Người Việt hời hợt (phần 3)
Trước khi bắt đầu bài viết mới này, tôi muốn gửi lời cám ơn đến những bạn trên facebook đã đọc, share và góp ý cho những bài viết lần trước của tôi. Tôi luôn tôn trọng những ý kiến đóng góp từ mọi người vì nó khiến tôi và những người theo dõi hiểu thêm nhiều khía cạnh của vấn đề. Đó là một điều hết sức đáng quý. Tuy nhiên tôi cũng xin nhắc lại một số điều để các bạn có thể tranh luận đúng hướng để cho việc tranh luận có chất lượng thay vì sa đà vào tranh cãi vô ích khi “ông nói gà, bà nói vịt”:
1. Bạn nào chỉ đọc sơ vài dòng hoặc lướt qua một lần thì miễn tranh cãi theo ý kiến cảm tính của mình. Tôi viết một bài bỏ rất nhiều công sức và thời gian nên tôi không chấp nhận và hoan nghênh những người chưa đọc kỹ hiểu kỹ đã vào nói càn nói bừa. Cũng làm ơn đừng comment những câu vô duyên kiểu: “Bài dài quá, đọc mệt ghê” hay “có ai tóm tắt lại giùm tôi không?” Xin lỗi, người viết bỏ ra vài tiếng để viết còn bạn chỉ cần bỏ ra 15-20 phút để đọc mà còn lười biếng thì bạn làm ơn đi chỗ khác chơi. Chỗ này không dành cho bạn.
2. Đối với những người chưa từng quen biết tôi, chưa đọc những bài viết trước kia của tôi nếu bạn góp ý thì hãy nhớ rằng phép lịch sự tối thiểu khi vào nhà một người chưa quen biết hãy chào hỏi và nói năng cho đàng hoàng tử tế. Tôi luôn dùng kính ngữ “dạ” và thái độ khiêm cung để trả lời một người mình chưa quen biết hoặc lớn tuổi hơn mình khi họ gửi comment hoặc tin nhắn cho tôi. Có rất nhiều người tôi không cần biết trình độ hiểu biết được bao nhiêu nhưng lần đầu vào comment thái độ rất trịch thượng và láo xược, tự xem mình là bố đời. Những kẻ đó tôi sẽ block ngay chứ không giải thích hay trả lời comment.
3. Loạt bài này không có mục đích nói xấu hay chê bai tiếng Việt mà muốn chỉ ra một số điểm hạn chế về tư duy logic của tiếng Việt để chứng minh một luận điểm là “người Việt hời hợt”. Tôi tiếp cận vấn đề từ nhiều hướng để đưa ra một cái nhìn tổng quát và đa chiều theo cách nhìn của khoa học, hoàn toàn không đặt tình cảm cá nhân vào đây. Những phản biệt “tiếng Việt giàu đẹp, phong phú” hay “là người Việt thì phải biết yêu tiếng Việt” … tôi xin phép không trả lời vì nó không liên quan đến những gì tôi bàn ở đây.
4. Những phản biện không bám vào những luận điểm mà tôi đưa ra và không đưa được dẫn chứng hoặc ví dụ cụ thể tôi cũng sẽ không quan tâm. Tôi bàn về vấn đề nào, bạn hãy đưa ra luận điểm phản bác đúng vấn đề mà tôi đang nói, đừng nói tới những gì mà tôi không bàn hoặc không liên quan tới điều đang được tranh luận.
5. Đừng chụp cho tôi cái mũ là “cuồng Tây, cuồng Tàu” hoặc cứ mở miệng là chê bai Việt Nam thế này, Việt Nam thế nọ. Nếu bạn yêu nước một cách tỉnh táo và có lòng tự hào dân tộc dựa trên sự hiểu biết, bạn sẽ thấy đất nước ta hiện nay thua sút và lạc hậu rất nhiều. Và chỉ có cách nhìn vào sự thật những sai lầm yếu kém của đất nước và con người Việt Nam mà quyết tâm sửa đổi thì mới có thể cải thiện được tình hình. Sự tự tôn quá đáng hoặc ảo tưởng sức mạnh dân tộc bất chấp sự thật chỉ có thể đẩy đất nước này tới bờ vực thẳm nhanh hơn một chút thôi.
