Thơ Đông Tây Kim Cổ

taplai

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-169
Ngày cấp bằng
8/6/06
Số km
551
Động cơ
586,510 Mã lực
Tương tiến tửu
Lý Bạch 701-762


"Quân bất kiến
Hoàng hà chi thuỷ thiên thượng lai,
Bôn lưu đáo hải bất phục hồi!
Hựu bất kiến
cao đường minh kính bi bạch phát,
Triêu như thanh ti mộ thành tuyết.
Nhân sinh đắc ý tu tận hoan,
Mạc sử kim tôn không đối nguyệt!
Thiên sinh ngã tài tất hữu dụng,
Thiên kim tán tận hoàn phục lai.
Phanh dương tể ngưu thả vi lạc,
Hội tu nhất ẩm tam bách bôi.
Sầm phu tử,
Đan Khâu sinh.
Tương tiến tửu,
Bôi mạc đình!
Dữ quân ca nhất khúc,
Thỉnh quân vị ngã khuynh nhĩ thính:
"Chung cổ soạn ngọc bất túc quý,
Đãn nguyện trường tuý bất nguyện tinh!
Cổ lai thánh hiền giai tịch mịch,
Duy hữu ẩm giả lưu kỳ danh.
Trần Vương tích thời yến Bình Lạc,
Đẩu tửu thập thiên tứ hoan hước".
Chủ nhân hà vi ngôn thiểu tiền,
Kính tu cô thủ đối quân chước.
Ngũ hoa mã,
Thiên kim cừu,
Hô nhi tương xuất hoán mỹ tửu,
Dữ nhĩ đồng tiêu vạn cổ sầu. "


"Anh không thấy-
-nước trời chảy mãi
Thành mênh mông một dải Hoàng Hà
Chảy mau về với biển xa
Có quay trở lại cùng ta bao giờ?

Anh không thấy tóc tơ ngày nọ
Sớm đương xanh chiều đã tuyết sương
Nhà cao ai đứng trong gương
Trông nên tóc bạc mà thương phận người!

Thì gặp lúc đông vui bầu bạn
Đừng để cho chén cạn dưới trăng
Có tài tất có khi dùng
Ngàn vàng dẫu hết ngại ngùng làm chi

Trâu ta giết và dê ta mổ
Rồi cùng nhau đòi nợ Lưu Linh
Sầm công với Đan Khâu sinh
Xin đừng ngưng chén chuốc mình chuốc ta

Ta vì bạn xin ca một đoạn
Bạn vì ta xin bạn lắng nghe
Chuông vàng mâm ngọc thiết gì
Ước say đừng tỉnh làm chi thêm phiền!

Đời chẳng thấy thánh hiền đâu nữa
Chàng say kia thiên cổ lưu danh
Trần vương thơ túi rượu bình
Rót mười ngàn chén mới thành cuộc vui

Sao lại sợ tiền vơi bạc ngót?
Áo cừu bên ngựa tốt ngàn vàng
Trẻ đâu, đem cả vào làng
Đổi ra rượu uống cho tan cổ sầu."
 
Chỉnh sửa cuối:

taplai

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-169
Ngày cấp bằng
8/6/06
Số km
551
Động cơ
586,510 Mã lực
Ngày xuân thanh bình đọc Lương Châu Từ của Vương Hàn
-Trương Thái Du-


"Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi.
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi."

Vương Hàn (687 – 726) tự Tử Vũ người Tấn Dương, Tinh Châu, Sơn Tây. Năm 710 ông đậu tiến sĩ và ra làm quan. Bài Từ này Vương Hàn làm năm 713 tại Lương Châu. Lương Châu ngày nay thuộc tỉnh Cam Túc, Tây Bắc Trung Quốc. Thời Đường những đạo quân lớn thường tập trung ở đây trước khi đi về phía Tây hoặc phía Bắc để phá vỡ các lực lượng du mục hung dữ luôn đe dọa Trung Hoa.

Lương Châu Từ thuộc dòng thơ Biên Tái buổi Thịnh Đường. Tâm trạng bi nhưng không lụy của người lính chiến khắc họa thành công ước vọng hòa bình sâu xa, thê thiết nhưng giàu nhân bản. Tạm dịch nghĩa: Rượu nho đỏ ngon rót vào chén ngọc dạ quang. Ta đã muốn uống, lại được tiếng đàn tỳ bà giục giã thôi thúc vui vẻ. Nếu có lỡ say vạ vật nơi sa trường xin người đừng cười chê. Xưa nay chinh chiến mấy ai có ngày trở về.

“Dạ quang bôi” là thứ chén ngọc thạch trắng, phát sáng khi để trong bóng tối. “Bồ đào mỹ tửu” là loại rượu nho sóng sánh màu đỏ sậm. Mạch so sánh ngầm ở câu thơ đầu khúc chiết nhưng đầy đủ đã làm nổi bật chữ “bi” chủ thể xuyên suốt bài ca. Màu trắng tang thương, trắng cả trong bóng tối, làm nền, làm bồi cảnh cho màu đỏ nơi huyết quản chinh nhân trong bức tranh thơ trác việt.

Câu thơ thứ hai xưa nay có rất nhiều cách hiểu. Đa số cho rằng người chiến sĩ rất muốn uống rượu nhưng lại bị tiếng đàn tỳ bà giục giã lên đường. Nghĩa ấy sẽ rất khập khiễng khi vận vào câu tiếp theo, nếu đã uống vội uống vàng thì làm sao có thể nghiêng ngả say trên sa trường. Cũng xuất hiện khả năng “tỳ bà mã thượng” là cách ví von chùm lục lạc nhạc ngựa của đoàn kỵ mã đang chồn chân. Sự nôn nao gấp ruổi nơi loài thuần thú va đập với dục năng rất người ở đây là muốn uống, muốn say, muốn tạm quên sự đời. Phần dịch nghĩa tôi không đưa khả năng này vào, xin tạm để đây như một tồn nghi, một lối hiểu cần thêm nghiền ngẫm. Ổn nhất khi giải thích “tỳ bà mã thượng” là nhóm nhạc công ngồi trên lưng ngựa giúp vui cho buổi tiệc khao quân xuất trận.

Đàn tỳ bà và rượu vang đỏ mang đặc trưng Tây Vực. Rượu truyền thống của người Trung Hoa là rượu lúa mạch, rượu gạo. Chiếc chén ngọc quí giá biết thưởng thức hơi men xa lạ, người lính viễn chinh thấu triệt kỳ thanh trong cung đàn xứ khác trưng ra khuôn mặt khó thấy của văn hóa Trung Hoa: sự khát khao làm chủ các giá trị hữu và phi vật thể từ bên ngoài.

Câu ba, từ “sa trường” có rất nhiều điều để nói. Suốt chiều dài lịch sử của mình, người Trung Hoa hằng mấy ngàn năm không ngon giấc khi nghe thoảng trong gió lạnh tiếng hí ngựa Hồ. Họa Bắc phương khiến sa mạc, những vùng cát trắng mênh mông phía Tây và Bắc Trung Nguyên đồng nghĩa với chiến trường. Người Hán hai lần mất nước bởi những đoàn quân từ phương Bắc. Họ thường nhận định quá trình Hán hóa kẻ thù ở Trung Hoa đồng nghĩa với phục quốc. Trong mối tác động tương hỗ, không thể không quan tâm tới cách họ dung nạp văn hóa ngoại lai và biến nó thành của mình.

Vương Hàn nặng lòng đặt nét màu cuối cho bức tranh: “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”. Chén rượu hồng bất ngờ vượt lên trên cả niềm đau chia ly, để ngời ngợi nỗi bi thống máu xương chiến địa. Ngoại ngôn trong Lương Châu Từ rất gần với vô ngôn. Nói là vô bởi ta chẳng thấy bờ biên ngôn ngữ, hơn nữa như Lão Tử viết: “Tri giả bất bác, bác giả bất tri”, ôm đồm “bác giả - khối kiến thức rộng lớn của bể từ” khác gì tự biến mình thành kẻ bất tri.

Nghệ thuật của Vương Hàn nằm giữa đỉnh cao nghệ thuật Thịnh Đường Thi, song tư tưởng ông gửi gắm còn cao hơn thế. Không biết tự bao giờ nó đã vươn khỏi biên giới quốc gia khai sinh ra mình. Ánh sáng nhân văn luôn lan tỏa mạnh mẽ và vĩnh viễn trường tồn. Ở Việt Nam, tư tưởng này khá nhiều lần phảng phất trong các danh tác cổ kim. Có thể kể ngay ra đây bài “Màu tím hoa sim” của Hữu Loan vừa gây sóng cồn về “bản quyền” trong làng văn nghệ:


Từ chiến khu ba
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến chinh
Mấy người đi trở lại
Lỡ khi mình không về
Thì thương người vợ chờ
Bé bỏng chiều quê

Hoặc Hòn Vọng Phu của Lê Thương:



Qua Thiên San kìa ai tiễn rượu vừa tàn,
Vui ca vang rồi đi tiến binh ngoài ngàn.
Người đi ngoài vạn lí quan san,
Người đứng chờ trong bóng cô đơn.



Vui ra đi rồi không ước hẹn ngày về,
Ai quên ghi vào gan đã bao nguyện thề.
Nhìn chân trời xanh biếc bao la,
Người mong chờ vẫn nhớ nơi xa
Bao nhiêu năm bồng con đứng đợi chồng về,
Bao nhiêu phen thời gian xóa phai lời thề,
Người tung hoành bên núi xa xăm,
Người mong chồng còn đứng muôn năm

Hiếm có dân tộc nào, nền văn minh nào lâu bền và vững mạnh mà không yêu chuộng hòa bình và hòa hợp. Người Trung Hoa hiểu điều đó không phải nhờ Mạnh Tử từng dạy: “Ai không thích giết người thì thống nhất được thiên hạ”. Càng đối mặt với đại họa thì càng hiểu ý nghĩa của hòa bình. Khát khao hòa bình cộng với biết bao công sức và xương máu lương dân từ thời Chiến Quốc đến triều Minh để xây Trường Thành, vẫn chưa đủ để bảo vệ người Trung Hoa thoát khỏi cảnh chiến chinh. Minh Thành Tổ dời đô từ Nam Kinh đến Yên Kinh để trực tiếp chống chọi Bắc Họa cũng chẳng xong. Mặc cho Trường Thành cao dài như bất tuyệt, mỗi lần chính trị Trung Hoa đồi bại, quí tộc phản trắc nhũng nhiễu là nước mất, nhà tan.

Đoàn chinh nhân trong thơ Vương Hàn là gì nếu không phải những viên gạch tạo nên bức Trường Thành trừu tượng của dân tộc Trung Hoa. Mặc dù là gốc rễ của mọi thành tựu, là tiền phương ngăn cản chiến tranh tạo dựng hòa bình, nhân dân ở đâu cũng cứ đời đời là nạn nhân của mưu toan thế sự mờ ám bất công.

