng Chúng hỏi: Con em của Quốc hội hay con em của chúng tôi?” - GS Hồ Ngọc Đại nhớ lại.

Sau khi Lào Cai thí điểm thành công sử dụng sách tiếng Việt 1 CGD của GS Hồ Ngọc Đại, năm 2008 Bộ GD-ĐT đã cho phép năm địa phương khác thí điểm: Tây Ninh, Kon Tum, Kiên Giang, Đắk Lắk, An Giang. Số tỉnh sử dụng tiếng Việt 1 CGD tăng dần. Năm ngoái, hai tỉnh đồng bằng và có mặt bằng giáo dục phổ thông cao bậc nhất là Nam Định và Hải Dương cũng dùng bộ sách này. Năm học này, 37 tỉnh thành dùng sách tiếng Việt 1 CGD.

“Khi chương trình của tôi phải ngừng lại nhường chỗ cho chương trình 2002, tôi tin rằng bộ sách của mình “thất thế” không phải về mặt khoa học mà là do những toan tính vụ lợi, mà đã vụ lợi thì một lúc nào đó sẽ hết lợi, bộ sách của tôi sẽ được ghi nhận. Sự thật đã là như thế” - GS Hồ Ngọc Đại chia sẻ.
Lào Cai vừa lên VTV đấy, họ bảo sách còn nhiều vấn đề nhưng ưu điểm có tính giải trí cao là chính , hài vãi, dám dạy ở HN là ăn đòn ngay cụ ạ :)
 
Thông tin thớt
Đang tải
Top