So sánh tư duy logic tiếng Việt và tiếng Anh:
Tôi là người học tiếng Anh từ nhỏ (4 tuổi đã bắt đầu), đã có một thời gian 6 năm sống ở Mỹ trong một môi trường hầu như không có người Việt và đã dạy tiếng Anh được 12 năm. Sở dĩ tôi phải nói điều này để các bạn hiểu rằng tiếng Anh đối với tôi gần như là một ngôn ngữ phổ thông chứ không phải là một ngoại ngữ. Hơn nữa, tôi học cử nhân và thạc sĩ ngành giảng dạy tiếng Anh cho người nước ngoài nên tôi rất chú trọng đến tư duy bên trong của các ngôn ngữ và sự tương quan của các ngôn ngữ với nhau. Điều này rất quan trọng đối với tôi vì nó giúp tôi hiểu được những vấn đề sau đây:
1. Tại sao người Việt bỏ rất nhiều thời gian để học tiếng Anh nhưng hiệu quả thực tế lại rất thấp?
2. Tại sao có những khái niệm rất đơn giản trong tiếng Anh nhưng rất khó giải thích trong tiếng Việt và ngược lại?
3. Tại sao nhiều người được xem là giỏi tiếng Anh ở Việt Nam vẫn mắc những lỗi rất cơ bản về dịch thuật?
4. Tại sao người Việt Nam ít khi chịu đọc thêm tài liệu hoặc thông tin bằng tiếng Anh để nhìn nhận vấn đề một cách khách quan và đa chiều hơn?
Những vấn đề nói trên có thể sẽ không quan trọng với bạn nếu bạn chỉ là người học tiếng Anh ở mức độ giao tiếp, nhưng đối với một người nghiên cứu và giảng dạy ngôn ngữ đồng thời nghiên cứu về tâm lý học, chúng làm tôi mất ăn mất ngủ vì tôi muốn tìm cách để giúp các học viên của tôi tiếp cận tiếng Anh một cách logic và hiệu quả nhất.
Để sử dụng tốt một ngôn ngữ, bạn phải hiểu rõ được tư duy logic của ngôn ngữ đó trong việc sử dụng văn phạm, cấu trúc ngữ pháp, từ vựng và cả phát âm. Nếu không làm được điều đó thì việc giảng dạy hoặc học tập một ngôn ngữ chỉ có thể dừng ở mức độ học thuộc lòng để đối phó chứ không thể đạt được sự thông thạo.
Khi tiếng Anh là một ngôn ngữ mang tính chất giao tiếp quốc tế và người Việt Nam trên lý thuyết bỏ ra rất nhiều thời gian và tiền bạc để học tiếng Anh cả trong chương trình chính quy và ngoại khóa mà kết quả vẫn rất tệ, theo tôi đó là một sự lãng phí rất lớn. Không thông thạo được tiếng Anh, bạn chẳng những mất rất nhiều cơ hội trong công việc và học tập mà nó còn là một chướng ngại vật cực kỳ to lớn để tiếp nhận thông tin đa chiều cũng như kiến thức của nhân loại: cánh cửa dẫn tới tự do dân chủ.
1. Từ vựng tiếng Anh mô tả khái niệm chuẩn xác hơn tiếng Việt rất nhiều: Một trong những thử thách lớn nhất đối với những người sử dụng ngoại ngữ là sự hiểu biết về từ vựng vì có những từ có thể đồng nghĩa trong ngôn ngữ này lại hoàn toàn không đồng nghĩa trong ngôn ngữ kia. Đặc trưng của tiếng Anh là mỗi từ đều có một ý nghĩa rất chính xác và cụ thể, thể hiện đúng bản chất của về nghĩa mà tiếng Việt không có được.
Tôi lấy ví dụ từ “gặp” trong tiếng Việt nếu được dịch sang tiếng Anh một cách hời hợt sẽ là “meet” nhưng trên thực tế có đến 4 từ khác nhau trong tiếng Anh để dịch một từ “gặp” trong tiếng Việt, và bốn từ này về ý nghĩa hoàn toàn khác nhau. Từ “meet” chỉ có thể dùng trong trường hợp hai người gặp nhau có một mục đích cụ thể nào đó vì thế nó không thể dùng trong trường hợp “hôm qua tôi tình cờ gặp anh ta ở ngoài đường” được. Đối với hành động “tình cờ gặp nhau ngoài đường”, người Anh-Mỹ dùng từ “see” đúng nghĩa là “chỉ nhìn thấy nhau”. Còn khi tôi nói “Tôi đang gặp rắc rối/khó khăn” thì cả hai từ “meet” và “see” đều sai mà phải dùng từ “encounter” với nghĩa “đối mặt với một điều/người mà mình không mong muốn”.