Họa Bắc phương với Việt Nam mấy ngàn năm nay, trớ trêu lại mang tên Trung Hoa. Trong chuỗi liên đới Bắc – Nam của lịch sử Á Đông, Chiêm Thành là kẻ thiệt thòi cuối cùng và đã biệt tích. Nho Giáo lên ngôi ở Việt Nam trong thế kỷ 15 sau quãng thời gian 20 năm đất nước bị Minh triều nô dịch. Sự chiến thắng của tư tưởng Nho Giáo trong đời sống chính trị Đại Việt ảnh hưởng không nhỏ đến con đường nam tiến của dân tộc Việt Nam. Nên chăng đặt câu hỏi văn minh Chiêm Thành còn lại gì trong lòng dân tộc Việt Nam, ngoài kỳ quan Tháp Chàm ngạo hận trở thành di sản quí giá vinh danh nhân loại.

Ngày xuân thanh bình, ngân nga bên xứ hoa ngàn Đà Lạt Vạn Xuân mấy câu Hán Việt Lương Châu Từ, bỗng thấy trời xanh thấu lòng biển. Dòng sông mây trắng miên man chảy về đông, hun hút nỗi bất tri sa mạc nước. Với người thơ Vương Hàn, nhân văn là thái độ trước nghĩa hướng của các ngôn từ chiến tranh, hòa bình và hòa hợp.


Nguyên tác Hán văn:
凉州词
王 翰

葡萄美酒夜光杯,
欲饮琵琶马上催。
醉卧沙场君莫笑,
古来征战几人回。


Bản dịch của Trương Thái Du

Rượu ngon
hồng chén dạ quang
Lòng ham,
nhạc giục hoang mang tỳ bà
Đừng cười
ra trận ta say
Chiến chinh máu chảy xưa nay ai về?

Thung lũng Đa Thiện,
Đà Lạt xuân 2005
 
Chỉnh sửa cuối:

taplai

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-169
Ngày cấp bằng
8/6/06
Số km
551
Động cơ
586,510 Mã lực
"Uống rượu cần nghiên cứu về đồ dùng. Uống thứ rượu nào phải dùng chén nấy. Uống rượu đất Phần phải dùng chén ngọc. Người Đường có câu thơ:
"Ngọc uyển thình lai hổ phách quang"
Như vậy đủ để chén ngọc làm cho sắc rượu thêm phần rực rỡ.
Lệnh Hồ Xung nói:
- Chính thế!
Tổ Thiên Thu lại nói:
- Rượu trắng ở ngoài quan ải uống rất ngon nhưng đáng tiếc mùi vị không đủ thơm tho. Hơn hết là lấy sừng tê giác làm chén để rót rượu vào mà uống. Có như thế thì mùi rượu mới thuần mỹ phi thường.Ta nên nhớ chén ngọc làm cho rượu nổi mầu sắc, sừng tê cho rượu thêm hương vị. Cổ nhân quả đã không lầm.
Lệnh Hồ Xung trước nay chỉ thích phẩm chất hơn là vỏ ngoài. Có điều hắn chỉ kết giao với khách hào kiệt giang hồ, họ chỉ biết phân biệt rượu ngon hay rượu nhạt cũng là khó rồi còn ai thảo luận đến chén ngọc chung tê?

Lệnh Hồ Xung lúc này nghe Tổ Thiên Thu nói thao thao bất tuyệt thì khác nào ở trong bóng tối nhìn ra ánh sáng.
Tổ Thiên Thu nói tiếp:
- Đến như rượu Bồ Đào thì dĩ nhiên phải dùng đến chén hổ quang. Cổ nhân có câu thơ "Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi, Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi...". Chén dạ quang là vật trân quí hiếm trên đời. Rượu bồ đào đã có mầu hồng mà bọn nam nhi chúng ta uống vào thì không đủ hào khí. Chén dạ quang phát ra ánh sáng mới là tuyệt diệu! Rượu bồ đào rót vào chén dạ quang lập tức mầu rượu đỏ như huyết. Uống rượu cũng như uống huyết. Trong bài thơ của Nhạc ngũ Mục có câu: "Tráng chí cơ xan hồ lổ nhục, Tiếu đàn khát ẩm hung nô huyết?" Chí khí của người tráng sĩ lấy thịt rợ của rợ Hồ làm cơm ăn, cười nói đến khi khát nước thi uống máu giặc Hung Nô, Như vậy có phải là hùng tráng không?
Lệnh Hồ Xung gật đầu lia lịa, nhưng hắn đọc sách rất ít. Hắn nghe Tổ Thiên Thu dẫn chứng bằng những câu thơ mà hắn không hiểu rõ nghĩa, chỉ lập đi lập lại câu "Tiếu đàn khát ẩm Hung Nô huyết" mà hào khí ngất trời, trong lòng khoan khoái.
Tổ Thiên Thu lại nói:
- Còn thứ rượu ngon này là rượu tối cổ ngẫu nhiên có người đem cho, ngẫu nhiên mà uống. Nó là rượu cao lương. Thứ rượu này phải dùng chén "tước" đúc bằng đồng xanh mới là có ý cổ kính. Thứ gạo làm rượu này cũng là thật tốt, nó vừa ngọt vừa thơm, nên dùng thứ đấu lớn mà uống mớ hợp ý rượu.
Lệnh Hồ Xung nói:
- Tại hạ là kẻ lỗ mãng đã không rõ chất rượu, cũng không hiểu đồ dùng. Nghiên cứu như huynh đài thật là hiếm có.
Tổ Thiên Thu trỏ vào hũ rượu đề bồn chữ "Bách thảo mỹ tửu" nói:
- Thứ "Bách thảo mỹ tửu" này là hái trăm thứ hoa thơm cỏ lạ ngâm vào trong rượu nên mùi thơm phảng phất như đi chơi ngoài nội ngày xuân, khiến người ta chưa uống đã say. Uống thứ "Bách thảo tửu" nên dùng chén cổ đẳng (làm bằng thứ rong cổn, cây cổ đẳng phải đủ trăm năm thì mới khoét thành chén được). Uống rượu bách thảo bằng chén cổ đẳng mùi thơm càng tăng lên bội phần.

Lệnh Hồ Xung nói:
- Cây sống trăm năm khó mà tìm được.
Tổ Thiên Thu nghiêm sắc mặt nói:
- Lệnh Hồ huynh nói sai rồi! Rượu bách thảo mỹ tửu so với bách niên cổ đẳng còn khó kiếm hơn nhiều.
Lệnh Hồ Xung vội chữa:
- Té ra là thế! Tại hạ không hiểu. Mong tiên sinh chỉ giáo.
Nhạc Bất Quần chú ý lắng tai nghe lời nghị luận của Tổ Thiên Thu. Ngôn từ có vẻ khoa trương, lại tựa hồ đúng lý. Tiên sinh thấy Đào Chi Tiên, Đào Cán Tiên bưng một hũ "bách thảo mỹ tửu" khác làm đổ dàn dụa ra đầy bàn, coi như một thừ rượu tầm thường. Tuy tiên sinh chưa nếm nhưng thấy mùi hương sực nức cũng biết ngay là thứ rượu thượng hảo, mà Đào cốc lục tiên phí phạm như vậy thật là đáng tiếc!
Tổ Thiên Thu lại nói:
- Uống thứ rượu Thiệu Hưng trạng nguyên hồng này cần phải dùng thứ chén sành cổ mà là chén đời Bắc tống, nếu không có thì dùng tạm thứ chén Nam Tống vậy. Dùng chén Nam Tống đã là khí thế suy kém rồi. Còn dùng đồ sành đời Minh thì nhỏ mọn quá. Uống rượu Lê Hoa thì phải dùng chén Phí Thúy. Lệnh Hồ huynh thử nghĩ coi trước cửa quán rượu Lê Hoa ở Hàng Châu có treo cờ xanh để ánh vào rượu Lê Hoa cho thêm vẻ huyền ảo. Nếu uống rượu Lê Hoa phải dùng chén Phí Thúy là vì lẽ đó.
Uống thứ rượu ngọc lộ tửu này phải dùng chén lưu ly. Rượu ngọc lộ sủi tăm như hạt châu rót vào chén lưu ly (pha lê) để trông rõ bên trong, cho phân biệt rượu ngọc lộ với thứ rượu khác.

Trong khoảnh khắc Tổ Thiên Thu nói tính cách tám thứ mỹ tửu cùng dùng đồ, thao thao bất tuyệt.

(Trích Tiếu Ngạo Giang Hồ - Kim Dung)
 

taplai

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-169
Ngày cấp bằng
8/6/06
Số km
551
Động cơ
586,510 Mã lực
"Nhân sinh tự cổ thùy vô tử
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh"

Văn Thiên Tường

Đế quốc Mông Cổ, từ Thành Cát Tư Hản và đến khi Hốt Tất Liêt, thu phục Trung Quốc năm 1280, là đế quốc rộng lớn nhất, tự cổ chí kim. Nhà Nam Tống (1127-1279), những năm sau cùng, cũng như các quốc gia lân cận khác, đã phải chiến đấu ác liệt và cam go với quân của Hốt Tất Liêt (1216-1294), rút cục thảm bại trước nhà Nguyên (1279-1368). Và những trang sử cuối của nhà Tống tuy bi thảm, nhưng oanh liệt, đặc biệt với Tống vong tam kiệt.
Năm 1279, trong trận hải chiến sau cùng ở đảo Nhai Sơn (Quảng Đông), và sự kiện này, học giả Nguyễn Hiến Lê, trong quyển Sử Trung Quốc, chương 5.B-Nam Tống, viết:

http://vnthuquan,net/diendan/tm.aspx?m=54721

- Tể tướng Lục Tú Phu, “không thể chống cự được nữa, cầm kiếm xua hết cả vợ con phải gieo mình xuống biển, rồi cõng vua Tống Quảng Vương nhảy theo…”
- Thống tướng Trương Thế Kiệt “chưa thất vọng, dò đường thuỷ qua Việt Nam , mưu sự khôi phục, nhưng giữa đường gặp bão, thuyền chìm, chết”.
- Và Tống vong tam kiệt, lúc đó, chỉ còn lại có Văn Thiên Tường đang bị Hốt Tất Liệt cầm tù tại Yên Kinh (Bắc Kinh).

Văn Thiên Tường (1236-1283), sinh tại tỉnh Giang Tây, nhưng gốc lâu đời ở tỉnh Tứ Xuyên, Ông đỗ đầu kỳ thi Tiến sĩ năm 1256, và sau đó giữ chức Hình bộ Thượng Thư, rồi Tể tướng, đời nhà Tống... Năm 1205, Thiết Mộc Chân, tức Thành Cát Tư Hản (1162-1127), từ Mông Cổ đã đưa quân đi chinh phục tận các miền xa xôi trên thế giới, đến tận vùng Ba Tư và một phần châu Âu, về sau đến đời cháu nội là Hốt Tất Liệt, do sự thất bại khi chiếm vùng đất rộng lớn, nên dồn về lại chinh phục toàn bộ Trung Quốc và các nước láng giềng, Miến Điện, Nhật, Viêt Nam, Chiêm Thành, Nam Dương… trong kế hoạch mười năm từ 1268-1279. Khi quân Nguyên tràn xuống phương Nam và bao vây Lô Lăng năm 1275, Văn Thiên Tường được lệnh vua Tống là Tống Triệu La, ra thương thảo với địch quân, không may, bị đám tiền quân địch giữ lại, nhưng ông đã trốn thoát được và chạy về Ôn châu (tỉnh Triết Giang) tiếp tục chiến đấu. Năm 1278, tại Hải Phong (Quảng Đông) ông thua trận và bị bắt. Ông tự tử hai lần, nhưng được cứu thoát. Tướng Nguyên bắt ông viết thư kêu gọi quân Tống đầu hàng, nhưng ông từ chối.

