Thủy ngân thì không thể xem nhẹ được, nó lại có đặc tính tích lũy sinh học (bioaccummulation) trong chuỗi thức ăn (nhất là các loài thủy sản). Tuy nhiên chính quyền địa phương ra khuyến cáo như thể ứng phó với chất phóng xạ thì cũng là quá lời. Thủy ngân (Hg) gây ngộ độc ở mấy dạng:
1. Dạng Hg nguyên tố (đơn chất): chỉ gây ngộ độc khi hít phải Hg bay hơi, còn dạng lỏng tự nhiên thì ít độc hại. Đấy là lý do tại sao trẻ có thể nuốt phải cả giọt Hg chảy ra từ nhiệt kế vỡ mà vẫn không gặp nguy hiểm. Đây cũng là dạng ngộ độc nguy hiểm nhất và nhanh nhất từ vụ cháy vừa rồi. Những ai hít phải Hg bay ra từ đám cháy sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp đến các hệ hô hấp, tuần hoàn, thần kinh, và lâu dài là thêm cả bài tiết và một số cơ quan tiêu hóa. Hơi Hg cũng ngấm đáng kể qua một số bộ phận cơ thể, nhất là tóc. Khi đã là hơi thì nó có xu hướng bay lên cao và bay đi theo gió, không ngấm đáng kể vào cá tôm, thịt lợn. Hơi thủy ngân không có mùi vị gì cả, nên ai thấy mùi khét không có nghĩa là đã hít phải.
2. Dạng vô cơ (một số hợp chất muối): chủ yếu tác động đến một số người làm việc trực tiếp hoặc trong môi trường có nhiều loại chất này. Có lẽ các bác công nhân ở đó và một số lính cứu hỏa bị phơi nhiễm dạng này.
3. Dạng hữu cơ (đại biểu là methylmercury, công thức hóa học là CH3Hg+X-): đây chính là loại hợp chất được chuyến hóa thành trong môi trường (nhờ vi khuẩn), và nó ngấm vào chuỗi thức ăn, gây ngộ độc lâu dài và tích lũy. Nhưng quá trình cũng diễn ra chậm chứ không tức thì, ví dụ như vụ nhà máy sx acetic acid (CH3COOH) xả thải lỏng có chứa Hg xuống biển Minamata (Nhật), làm hải sản ăn và nhiễm phải, gây ngộ độc cho khoảng 5 vạn người ăn vào, trong giai đoạn 1932-1968.
Hy vọng khu vực bị cháy vừa rồi không chứa nguồn phóng xạ nào, nhất là thiết bị đo kiểm NDT.