Tháng tư năm 1279, ông bị dẫn về (đi đường mất nửa năm) kinh đô Nguyên là Đại đô (Bắc kinh). Là người Mông cổ, nên Hốt Tất Liệt muốn dùng Văn Thiên Tường, làm lại Tể tướng, để dễ cai trị người Hán, vì dân Trung quốc lúc đó là 100 triệu người, mà Mông cổ chỉ có một triệu, nhưng ông từ chối. Ba năm sau (1283 ) vua Nguyên, vào tận nhà giam, gặp ông và hỏi: Tại sao không đồng ý ? Văn Thiên Tường trả lời: Tôi đã tận tụy phục vụ đất nước tôi, tiếc thay nay không còn cơ hội . Tôi không muốn nói gì thêm nữa và mong chỉ muốn được chết ngay mà thôi. Thế là, ngay hôm sau Hốt Tất Liêt đã cho lệnh hành hình. Vợ ông cũng bị giam tại đây, khi hay tin đã nói: Chồng tôi là tôi trung nước Tống, tôi không phản bộ chồng tôi .Và đã dùng dao cứa cổ tự sát. Sau này, Hốt Tất Liệt đã lấy làm tiếc về hành động vội vã này và thương tiếc người tôi trung nhà Tống, mà mình không xử dụng được. Nhà viết sử phương Tây William Durant, lên án cuộc hành hình man rợ này. Từ ngày bị quân Nguyên bắt, cho đến khi chết, Văn Thiên Tường đã ở trong ngục tù khoảng hơn 4 năm.
Năm thứ ba ở trong nhà lao của vua Nguyên, ông đã viết tuyệt phẩm Chính Khí Ca (Ode to the Noble Spirit), lưu lại hậu thế. Đầu bài thơ này, có đoạn mở đầu “tịnh tự” nói hoàn cảnh và lý do ông viết bài thơ này, như sau:

"Tôi đang bị giam tại một nhà tù ở phía Bắc, phòng giam bằng đất, rộng khoảng mét 2 mét, chiều dài khoảng 4 mét, lui tới mấy bước, phòng trống mà chật, nền thấp và ẩm; Bây giờ đang mùa hè, khí nóng dồn lên, trên dưới bốn bề, đứng ngồi không yên.
Gặp lúc thuỷ khí, lại bê bết bùn, hơi lạnh bốc lên,
Gặp lúc thổ khí, càng nắng càng nóng, bốn bề không gió,
Gặp lúc nhật khí, nhà như lò nung, càng nóng dữ dội
Gặp lúc hỏa khí, ngán cơm tù thối, đày ải con người.
Gặp lúc mễ khí, đôi vai cáu bẩn, mồ hôi nhể nhại
Gập lúc nhân khí, mùi hôi lẫn lộn, như chuồng xí, chuồng tiêu, chuột chết, khí độc toả ra.
Gặp lúc uế khí, chừng đó khí xông lên, chuyện cũng bình thường, nhưng người càng yếu đi, nằm sấp nằm ngửa, đã hai năm rồi, cũng không sao cả. vì trước kia đã có luyện tập, nên giờ được thế thôi. Mạnh Tử nói: “Tôi un đúc khí hạo nhiên của tôi”. Khí; có bảy loại, tôi chỉ có một, một chống bảy, có ngại lắm không? Nhưng khí hạo nhiên ấy, vốn cũng từ trời đất vậy thôi. Nên chi từ đó, trộm làm bài Chính Khí Ca này vậy.

Chính khí ca
Văn Thiên Tường

Thiên địa hữu chính khí
Tạp nhiên phú lưu hình
Hạ tắc vi hà nhạc
Thượng tắc vi nhật tinh
Ư nhân viết hạo thiên
Bái hồ tắc thương minh
Hoàng lộ đương thanh di
Hàm hòa thổ minh đình
Thì cùng tiết nãi hiện
Nhất nhất thùy đan thanh.
Tại Tề Thái Sử giản
Tại Tấn Đổng Hồ bút
Tại Tần Trương Lương chùy
Tại Hán Tô Vũ tiết
Vi Nghiêm tướng quân đầu
Vi Kê thị trung huyết
Vi Trương Thư Dương xỉ
Vi Nhan Thường Sơn thiệt
Hoặc vi Liêu Đông mạo
Thanh tháo lệ băng tuyết
Hoặc vi Xuất sư biểu
Quỷ thần khấp tráng liệt
Hoặc vi độ giang tiếp
Khảng khái thôn Hồ Yết
Hoặc vi kích tặc hốt
Nghịch thụ đầu phá liệt
Thị khí sở bàng bạc
Lẫm liệt vạn cổ tồn
Đương kỳ quán nhật nguyệt
Sinh tử an túc luân
Địa duy lại dĩ lập
Thiên trụ lại dĩ tôn
Tam cương thực hệ mệnh
Đạo nghĩa vi chi căn.
Ta dư cấu dương cứu
Lệ dã thực bất lực
Sở tù anh kỳ quan
Truyền xa tống cùng bắc
Đỉnh hoạch cam như di
Cầu chi bất khả đắc
Âm phòng khích quỷ hỏa
Xuân viện bí thiên hắc
Ngưu ký đồng nhất tạo
Kê thê phượng hoàng thực
Nhất triêu mông vụ lộ
Phân tác câu trung tích
Như thử tái hàn thử
Bách lệ tự tích dịch
Ai tai thư như trường
Vi ngã an lạc quốc
Khởi hữu tha mậu xảo
Âm dương bất năng tặc
Cố thử cảnh cảnh tại
Ngưỡng thị phù vân bạch
Du du ngã tâm bi
Thương thiên hạt hữu cực
Triết nhân nhật dĩ viễn
Điển hình tại túc tích
Phong thiềm triển thư độc
Cổ đạo chiếu nhan sắc.

Dịch:

Bài ca chính khí

Bản dịch: Quốc Thái

Trời đất có chính khí
Phân hình thể khác nhau
Dưới hóa ra sông núi
Trên biến thành trời sao
Nơi người, "Hạo Nhiên" khí
Dâng tỏa khắp trời xanh
Gặp lúc thanh bình chỉ
Êm đềm và trọn lành
Khốn cùng mới rõ tiết
Thảy trọn nét đan thanh
Sử Tề ghi thẻ thắm
Bút Ðổng Hồ lưu danh
Chùy Trương Lương rửa hận
Cờ Tô Vũ dãi dầu
Ðầu Nghiêm Nhan bất khuất
Máu Kê Thiệu đẫm bào
Răng Thư Dương mắng giặc
Lưỡi Thương Sơn không sờn
Mũ Liêu Ðông ẩn sĩ
Trong sạch, tuyết không hơn
Khi là Xuất Sư Biểu
Hào khí cảm quỷ thần
Khi mái chèo Tổ Ðịch
Quyết thề chôn quân Hồ
Khi là hốt đánh giặc
Ðầu phản nghịch vỡ rời
Khắp nơi nơi, bàng bạc
Khí lẫm liệt muôn đời
Khi khí tràn nhật nguyệt
Cuộc tử sinh nhẹ hời
Khí dựng nên giềng đất
Khí làm cao cột trời
Tam cương là sinh mạng
Ðạo nghĩa là cội nguồn
Ta, lúc lâm nguy khốn
Bộ hạ chẳng ra hồn
Nên tù binh cam phận
Bị giải tận bắc phương
Vạc dầu sôi vị ngọt
Cầu mãi, trời không thương
Phòng giam ngập lửa quỉ
Viện xuân che tối trời
Bò, ngựa ăn chung máng
Phượng, gà nay sánh đôi
Chịu sương mù một sáng
Trong rạch thành sương khô
Trải hai mùa nắng lạnh
Trăm bệnh vẫn chưa vô
Thương thay, chốn ẩm thấp
Là nơi ta yên vui
Nào phải lo né bệnh
Tử thần sao chẳng mời ?
Lòng vẫn còn trong sáng
Trông mây trắng nổi trôi
Lòng thấy buồn man mác
Hiểu ta không, trời ơi !
Triết nhân ngày lại vắng
Gương xưa giờ im hơi
Gió bên hiên mở sách
Ðạo xưa soi mặt người

Bản dịch của Nguyễn Hiến Lê (không đầy đủ)

Trời đất có chính khí
Lẫn lộn trong các hình
Dưới đất là sông núi
Trên trời là nhật, tinh.
Tại người là hạo nhiên
Vũ trụ đầy anh linh
Khí hoà nhã trước sân
Là gặp lúc thanh bình
Thời cùng cao tiết hiện
Nhất nhất ghi sử xanh.
Ở Tấn, bút Đổng Hồ
Ở Tề, thẻ thái sử
Ở Tần, dùi Trương Lương
Ở Hán, cờ Tô Vũ
Là đầu Nghiêm tướng quân
Là huyết Kê thị trung
Là răng Trương Tuy Dương
Là lưỡi Nhan Thường Sơn
Hoặc là mão Liêu Đông
Tiết trong hơn băng, tuyết.
Hoặc là biểu xuất sư
Quỷ thần khóc tráng liệt
Hoặc gõ chèo qua sông
Khẳng khái nuốt rợ Hiệt
Cầm hốt đập bể sọ
Nghịch tặc phải rên siết.
Khi ấy nó bàng bạc
Lẫm liệt vạn cổ còn"


Will Durant khen khí tiết của ông.
"Trong một đoạn văn vào hàng nổi danh nhất của Trung Hoa, Văn Thiên Tường viết: "Ngục của tôi chỉ có hai con ma trơi chiếu sáng, không một ngọn gió nào thổi vào chỗ tối tăm, tịch liêu này cả.....Sống trong sương mù và trong không khí ẩm thấp, tôi thường nghĩ rằng sắp chết tới nơi, vậy mà trọn hai năm, bệnh tật hoài công lảng vảng chung quanh tôi. Riết rồi tôi thấy cái ngục nền đất ẩm thấp, hôi hám này là một cảnh thiên đường. Vì thế mà tôi giữ vững được ý chí, ngắm mây trắng trôi trên đầu mà lòng buồn mênh mông như vòm trời vậy"
"Sau cùng Hốt Tất Liệt sai người dẫn ông tới trước mặt mình hỏi: "Ngươi muốn gì" Văn Thiên Tường đáp: "Thiên Tường này đội ơn nhà Tống mà được làm tể tướng thì sao có thể thờ hai nhà được, ta chỉ xin được chết thôi". Hốt Tất Liệt chấp nhận. Khi lưỡi búa của tên đao phủ hạ xuống, ông quay mặt về Nam Kinh, như thể vua Tống còn ở đó, mà vái dài".
Will Durant chê hành động đó của Hốt Tất Liệt là "man rợ". Mấy hàng "nổi danh nhất" của Văn Thiên Tường. Will đã dẫn ở trên ít người được biết, nhưng bài chính khí ca của ông "tráng liệt như cầu vồng vắt ngang trời, mỗi lần ngâm lên thấy máu sôi trong lòng", nghe như một bài tiến quân ca, thì nhà nho Trung Hoa, Việt Nam thời xưa không ai không thuộc nó các vị như Phan Đình Phùng, Hoàng Diệu, Nguyễn Trung Trực......của ta tất đã nhiều đêm vung bảo kiếm, nhìn ngân hà mà ca:

Thiên địa hữu chính khí
Tạp nhiên phú lưu hình
Hạ tắc vi hà nhạc
Thượng tắt vi nhật tinh......

Trời đất có chính khí
Lẫn lộn trong các hình
Dưới đất là sông núi
Trên trời là nhật, tinh......

Văn Thiên Tường, Trương Thế Kiệt, Lục Tú Phu được đời sau gọi là Tống vong tam kiệt (Ba hào kiệt thời Tống mất nước) . Có ba vị đó với Nhạc Phi, Tống cũng đỡ tủi..

Bài Chính Khí Ca thuộc thể Ca (song poem) gồm 30 khổ đôi 5 là 60 câu, là tiếng ca thể hiện cái tri thức của kẻ sĩ đương quyền, lòng yêu nước và thái độ hoà hoãn của vương triều Tống, qua sự xâm lược của quân phương Bắc (Nguyên), và với một thái độ lạc quan và vô uý, bởi ảnh hưởng phái Đạo gia, rằng sau khi con người rời ra khỏi cái thân thể vật chất, sẽ được trở về một thế giới bất tử và toàn thiện. Thi ca của ông đã góp phần phong phú văn học đời Tống và Trung quốc và bài Chính Khí Ca này, về sau được phổ biến rộng rãi trong giới sĩ phu các nước lân cận như Nhật Bản, Đại Hàn,Việt Nam như là bài học thuộc lòng về tinh thần yêu nước.

Hiện nay, ở phía Đông thành Bắc Kinh, có một ngôi trường học lấy tên Văn Thiên Tường, cạnh đó là ngôi đền, được xây cất năm 1376, trên nền đất của nhà tù, nơi ông đã viết bài Chính Khí Ca này, ở số 63 Fuxue Hutong, quận Dongchen. Trong đền thờ, ở gian giữa, hai bên cột, có khắc câu xưng tụng ông: “Nhà trí thức hàng đầu, Tể tướng triều Tống-Người con hiếu thảo sông Đông, thần dân trung tín.”

Về gia cảnh, ông có hai con trai, nhưng đều mất sớm, nên nuôi ba người con của em, như con mình và sau này, chính ba người con này, đã phục quốc, đánh nhà Nguyên, theo tinh thần Chính Khí Ca mà ông đã để lại.

Ở Hồng Kông, có một làng tên goi là San Tin, mà đa phần người dân ở đây đều mang họ Wen (Văn) mà ai cũng nghĩ rằng, đó là hậu duệ của Văn Thiên Tường (Wen Tiangxiang). Chính tại nơi đây, họ đã dưng một tượng lớn trong một công viên, lấy tên ông, để tưởng nhớ. Ngoài ra, người Tàu, từ Triều Châu, qua ở Việt Nam chúng ta, mang họ Văn, đều là hậu duệ của vị Tể tướng ái quốc này.
 
Chỉnh sửa cuối:

Phong Vân

Xe buýt
Biển số
OF-21552
Ngày cấp bằng
23/9/08
Số km
603
Động cơ
498,378 Mã lực
Nhất thiết hữu vi pháp.
Như mộng huyễn bào ảnh,
Như lộ diệt như điện,
Ứng tác như thị oán!
 

Phong Vân

Xe buýt
Biển số
OF-21552
Ngày cấp bằng
23/9/08
Số km
603
Động cơ
498,378 Mã lực
Những mơ xóa Ác ở trên đời,
Ta phó thân ta với đất trời.
Ác xóa đi, thay bằng cực Thiện
Tháng ngày biến hóa, Ác luân hồi!​
 

taplai

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-169
Ngày cấp bằng
8/6/06
Số km
551
Động cơ
586,510 Mã lực
Omar Khayyám

Omar Khayyám (18 tháng 5 năm 1048 – 4 tháng 12 năm 1123; tên đầy đủ là Ghiyath al-Din Abu'l-Fath Omar ibn Ibrahim Al-Nisaburi Khayyámi; tiếng Ả Rập: غیاث الدین ابو الفتح عمر بن ابراهیم خیام نیشابوری) là một nhà thiên văn học, toán học, nhà thơ người Iran. Ông sinh tại thành phố Nisapure, gần thủ đô Mashhad, miền Đông Iran. Tên của ông nhiều khi được viết như Omar Khayam, Omar al-Khayyami, Omar Chayam...

Sự nghiệp
Omar Khayam đã để lại cho nhân loại nhiều tác phẩm giá trị trong các lĩnh vực thiên văn học, toán học, triết học, khoáng sản học,... Trong đó một số tác phẩm đã bị mất, như bản đồ các vì sao ông vẽ năm 1079.
Năm 1073, ông cùng nhiều nhà khoa học danh tiếng khác xây dựng một đài thiên văn tại Isfahan và làm việc tại đó. Thời gian này, ông đã tiến hành một cuộc cải cách lớn về lịch, lập ra một hệ thống lịch mới. Ông cho rằng chiều dài một năm là 365,2421985815 ngày.
Omar Khayam cũng khá nổi tiếng trong giới toán học khi đề xuất phương pháp giải bài toán phương trình bậc ba trong trường hợp parabol và đường tròn.
Tuy nhiên, cuộc đời của ông cũng đầy những năm tháng cay đắng. Vì những quan điểm chính trị, tôn giáo phản loạn, ông đã bị đày ải nhiều nơi, nhưng cuối cùng cũng về được thành phố quê hương và chết ở đó.

Thơ Omar Khayam:

1

Thức dậy đi và hãy ngắm vừng đông
Tuổi trẻ ơi hãy mau rót rượu nồng.
Giây phút này tuyệt vời đang đi khỏi
Một mai này ngươi tìm lại đừng mong.

2

Cô bán hàng hãy mang rượu ra đây
Cuộc đời ta được sống chẳng bao ngày.
Việc ở đời cứ nhận như quà tặng
Đừng sợ gì đừng đổ lỗi cho ai.

3

Cuộc đời ngươi dù đã đủ đầy
Đừng vội vàng từ chối cơn say.
Sự giàu có hôm nay ban tặng
Có thể trời lấy lại ngày mai.

4

Xua nỗi buồn ra khỏi cuộc đời ta
Bởi ngày mai Cát bụi cả thôi mà
Thành Cát bụi ta nằm trong Cát bụi
Chẳng Cuối cùng, chẳng Rượu, chẳng Bài ca.

5

Một người khôn thức người ngủ gật gù:
Tỉnh dậy đi! Ai hạnh phúc trong mơ.
Hãy vứt ngay cái trò như người chết
Sau này chết rồi hãy ngủ, hãy mơ.

6

Ngày Hôm Qua đừng có tơ hoài
Đừng sợ hãi đứng trước Ngày Mai.
Đừng buồn về tương lai, quá khứ
Hãy sống bằng hạnh phúc Hôm Nay.

7

Quyển sách đời tôi đang đoán từng dòng
Thì vẳng bên tai giọng của người khôn:
Chẳng gì hơn được chìm vào quên lãng
Trong vòng tay người đẹp dáng như thông.

8

Môi của người như ngọc, dáng – như thông
Rót rượu ra cho thêm đẹp vườn hồng.
Ta sợ người điên cuồng như thú dữ
Hãy nhớ đừng ăn thịt đấy, nghe không!

9

Uống rượu vào cho vui vẻ, hân hoan
Rồi ngày mai ta về với suối vàng.
Thật ngớ ngẩn tin rằng thiên đàng đợi
Lại buồn cười trước địa ngục hoang mang.

10

Dù nhà ngươi có ngựa thần có thể bay lên tận trời xanh
Thì cũng đừng từ chối hạnh phúc mà số phận đã dành.
Ông trời kia chẳng biết đúng hay không đúng
Hôm nay ông đập vỡ bình mai ông đập chén luôn.


11

Tôi đề nghị: "Hãy khuyên cho mấy lời"
Nhà thông thái ung dung trả lời tôi:
"Kẻ hạnh phúc trong tay ôm người đẹp
Và tránh xa cuốn sách dạy làm người".

12

Em yêu ơi mau rót rượu đi em
Rửa sạch hôm nay hết những ưu phiền.
Ngày Mai ư? Ngày Mai đà có thể
Như những người đi trước bảy nghìn năm.

13

Như gió trên đồng như nước trên sông
Ngày trôi đi nhưng dấu vết không còn.
Ta hãy sống với ngày ta đang có
Tiếc thương về quá khứ chỉ hoài công.

14

Thử phóng tầm mắt nhìn ra muôn phương
Nghĩ về ngày mai mà thấy tiếc thương.
Nếu khôn ngoan chỉ sống ngày đang sống
Đừng để con tim phải khổ, phải buồn.

15

Thôi uống rượu và quên hẳn người tình
Sống như thế thà chết đi còn hơn.
Đời ngắn ngủi. Sau này vô danh tiếng
Chẳng còn gì dù chỉ dấu chân son.

16

Đừng sợ hãi dù hôm nay đau đớn
Đừng nghi ngờ, thời gian làm lành hẳn.
Phút giây này hãy cứ sống cho vui
Còn sau đấy, điều gì đến, cứ đến.

17

Trên đời này chỉ sẵc sắc không không
Hãy vui lên, đừng rầu rĩ trong lòng.
Điều gì qua – đã qua, điều gì đến – chẳng biết
Đừng bận lòng vì đời chẳng như mong.

18

Hát ra hát – như hoạ mi, cho hay
Uống ra uống – với bạn bè, cho say.
Bên hoa hồng trong vườn khoe sắc thắm
Đôi ba lần nhớ quì xuống mỗi ngày.

19

Hôm qua cơn mưa tưới khắp vườn tược
Hôm nay con tim rộn ràng trong ngực
Trên cỏ xanh uống rượu với người tình
Cho sống lại những ai nằm dưới đất.

20

Uống rượu đi kẻo mai về cát bụi
Không bạn bè, vợ con, một mình thui thủi.
Có một điều xin nói nhỏ vào tai:
Hoa khi đã tàn, hoa không tươi lại.

21

Cơn gió mát gợi cho lòng khao khát
Tuyệt vời thay giữa trời cao tiếng hát
Suối róc rách và chim hót trên cành
Tất cả tuyệt vời nhưng chỉ với em.

22

Nhiều bông hoa cho ngươi nở trong đời
Đừng tin gì – đều gian dối cả thôi
Cuộc đời ta là kẻ đi, người đến
Hái hoa đi! Thời gian sẽ hái ngươi.

23

Người hạnh phúc ngồi trên bãi cỏ xanh
Bên chén rượu, âu yếm với người tình
Nếu nói rằng người nghĩ về Thượng Đế
Hay ý trời – qủa là chuyện huyên thiên.

24

Hoa hồng mỉm cười bên chén rượu vui
Chim hoạ mi say rượu cũng bồi hồi
Ghé tai tôi: "Cuộc đời không trở lại
Một mai này về cát bụi cả thôi".

25

Mỗi sáng dậy ta lại bắt tay nhau
Trong phút giây ta quên mọi khổ đau.
Ta khoan khoái thở khí trời buổi sớm
Ngực đầy căng ta sung sướng thở phào.

26

Chẳng tội gì đi ngồi chờ ngày chết
Chờ một ngày tôi về làm đất sét.
Đến một ngày tôi chưa trở thành bình
Mỗi buổi sáng bình rượu đầy uống hết.

27

Nếu cuộc đời này có rượu và em
Suối róc rách và chim hót trên cành
Ai đấy bảo cuộc đời là bể khổ
Tôi nghĩ rằng thiên đàng cũng đâu hơn.

28

Gương mặt phụ nữ dịu dàng và hoa cỏ xanh tươi
Tôi vẫn ham mê một khi còn sống trên đời
Tôi đã, đang và có lẽ vẫn còn uống rượu
Uống đến giây phút cuối cùng của cuộc đời tôi.

29

Tôi hỏi già về thế giới bên kia
Trong góc nhà đang uống rượu say sưa.
"Cứ uống đi! Tới đó còn xa lắm
Những kẻ ra đi chưa thấy ai về".

30

Vẫn ham mê từng gương mặt dễ thương
Và ham mê một thú uống rượu nồng.
Tôi cố gắng phần của mình nhận hết
Đến một ngày riêng chưa trở thành chung.

31

Bên nhau vui vẻ dưới trăng này
Rượu nồng xin hãy uống cho say
Mai mốt ta về thân cát bụi
Trăng vàng muôn thuở vẫn còn đây.

32

Tỉnh như sáo tôi tìm rượu và vui
Thấy bông hoa khô héo, vẻ ngậm ngùi.
Tôi hỏi hoa: "Vì đâu mà nên nỗi?"
Hoa trả lời: "Vì uống rượu và vui."

33

Sao hoa tươi tàn chóng vậy, than ôi!
Vườn địa đàng ai biết được trên trời.
Cứ vui đi kẻo mai rồi quên lãng
Đời không còn nhắc tên bạn và tôi.

34

"Cần phải sống – dạy ta trong đời và cả trong kinh –
Các con sống thế nào thì cứ thế hồi sinh!"
Tôi với người tình không rời xa chén rượu
Để thức tỉnh ra trong ngày phán xử cuối cùng.

35

Cả trời đất bước vào tháng ăn chay
Không ai yêu và cũng chẳng ai say.
Bình rượu nồng đành tạm thời quên lãng
Vườn hoa dành cho lũ trẻ đùa chơi.

36

Đừng sợ gai nếu muốn chạm hoa hồng
Đừng sợ say nếu muốn uống rượu nồng.
Còn tình yêu nếu tuyệt vời say đắm
Thì con tim tan vỡ cũng đừng thương.

37

Hãy hy sinh tất cả vì người tình
Ngay cả những gì ta quí hơn mình
Trao tình yêu đừng bao giờ tính toán
Dù cả cuộc đời, dù có vỡ tim.

38

Nhìn thấy em lòng tôi bao sung sướng
Chẳng biết nói gì, tôi đành im lặng.
Thượng Đế ơi! Sao con khát thế này
Trước mặt con đang chảy nguồn rượu sống.

39

Đau khổ chia ly không thể nào quên
Anh đi tìm em, tin chuyện thần tiên
Em ở đâu, về với người đau khổ
Để cho anh được chết ở trong hồn.

40

Như cái bóng khắp nơi anh đi tìm
Em ở đâu cho anh được van xin:
"Hãy quay về cho kẻ này khỏi chết
Và làm mọi điều theo lệnh của em".

41

Hình bóng em che khuất cả thiên thần
Khi bên em thiên đường cũng lãng quên
Anh hôn dấu chân em như thần thánh
Em tuyệt vời hơn cả vạn danh nhân.

42

Lòng ngọt ngào trong vòng tay âu yếm
Hãy cúi đầu trước người yêu cầu khẩn
Đừng trách chi thói đỏng đảnh của người
Hãy yêu đi và cám ơn số phận.

43

Ngày hôm nay không phải hết tiền
Nhưng chén rượu anh để sang bên.
Anh uống rượu cho hồn say đắm
Nhưng bây giờ anh đã say em.

44

Tình là trẻ trung, vô tội, đáng yêu
Trên đời này chỉ thánh thiện tình yêu.
Ai không yêu người đó nào có khác
Đã chết rồi, bởi lẽ sống là yêu.

45

Đời cho anh cây cỏ, rượu, hoa hồng
Nhưng tiếc rằng thiếu em giữa mùa xuân
Đời không em chẳng gì an ủi nổi
Nơi có em – tất cả đều không cần.

46

Trong cuộc đời nhiều mất mát, đắng cay
Biết lấy gì so sánh với em đây
Đành lấy mặt trời sánh cùng gương mặt
Và dáng em so với dáng thông này.

47

Da thịt em thơm mùi của hoa hồng
Mái tóc em còn phảng phất mùi hương
Đôi môi em đỏ bừng như hồng ngọc
Có điều gì bên cánh cửa run run.

48

Hãy đến đây cho yên lặng trong hồn
Em đến đây rồi! Có phải em không?
Chẳng vì hồn mà ta vì Thượng Đế
Hãy đưa đây cho anh nắm tay em.

49

Trên đời này liệu có ai làm được
Dìm đam mê trong khổ đau nước mắt
Chỉ để chạm lên mái tóc người tình
Tự cho mình tháo tung ra chiếc lược.

50

Em đến đây cho bừng sáng tâm hồn
Hạnh phúc mỉm cười, đau khổ lãng quên
Dù trăng có tàn, nến kia có tắt
Đêm có em anh ngỡ mặt trời lên.
 

taplai

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-169
Ngày cấp bằng
8/6/06
Số km
551
Động cơ
586,510 Mã lực
103

Làm gì có ai vô tội ở trên đời
Người không tội là không sống mà thôi.
Tôi mắc tội, Ngài đem bắt trị tội
Sao lại bảo rằng Ngài cao thượng hơn tôi?

104

Mọi vương quốc trên đời đã đi qua
Tốt hơn rượu ngươi không thể tìm ra
Tiếng thở dài của người yêu dễ chịu
Hơn mọi lời cầu nguyện chốn phù hoa.

151

Đời trôi nhanh, đừng sợ gì khổ đau
Mọi việc trên đời tất cả qua mau.
Ta chỉ được phút giây này sung sướng
Đừng buồn vì ngày trước, đừng khóc bởi ngày sau.

152

Ngày được sống trời cho đâu có nhiều
Thật tội lỗi nếu thiếu rượu, tình yêu.
Chẳng cần lo vũ trụ già hay trẻ
Bắt phải đi thì cứ vậy mà theo.

153

Tội gì phải luôn đau khổ ngậm ngùi
Chỉ nên tìm đọc sách có niềm vui.
Hãy uống rượu, làm những điều mong muốn
Ngươi biết rồi, đời là khoảnh khắc thôi.

154

Từng có một thời ta mong muốn, khát khao
Nhưng khả năng ta giới hạn đã ngăn rào.
Nên bởi thế đừng bắt mình khổ sở
Chỉ vì những điều vớ vẩn không đâu.

155

Bình rượu kia xin cứ rót thật đầy
Thà suốt đời vui với những cơn say
Cũng còn hơn những gì trời an ủi
Trước khi phải về muôn thuở ngủ say.

157

Hãy vuốt ve mái tóc đen óng mượt
Uống rượu nồng, nói những lời đường mật
Đến một ngày thần chết chưa bắt ta
Những lạc thú trên đời cần nắm bắt.

158

Đừng trồng cây khổ sở với u sầu
Hãy tìm khôn ngoan trong sự bắt đầu
Hãy biết yêu người đẹp và yêu rượu
Bởi cuộc đời ta sống có dài đâu.

159

Tôi chẳng biết về đâu sau khi chết
Lên thiên đàng hay phải về địa ngục
Nhưng một ngày tôi còn sống nhăn răng
Rượu, người tình không thể nào xa được.

166

Em yêu ơi ai biết được ngày mai
Ta hãy quên phiền muộn dưới trăng này
Uống đi em, kẻo một ngày nào đó
Trăng lại về còn ta đã xa bay.

172

Trong những lời khuyên tôi nhớ câu này:
Sống tự do, đời ngắn ngủi lắm thay!
Người khôn ngoan đem tỉa cành, cắt cỏ
Nhưng tự cắt mình dại dột lắm thay!

173

Được trời cho thì cứ hưởng đi thôi
Uống rượu vào như hoàng đế lên ngôi
Trước Thượng Đế dại khôn đều vậy cả
Nhận hết đi những lạc thú của đời.

174

Trên cỏ xanh, bên dòng suối rầm rì
Ta đọc thơ, uống rượu tận đêm khuya.
Em có nghe dòng nước đang thủ thỉ:
"Ta đã ra đi là sẽ không về".
 

taplai

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-169
Ngày cấp bằng
8/6/06
Số km
551
Động cơ
586,510 Mã lực
251

Tất cả đổi thay: sông, biển, ao, hồ
Tất cả đổi thay: năm, tháng, ngày, giờ.
Nhưng số phận ta thoát đâu cho khỏi
Nếu thoát rồi thì đã cõi hư vô.

252

Tất cả những gì Thượng Đế cho ta
Không thể co vào, không thể kéo ra
Hãy gắng tiêu những gì mà mình có
Đừng tìm thêm hoặc vay mượn gần xa.

253

Trời cho rồi trời lấy – đời là thế
Tại vì sao, hiểu ra ta không thể.
Uống được bao nhiêu đã có mắt nhìn
Nhưng con mắt cũng không cho nhìn đủ.

261

Lý trí lúc nào cũng nhủ, cũng khuyên:
"Hãy quí trọng từng giây phút của mình
Bởi con người không như loài cây cỏ
Chết xuống đất rồi không thể hồi sinh".

262

Ta là nguồn gốc mọi sung sướng, khổ đau
Vừa như mạch nước trong, vừa như nước nhiễm dầu.
Con người ta như bóng hình trong gương vậy
Vừa chẳng đáng gì, vừa vĩ đại biết bao.

263

Ai hằng ngày vẫn có đủ cơm ăn
Ai là người có được chốn nương thân
Ai chẳng thầy, chẳng tớ cho ai cả
Sống ở đời như thế chẳng gì hơn.

264

Con người ta là chân lý cuộc đời
Chỉ người khôn biết, chứ không phải mọi người
Uống rượu vào để cho không nhầm lẫn
Rằng tất cả mọi người – một mẫu mà thôi.

265

Đừng sợ gì dù sóng gió biển khơi
Con người ơi! Loài khỉ khác với người.
Từ điều thiện không sinh ra điều ác
Trời cho cái nhìn để phân biệt đấy thôi.

266

Dù trăm năm tôi phải cháy thành tro
Tôi chẳng sợ gì địa ngục trong mơ
Mà chỉ sợ dàn đồng ca ngớ ngẩn
Của những người dốt nát lại mồm to.

267

Chẳng có gì đàng hoàng và dễ thương hơn
Bằng cây tùng và huệ trắng trong vườn.
Tùng có trăm tay nhưng không dang ra phía trước
Huệ có trăm lưỡi nhưng luôn đứng lặng im.

292

Tìm niềm vui cho bè bạn cho mình
Sống tự do, số phận mặc trời xanh
Chẳng cần những gì ngày mai đành bỏ lại
Hãy sống vui, đừng khổ với bon chen.

293

Nếu ngươi là nô lệ của dục vọng thấp hèn
Khi về già trống trải như mái nhà hoang
Hãy nhìn lại mình và nghĩ suy cho kỹ:
Ngươi là ai, ở đâu và những thứ đa mang.

294

Thời buổi này kết bạn chỉ ít thôi
Đừng hám lời khen, đừng dễ nghe lời
Suy xét kỹ đi rồi ngươi sẽ thấy:
Kẻ ngươi tin là kẻ phản bội ngươi.

295

Chớ tìm bạn nơi chân trời góc bể
Bạn như thế khổ đau không chia sẻ
Thà cô đơn đi tìm thuốc cho mình
Tự khổ đau tìm ra người an ủi.

296

Phải rạch ròi với thù và bạn
Ngọc nếu sáng, trong đêm vẫn sáng.
Xúc phạm bạn – bạn biến thành thù
Bắt tay thù – biến thù thành bạn.

297

Người xưa nói: làm người phải biết nghề
Tốt nhất là theo việc của ông cha.
Nhưng thời nay người ta thường nghĩ khác:
Chỉ cần vàng, còn lại chỉ vẩn vơ!

298

Hãy bằng lòng với những gì mình có
Sống theo mình, quí tự do, danh dự
Chớ ghen chi kẻ giàu có hơn mình
Người nghèo hơn trên đời còn vô số.

299

Người chăm lo sắc đẹp, đâu phải đàn ông
Người lo trang điểm cho mình cũng bằng không.
Hãy biết chăm lo cho tâm hồn mình thêm đẹp
Bởi phụ nữ mới là gương mặt đẹp của chồng.
 

taplai

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-169
Ngày cấp bằng
8/6/06
Số km
551
Động cơ
586,510 Mã lực
Thơ Omar Khayam:


Người dịch: Hồ Thượng Tuy

XXVI.
Oh, come with old Khayyám, and leave the Wise
To talk; one thing is certain, that Life flies;
One thing is certain, and the Rest is Lies;
The Flower that once has blown for ever dies.

XXVII.
Myself when young did eagerly frequent
Doctor and Saint, and heard great Argument
About it and about: but evermore
Came out by the same Door as in I went.

XXVIII.
With them the Seed of Wisdom did I sow,
And with my own hand labour’d it to grow:
And this was all the Harvest that I reap’d—
“I came like Water, and like Wind I go.”

XXIX.
Into this Universe, and why not knowing,
Nor whence, like Water willy-nilly flowing:
And out of it, as Wind along the Waste,
I know not whither, willy-nilly blowing.

XXX.
What, without asking, hither hurried whence?
And, without asking, whither hurried hence!
Another and another Cup to drown
The Memory of this Impertinence!

XXXI.
Up from Earth’s Centre through the Seventh Gate
I rose, and on the Throne of Saturn sate,
And many Knots unravel’d by the Road;
But not the Knot of Human Death and Fate.

XXXII.
There was a Door to which I found no Key:
There was a Veil past which I could not see:
Some little talk awhile of Me and Thee
There seemed—and then no more of Thee and Me.

XXXIII.
Then to the rolling Heav’n itself I cried,
Asking, “What Lamp had Destiny to guide
Her little Children stumbling in the Dark?”
And—“A blind Understanding!” Heav’n replied.

XXXIV.
Then to the earthen Bowl did I adjourn
My Lip the secret Well of Life to learn:
And Lip to Lip it murmur’d—“While you live
Drink!—for once dead you never shall return.”

XXXV.
I think the Vessel, that with fugitive
Articulation answer’d, once did live,
And merry-make; and the cold Lip I kiss’d
How many kisses might it take—and give!

XXXVI.
For in the Market-place, one Dusk of Day,
I watch’d the Potter thumping his wet Clay:
And with its all obliterated Tongue
It murmur’d—“Gently, Brother, gently, pray!”

XXXVII.
Ah, fill the Cup:—what boots it to repeat
How Time is slipping underneath our Feet:
Unborn To-morrow and dead Yesterday,
Why fret about them if To-day be sweet!

XXXVIII.
One Moment in Annihilation’s Waste,
One Moment, of the Well of Life to taste—
The Stars are setting and the Caravan
Starts for the Dawn of Nothing—Oh, make haste!

XXXIX.
How long, how long, in definite Pursuit
Of This and That endeavour and dispute?
Better be merry with the fruitful Grape
Than sadden after none, or bitter, Fruit.

XL.
You know, my Friends, how long since in my House
For a new Marriage I did make Carouse:
Divorced old barren Reason from my Bed,
And took the Daughter of the Vine to Spouse.

XLI.
For “Is” and “Is-not” though with Rule and Line,
And “Up-and-down” without, I could define,
I yet in all I only cared to know,
Was never deep in anything but—Wine.

XLII.
And lately by the Tavern Door agape,
Came stealing through the Dusk an Angel Shape
Bearing a Vessel on his Shoulder; and
He bid me taste of it; and ’twas—the Grape!

XLIII.
The Grape that can with Logic absolute
The Two-and-Seventy jarring Sects confute:
The subtle Alchemist that in a Trice
Life’s leaden Metal into Gold transmute.

XLIV.
The mighty Máhmúd, the victorious Lord
That all the misbelieving and black Horde
Of Fears and Sorrows that infest the Soul
Scatters and slays with his enchanted Sword.

XLV.
But leave the Wise to wrangle, and with me
The Quarrel of the Universe let be:
And, in some corner of the Hubbub coucht,
Make Game of that which makes as much of Thee.

XLVI.
For in and out, above, about, below,
’Tis nothing but a Magic Shadow-show,
Play’d in a Box whose Candle is the Sun,
Round which we Phantom Figures come and go.

XLVII.
And if the Wine you drink, the Lip you press,
End in the Nothing all Things end in—Yes—
Then fancy while Thou art, Thou art but what
Thou shalt be—Nothing—Thou shalt not be less.

XLVIII.
While the Rose blows along the River Brink,
With old Khayyám the Ruby Vintage drink;
And when the Angel with his darker Draught
Draws up to Thee—take that, and do not shrink.

XLIX.
’Tis all a Chequer-board of Nights and Days,
Where Destiny with Men for Pieces plays:
Hither and thither moves, and mates, and slays,
And one by one back in the Closet lays.

L.
The Ball no Question makes of Ayes and Noes,
But Right or Left as strikes the Player goes;
And He that toss’d Thee down into the Field,
He knows about it all—He knows—HE knows!


XXVI.
Theo Khayyam già, Khôn ngoan bỏ lại
Chỉ có một điều: Cuộc đời đi mãi
Chỉ có một điều: Hoa nở một lần
Rồi tàn lụi, còn lại đều Gian dối.

XXVII.
Thời tuổi trẻ, ta sung sướng biết bao
Nghe theo Thầy, theo Thánh được rất lâu
Họ tranh luận về chuyện này chuyện khác
Nhưng luôn ra theo cánh Cửa khi vào.

XXVIII.
Cùng với họ, ta gieo hạt Giống Khôn
Lao động làm cho hạt giống lớn lên
Và đây là Kết quả khi thu hoạch:
“Đến như Nước, rồi đi như Gió rừng”.

XXIX.
Vào Vũ trụ, không biết được tại sao
Và như Nước, không biết được từ đâu
Rồi như Gió lướt bay trên Sa mạc
Dù muốn dù không, chẳng biết về đâu.

XXX.
Xin đừng hỏi ta rằng: đến từ đâu?
Và xin đừng hỏi gì chuyện: về sau?
Chén rót đầy, rồi rót cho đầy nữa
Để ta quên điều Sỉ nhục trong đầu.

XXXI.
Từ lòng Đất ta xuyên qua Bảy Cổng
Rồi ta ngồi lên Ngai vàng Số phận
Và ta lẫn lộn Đầu mối trên Đường
Nơi đan kết Cái chết và Số phận.

XXXII.
Trước mặt ta cánh Cửa khoá im lìm
Và tấm Lưới, ta không thể nhìn xuyên
Về Em, về Anh, có lời to nhỏ
Nhưng sau chẳng còn Em cũng như Anh.

XXXIII.
Ta hướng về bầu Trời xanh, kêu lên
Hỏi: “Ngọn đèn nào của Số phận dẫn đường
Cho bầy Trẻ vấp váp trong Bóng tối?”
Câu trả lời: “Mù quáng!” tự Trời xanh.

XXXIV.
Khi đó ta ép Môi vào Chén đất
Để mong hiểu ra Ngọn Đời bí mật
Môi kề Môi, chén bảo: “Cứ uống đi
Kẻo không quay về sau khi đã chết”.

XXXV.
Ta nghĩ rằng Bình chứa nguồn rượu sống
Trả lời ta, từng một thời đã sống
Từng vui tươi, còn Môi lạnh ta hôn
Biết bao nụ hôn đã tan – và tặng.

XXXVI.
Một hôm trong Chợ, vào giờ cuối ngày
Ta nhìn Thợ gốm, Đất sét trong tay
Và ta nghe tiếng thì thào, nức nở:
“Hỡi người Anh em, xin hãy nhẹ tay!”

XXXVII.
Rót đầy Chén, chuyện có để làm gì
Nhắc rằng Thời gian lướt dưới chân ta
Ngày mai chưa về, Hôm qua đã chết
Tiếc thương gì, Hôm nay đẹp nhường kia!

XXXVIII.
Một phút giây, trong Hoang mạc Điêu tàn
Một phút giây, để nếm vị Đời ngon
Sao sẽ tàn, Đoàn người trên sa mạc
Vào cõi Hư không – Ô, hãy vội vàng!

XXXIX.
Bao nhiêu lâu còn theo Đuổi mông lung
Để chuyện Này, Kia tranh luận thỏa lòng
Tốt hơn hết đi nếm mùi Rượu ngọt
Còn hơn buồn vì Trái đắng, hoặc không.

XL.
Bạn biết không, ta đây đã từ lâu
Làm cuộc Hôn nhân, Uống rượu ồn ào
Xua khỏi giường bà già tên Lý trí
Và bây giờ, Con gái Rượu – Nàng dâu.

XLI.
Bằng thước ta đo được “Có” và “Không”
Hoặc “Lên-và-Xuống” chính xác như mong
Nhưng tất cả bây giờ ta chỉ biết
Mỗi một điều rằng uống Rượu là hơn.

XLII.
Mới gần đây, bên cánh Cửa mở toang
Trong buổi hoàng hôn có một Thiên thần
Ôm Bình rượu, và ngài mời ta nếm
Ta nhận ra rằng thứ Rượu thật ngon!

XLIII.
Trong Rượu có thứ Logic tuyệt đối
Bác Bảy hai Giáo phái đang tranh cãi
Rượu là Nhà giả kim tuyệt trần
Trong phút giây biến Sắt thành Vàng thỏi.

XLIV.
Máhmúd tối cao, Chúa tể oai hùng
Nếu tất cả những nỗi Sợ màu đen
Và nỗi Buồn trong lòng ta dâng ngập
Ngài xua đi, chặt đầu chúng bằng gươm.

XLV.
Bỏ lại Khôn ngoan và hãy cùng ta
Về Hỗn mang trong Vũ trụ bao la
Và ẩn vào một góc miền Hubbub
Để thử xem cho bạn được những gì.

XLVI.
Trong và ngoài, trên, dưới, xung quanh
Đấy chẳng khác gì chiếc Bóng Thần thông
Còn Mặt trời – cây Nến trong chiếc Hộp
Và ta – Bóng ma đi, đến vòng quanh.

XLVII.
Và nếu Rượu bạn uống, Môi ép vào
Cuối cùng Hư không, Vật chất như nhau
Bạn hãy vui, vì bây giờ bạn có
Bạn sẽ - Hư không – và chẳng ít hơn đâu.

XLVIII.
Khi Hoa hồng còn nở bên Bờ Sông
Cùng Khayyam già hãy uống Rượu Hồng
Còn khi Thiên thần đem cho rượu Tối
Bạn hãy uống đi và chớ hoang mang.

XLIX.
Đây bàn Cờ của Đêm và của Ngày
Số phận coi Người là con Tốt thôi
Đưa xuống, đẩy lên rồi đem chiếu tướng
Người tiếp người đưa vào Chỗ nghỉ ngơi.

L.
Quả Bóng thì không nói Có và Không
Sang Phải, Trái theo Cầu thủ trên Sân
Chỉ Người ném bạn ra sân biết được
Ngài biết tất cả, Ngài biết được rằng!
 

taplai

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-169
Ngày cấp bằng
8/6/06
Số km
551
Động cơ
586,510 Mã lực
Thơ Omar Khayam:

Người dịch: Hồ Thượng Tuy

LI.
The Moving Finger writes; and, having write,
Moves on: nor all thy Piety nor Wit
Shall lure it back to cancel half a Line,
Nor all thy Tears wash out a Word of it.

LII.
And that inverted Bowl we call The Sky,
Whereunder crawling coop’t we live and die,
Lift not thy hands to It for help—for It
Rolls impotently on as Thou or I.

LIII.
With Earth’s first Clay They did the last Man’s knead,
And then of the Last Harvest sow’d the Seed:
Yea, the first Morning of Creation wrote
What the Last Dawn of Reckoning shall read.

LIV.
I tell Thee this—When, starting from the Goal,
Over the shoulders of the flaming Foal
Of Heav’n Parwín and Mushtara they flung,
In my predestined Plot of Dust and Soul.

LV.
The Vine had struck a Fibre; which about
It clings my Being—let the Súfi flout;
Of my Base Metal may be filed a Key,
That shall unlock the Door he howls without.

LVI.
And this I know: whether the one True Light
Kindle to Love, or Wrath consume me quite,
One Glimpse of It within the Tavern caught
Better than in the Temple lost outright.

LVII.
Oh, Thou, who didst with Pitfall and with Gin
Beset the Road I was to wander in,
Thou wilt not with Predestination round
Enmesh me, and impute my Fall to Sin?

LVIII.
Oh, Thou, who Man of baser Earth didst make
And who with Eden didst devise the Snake:
For all the Sin wherewith the Face of Man
Is blacken’d, Man’s Forgiveness give—and take!

LIX.
Listen again. One Evening at the Close
Of Ramazán, ere the better Moon arose,
In that old Potter’s Shop I stood alone
With the clay Population round in Rows.

LX.
And, strange to tell, among that Earthern Lot
Some could articulate, while others not:
And suddenly one more impatient cried—
“Who is the Potter, pray, and who the Pot?”

LXI.
Then said another—“Surely not in vain
My substance from the common Earth was ta’en,
That He who subtly wrought me into Shape
Should stamp me back to common Earth again.”

LXII.
Another said—“Why ne’er a peevish Boy,
Would break the Bowl from which he drank in Joy;
Shall He that made the Vessel in pure Love
And Fancy, in an after Rage destroy!”

LXIII.
None answer’d this; but after Silence spake
A Vessel of a more ungainly Make:
“They sneer at me for leaning all awry;
What! did the Hand then of the Potter shake?”

LXIV.
Said one—“Folks of a surly Tapster tell,
And daub his Visage with the Smoke of Hell;
They talk of some strict Testing of us—Pish!
He’s a Good Fellow, and ’twill all be well.”

LXV.
Then said another with a long-drawn Sigh,
“My Clay with long oblivion is gone dry:
But, fill me with the old familiar Juice,
Methinks I might recover by and bye.”

LXVI.
So while the Vessels one by one were speaking,
One spied the little Crescent all were seeking:
And then they jogg’d each other, “Brother! Brother!
Hark to the Porter’s Shoulder-knot a-creaking!”

LXVII.
Ah, with the Grape my fading Life provide,
And wash my Body whence the Life has died,
And in a Winding-sheet of Vine-leaf wrapt,
So bury me by some sweet Garden-side.

LXVIII.
That ev’n my buried Ashes such a Snare
Of Perfume shall fling up into the Air,
As not a True Believer passing by
But shall be overtaken unaware.

LXIX.
Indeed the Idols I have loved so long
Have done my Credit in Men’s Eye much wrong!
Have drown’d my Honour in a shallow Cup,
And sold my Reputation for a Song.

LXX.
Indeed, indeed, Repentance oft before
I swore—but was I sober when I swore?
And then and then came Spring, and Rose-in-hand
My thread-bare Penitence apieces tore.

LXXI.
And much as Wine has play’d the Infidel,
And robb’d me of my Robe of Honour—well,
I often wonder what the Vintners buy
One half so precious as the Goods they sell.

LXXII.
Alas, that Spring should vanish with the Rose!
That Youth’s sweet-scented Manuscript should close!
The Nightingale that in the Branches sang,
Ah, whence, and whither flown again, who knows!

LXXIII.
Ah, Love! could you and I with Fate conspire
To grasp this sorry Scheme of Things entire,
Would not we shatter it to bits—and then
Re-mould it nearer to the Heart’s Desire!

LXXIV.
Ah, Moon of my Delight who know’st no wane,
The Moon of Heav’n is rising once again:
How oft hereafter rising shall she look
Through this same Garden after me—in vain!

LXXV.
And when Thyself with shining Foot shalt pass
Among the Guests Star-scatter’d on the Grass,
And in thy joyous Errand reach the Spot
Where I made one—turn down an empty Glass!


LI.
Tay Số phận viết và tiếp trang sau
Lòng mộ đạo, Trí khôn, ích gì đâu
Không xóa nổi nửa dòng, và Nước mắt
Cũng không rửa đi Lời viết lúc đầu.

LII.
Chén lật úp mà ta gọi Bầu trời
Ta bò trườn, sống rồi chết đấy thôi
Đừng giơ tay cầu xin Trời giúp đỡ
Chẳng giúp được gì cho Bạn và Tôi.

LIII.
Đất sét đầu, Họ nặn ra Người cuối
Và sau đó gieo hạt Giống mùa Sau
Buổi sáng đầu của Tạo thành viết vội
Rồi Bình minh tính sổ đọc sau này.

LIV.
Nói với bạn – Khi ta ra khỏi Cổng
Con Ngựa Trời rực lửa chở ta vào
Nơi Linh hồn cùng Đất đai bụi bặm
Do Parwín và Mushtara ném vào.

LV.
Cây Nho đâm rễ, cứ mặc Sufi
Chê sự Tồn tại của ta bám rễ
Từ Sắt của ta có thể đúc Chìa
Để mở Cánh cửa, kẻo người la ó.

LVI.
Ta biết rằng thứ Ánh sáng Trung thành
Đốt lên Tình yêu hoặc là Tức giận
Thà tận hưởng chút thoáng qua trong Quán
Cũng còn hơn để mất ở Thánh đường.

LVII.
Ô, Ngươi là kẻ đặt Bẫy ở bên Đường
Là nơi mà ta thường vẫn lang thang
Có lẽ nào héo hon vì tiền định
Qui tội cho ta Đổ đốn, Lỗi lầm?

LVIII.
Ô, Ngươi lấy Đất nặn ra Con người
Nghĩ ra Thiên đường, đồng thời con Rắn
Vì lầm lỗi hiện trên gương mặt người
Ngươi tha thứ, và khoan dung được nhận.

LIX.
Hãy nghe thêm. Vào một buổi chiều hôm
Tháng Ramazan, Trăng mới lưng chừng
Ta đứng một mình ở trong lò Gốm
Với Dân cư đất sét xếp thành Hàng.

LX.
Nói nghe lạ lùng nhưng trong bao Số phận
Ai giỏi nói năng còn ai đó không
Bỗng đột ngột, một ai đó kêu lên:
“Ai là Thợ gốm, còn ai – đồ Gốm?”

LXI.
Người khác bảo: “Thân xác ta, quả thật
Do bàn tay Ngài nặn ra từ Đất
Rồi Ngài trao cho đường nét, Dáng hình
Sau đấy lại nhồi ta về với Đất”.

LXII.
Một người khác: “Dù chàng Trai hay giận
Cũng chẳng bao giờ uống xong đập Chén
Tại sao Ngài đầy Tưởng tượng, Tình yêu
Làm ra Bình rồi đập khi tức Giận?”

LXIII.
Không ai trả lời cho câu hỏi này
Một chiếc Bình vội vàng lên tiếng ngay:
“Họ cười ta vì thân ta méo xệch
Tại vì sao? Do Thợ gốm run tay?”

LXIV.
Một người nói: “Bà con Chủ quán rằng:
Gương mặt ông với Khói từ Địa ngục
Họ nói về thử thách – nghe mà khiếp!
Ông tốt bụng, tất cả đều tuyệt trần”.

LXV.
Thì khi đó, một người khác thở dài:
“Đất tôi khô vì để quên lâu ngày
Nhưng nếu rót đầy cho tôi rượu cũ
Thì tôi nghĩ rằng sẽ phục hồi ngay”.

LXVI.
Khi Bình và Chén đáp lời liên tiếp
Một kẻ nhìn thấy mảnh Trăng lưỡi liềm
Tất cả kêu lên: “Hỡi người Anh em!
Có nghe vai Thợ gốm rên - cót két!”

LXVII.
Ô, hãy dùng Rượu để củng cố Đời ta
Khi ta chết, khâm liệm bằng lá Nho
Và trước đó, tắm rửa ta bằng Rượu
Rồi đem chôn đâu đó sau Vườn nhà.

LXVIII.
Dù thân xác của ta chôn dưới đất
Nhưng trong Không khí mùi Thơm ngào ngạt
Không một người ngoan Đạo đi ngang qua
Mà lại có thể làm như không biết.

LXIX.
Quả thực, Thần tượng mà ta yêu mến
Đã đem lòng tin con người cho ta
Đã dìm Danh dự của ta trong Chén
Và bán Danh tiếng để lấy Bài ca.

LXX.
Quả thực, trước khi Hối hận đã thề
Nhưng liệu có tỉnh khi nói lời kia?
Và Mùa xuân với Hoa hồng lại đến
Đã làm cho tan lời Sám hối kia.

LXXI.
Dù rượu xử sự như người vô Đạo
Khoác cho ta chiếc Áo choàng Danh dự
Những Người bán rượu làm ta ngạc nhiên
Họ bán Hàng giá chỉ bằng một nửa.

LXXII.
Than ôi, tàn héo cả Mùa xuân, Hoa hồng!
Cuốn sách Tuổi trẻ đành phải sang trang!
Và Họa mi trên cành giờ im tiếng
Bay về đâu, có ai biết được chăng!

LXXIII.
Ô, Tình yêu! Liệu ta và em có vần xoay Phận số
Để thay đổi trật tự này quả thật đáng thương
Để ta sẽ đập chúng ra từng mảnh nhỏ
Rồi nhập vào, xếp lại đẹp như mong.

LXXIV.
Ô, Trăng của lòng ta không biết đến tàn
Trăng của Trời, trăng lại sẽ mọc lên
Và trăng lại sẽ đung đưa nhìn ngắm
Tìm ta trong Vườn – nhưng chỉ hoài công!

LXXV.
Và khi Trăng soi sáng những đám đông
Những Người khách Số phận ném xuống trần
Trong vui sướng, khi trăng tìm đến Chỗ
Xưa ta ngồi – hãy úp ngược Chén không!
 

taplai

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-169
Ngày cấp bằng
8/6/06
Số km
551
Động cơ
586,510 Mã lực
Не пой, красавица, при мне

-Александр Сергеевич Пушкин-




Не пой, красавица, при мне
Ты песен Грузии печальной:
Напоминают мне оне
Другую жизнь и берег дальный.

Увы! напоминают мне
Твои жестокие напевы
И степь, и ночь - и при луне
Черты далекой, бедной девы!..

Я призрак милый, роковой,
Тебя увидев, забываю;
Но ты поешь - и предо мной
Его я вновь воображаю.

Не пой, красавица, при мне
Ты песен Грузии печальной:
Напоминают мне оне
Другую жизнь и берег дальный.


Người đẹp ơi! nàng đừng hát nữa

-A.Puskin-

Người đẹp ơi nàng đừng hát nữa
Bài hát buồn của xứ Gruzia
Nghe nàng hát lòng tôi lại nhớ
Cuộc đời xưa và bến bờ xa.

Những câu hát của nàng dữ dội
Gợi lòng tôi lại nhớ, thương ôi!
Đêm thảo nguyên, ánh trăng đồng nội
Người em xưa, hình bóng xa vời...

Cái hình bóng thân thương, khổ ải
Nhìn thấy nàng tôi ngỡ quên đi
Nhưng nàng hát - lại hình dung thấy
Trước mắt tôi hình ấy hiện về.

Người đẹp ơi nàng đừng hát nữa
Bài hát buồn của xứ Gruzia
Nghe nàng hát lòng tôi lại nhớ
Cuộc đời xưa và bến bờ xa.
 

taplai

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-169
Ngày cấp bằng
8/6/06
Số km
551
Động cơ
586,510 Mã lực
Mọi việc trên đời
Đừng làm đại khái
Khi bạn đi đá.i
Tụt hẳn quần ra
Nếu không sợ ma
Tắt đèn khi ngủ
Mụn đang mưng mủ
Chớ có nặn liều
Cô bạn mới yêu
Đừng đòi … ấy vội
Gặp thằng sởi lởi
Cẩn thận bị lừa
Gặp con đong đưa/
Cài quần cho chặt
Có em thắc mắc
Mười bảy tuổi rồi
Mà sao núi đồi
Vẫn chưa thấy nhú
Có cậu lại cú
Người thì lớn lên
Mà nhìn thằng em
Vẫn như cát-tút.
Gặp nhau là gut!
Sẽ ổn cả hai
Cát tút sẽ dài
Núi đồi sẽ mọc

Hãy đừng hấp tấp
Mọi việc trên đời
 

taplai

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-169
Ngày cấp bằng
8/6/06
Số km
551
Động cơ
586,510 Mã lực
VỀ LÀNG
Làng ta ở tận làng ta
Mấy năm một bận con xa về làng
Gốc cây, hòn đá cũ càng,
Trâu bò đủng đỉnh như ngàn năm nay
Cha ta cầm cuốc trên tay,
Nhà ta xơ xác hơn ngày xa xưa
Lưng trần bạc nắng thâm mưa
Bụng nhăn lép kẹp như chưa có gì

Không răng! cha vẫn cười khì
Rượu tăm vẫn để dành khi con về
Ngọt ngào một chút men quê
Cay tê cả lưỡi, đắng tê cả lòng
Gian ngoài thông thống gian trong
Một đời làm lụng sao không có gì

Không răng! cha vẫn cười khì
Người còn là quí kể chi bạc vàng
Chiến tranh như trận cháy làng
Bà con ta trắng khăn tang trên đầu
Vẫn đồng cạn, vẫn đồng sâu
Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa
Đường làng cây cỏ lưa thưa
Thanh bình từ ấy sao chưa có gì

Không răng! cha lại cười khì
Đời là thế, kể làm chi cho buồn
Mẹ ta vo gạo thổi cơm
Ba ông táo sứt lửa rơm khói mù
Nhà bên xay lúa ù ù
Vẫn chày cối thậm thịch như thuở nào
Các em ta vác cuốc cào,
Rủ nhau bước thấp bước cao ra đồng
Mồ hôi đã chảy ròng ròng
Máu và nước mắt sao không có gì

Không răng! cha vẫn cười khì
Đời là thế, kể làm chi cho rầu
Cha con xa cách bấy lâu
Mấy năm mới uống với nhau một lần
Bụng ta thắt, mặt ta nhăn
Cha ta thì vẫn không răng cười cười

Ta đi mơ mộng trên đời
Để cha cuốc đất một đời chưa xong

Nguyễn Duy
 

Lý Bạch

Xe đạp
Biển số
OF-23444
Ngày cấp bằng
3/11/08
Số km
36
Động cơ
493,460 Mã lực
Nơi ở
trúc khê - ẩm tửu hàm ca.
THÁNG SÁU TRỜI MƯA

Tháng sáu trời mưa, trời mưa không ngớt




Trời không mưa anh cứ lạy trời mưa
Anh lạy trời mưa phong toả đường về
Và đêm ơi xin cứ dài vô tận
Đôi mắt em anh xin đừng lo ngại
Mười ngón tay đừng tà áo mân mê
Đừng hỏi anh rằng: có phải đêm đã khuya
Sao lại sợ đêm khuya, sao lại e trời sáng...

Hãy dựa tóc vào vai cho thuyền ghé bến



Hãy nhìn nhau mà sưởi ấm trời mưa
Hãy gởi cho nhau từng hơi thở muà thu
Có gió heo may và nắng vàng rất nhẹ
Và hãy nói năng những lời vô nghĩa
Hãy cười bằng mắt, ngủ bằng vai
Hãy để môi rót rượu vào môi
Hãy cầm tay bằng ngón tay bấn loạn

Gió có lạnh hãy cầm tay cho chặt
Đêm có khuya em hãy ngủ cho ngoan
Hãy biến cuộc đời bằng những tối tân hôn
Nếu em sợ thời gian dài vô tận


Tháng sáu trời mưa, em có nghe mưa xuống

Trời không mưa em có lạy trời mưa?
Anh vẫn xin mưa phong toả đường về
Anh vẫn cầu mưa mặc dầu mây ảm đạm

Da em trắng anh chẳng cần ánh sáng
Tóc em mềm anh chẳng thiết mùa xuân
Trên cuộc đời sẽ chẳng có giai nhân
Vì anh gọi tên em là nhan sắc
Anh sẽ vuốt tóc em cho đêm khuya tròn giấc
Anh sẽ nâng tay em cho ngọc sát vào môi
Anh sẽ nói thầm như gió thoảng trên vai
Anh sẽ nhớ suốt đời mưa tháng sáu.....
 

Lý Bạch

Xe đạp
Biển số
OF-23444
Ngày cấp bằng
3/11/08
Số km
36
Động cơ
493,460 Mã lực
Nơi ở
trúc khê - ẩm tửu hàm ca.
Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả cây già
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi
Với khi thét khúc trường ca dữ dội
Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng.


 

Lý Bạch

Xe đạp
Biển số
OF-23444
Ngày cấp bằng
3/11/08
Số km
36
Động cơ
493,460 Mã lực
Nơi ở
trúc khê - ẩm tửu hàm ca.
Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức ?
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ ?
 

Lý Bạch

Xe đạp
Biển số
OF-23444
Ngày cấp bằng
3/11/08
Số km
36
Động cơ
493,460 Mã lực
Nơi ở
trúc khê - ẩm tửu hàm ca.
Chợ Tết

.Lũ trẻ con mải ngắm bức tranh gà
Quên cả chị bên đường đang đứng gọi.
Mấy cô gái ôm nhau cười rũ rượi
Cạnh anh chàng bán pháo dưới cây đa
Những mẹt cam đỏ chót tựa son pha
Thúng gạo nếp đong dầy như núi tuyết.
 

Lý Bạch

Xe đạp
Biển số
OF-23444
Ngày cấp bằng
3/11/08
Số km
36
Động cơ
493,460 Mã lực
Nơi ở
trúc khê - ẩm tửu hàm ca.
Mắt Buồn

"Dặm khuya ngắt tạnh mù khơi"
Nguyễn Du



Bóng mây trời cũ hao mòn
Chiêm bao náo động riêng còn hai tay
Tấm thân với mảnh hình hài
Tấm thân thể với canh dài bão giông
Cá khe nước cõng lên đồng
Ruộng hoang mang khóc đêm mồng một giêng
Tạ từ tháng chạp quay nghiêng
Ầm trang sử lịch thu triền miên trôi

Bỏ trăng gió lại cho đời
Bỏ ngang ngửa sóng với lời hẹn hoa
Bỏ người yêu bỏ bóng ma
Bỏ hình hài của tiên nga trên trời
Bây giờ riêng đối diện tôi
Còn hai con mắt khóc người một con
 

Lý Bạch

Xe đạp
Biển số
OF-23444
Ngày cấp bằng
3/11/08
Số km
36
Động cơ
493,460 Mã lực
Nơi ở
trúc khê - ẩm tửu hàm ca.
Màu Thời Gian

Sớm nay tiếng chim thanh
Trong gió xanh
Dìu vương hương ấm thoảng xuân tình

Ngàn xưa không lạnh nữa, Tần Phi
Ta lặng dâng nàng
Trời mây phảng phất nhuốm thời gian

Màu thời gian không xanh
Màu thời gian tím ngát
Hương thời gian không nồng
Hương thời gian thanh thanh

Tóc mây một món chiếc dao vàng
Nghìn trùng e lệ phụng quân vương
Trăm năm tình cũ lìa không hận
Thà nép mày hoa thiếp phụ chàng

Duyên trăm năm đứt đoạn
Tình muôn thuở còn hương
Hương thời gian thanh thanh
Màu thời gian tím ngát

(Đoàn Phú Tứ )
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top