Ví dụ thứ hai là từ “nhận ra” trong tiếng Việt khi dịch sang tiếng Anh sẽ có hai từ “realize” và “recognize” và hai từ này hoàn toàn không đồng nghĩa với nhau. “Realize” là “nhận ra một điều gì trước đây mình chưa từng có khái niệm về nó” ví dụ “I realized that my parents have sacrificed a lot for me” (Tôi chợt nhận ra/hiểu ra bố mẹ đã hi sinh rất nhiều cho tôi). Còn “recognize” nghĩa là “nhận ra một điều gì mình đã có khái niệm về nó từ trước” (tiền tố “re” có nghĩa là “again”, gốc từ Latin “cogn” có nghĩa là “nhận thức” và hậu tố “ize” để xác định đây là động từ). Vì vậy nếu bạn đưa một tấm ảnh cho ai đó xem và hỏi người ta có nhận ra người trong hình là ai không, bạn phải dùng từ “recognize” chứ không thể là “realize” được.
Ví dụ thứ ba là cùng một từ “nuôi” trong tiếng Việt, tiếng Anh có sáu từ với khái niệm hoàn toàn khác nhau và không thể dùng thay thế cho nhau được và được chia thành hai cụm khái niệm lớn khác nhau: Cụm thứ nhất dành cho các loài vật bao gồm những từ: a) “raise”: nuôi một con vật để khai thác kiếm lợi từ nó như nuôi heo, nuôi bò, nuôi gà… b) “breed”: nuôi để làm giống, và c) “keep” : nuôi một con vật để làm cảnh. Cụm thứ hai dành cho con người bao gồm: a) “bring up” hoặc “rear” hoặc “raise”: dùng để chỉ việc nuôi dạy con cái, b) “support”: dùng để chỉ việc cung cấp tiền bạc cho một người không đủ khả năng tài chính (ví dụ: “He supported his younger brother through college” Anh ta nuôi em trai học đại học) và c) “take care of”: chăm sóc cha mẹ khi về già. Thử tưởng tượng nếu bạn không hiểu nghĩa những từ này mà cứ mặc định chúng là từ đồng nghĩa theo kiểu tiếng Việt rồi dịch cụm từ “nuôi cha mẹ” thành “keep my parents” hoặc “bring up my parents” thì kinh khủng tới mức nào.
Những ví dụ mà tôi nêu ở trên là 3 trong hàng trăm nếu không muốn nói là hàng ngàn những ví dụ về sự chặt chẽ về ngữ nghĩa trong từ ngữ tiếng Anh và sự qua loa, hời hợt trong tiếng Việt về nghĩa từ. Nếu cần thiết tôi sẽ liệt kê cả một danh sách vài chục trang giấy. Và đó chỉ là ở mức độ từ ngữ thông dụng chứ chưa nói đến từ ngữ mang tính chất chuyên ngành hoặc hàn lâm. Sự chuẩn xác về ngữ nghĩa này khiến cho người sử dụng tiếng Anh ít khi nào hiểu sai bản chất của khái niệm được đề cập và rất khó chơi trò lập lờ đánh lận con đen đánh tráo khái niệm qua mặt người khác.
2. Từ ngữ trong tiếng Anh có những dạng thức khác nhau và từ loại khác nhau, không thể lẫn lộn: Từ ngữ trong tiếng Việt không có sự biến thể trong cùng một từ (số ít, số nhiều, dạng bị động, chủ động, tính từ, trạng từ, danh từ…) nhưng tiếng Anh thì một từ có nhiều biến thể dùng với những mục đích hoàn toàn khác nhau. Lấy ví dụ từ “hạnh phúc” trong tiếng Việt vừa có thể là tính từ, vừa có thể là danh từ và cũng có thể là trạng từ. Nhưng trong tiếng Anh thì không thể. Nếu bạn muốn dịch câu “Hạnh phúc không mua được bằng tiền” thì bạn phải hiểu rằng “hạnh phúc” ở đây là “happiness” (danh từ) chứ không phải là “happy” (tính từ). Còn muốn nói “một gia đình hạnh phúc” thì phải dùng từ “happy” (tính từ) để đặt trước “family”. Và nếu muốn dịch câu “họ sống với nhau rất hạnh phúc” thì phải dùng trạng từ “happily” chứ không phải là “happy” hoặc “happiness”. Thật là thảm họa cho ai học tiếng Anh mà không quan tâm tới loại từ mà chỉ hiểu sơ sài về nghĩa từ “hạnh phúc” là “happy”.
Trong tiếng Việt chúng ta có thể nói “gà rán” hoặc “chảo rán” mà không hề cảm thấy có gì sai nhưng tiếng Anh thì không thể. Thứ nhất từ “rán” là “fry” vốn là động từ nên không có thể đặt trước danh từ “chicken” hay “pan” để làm một tổ hợp tính từ + danh từ. Để dùng từ “fry” làm tính từ, bạn phải chuyển nó thành dạng tính từ. Và việc chọn dạng tính từ thích hợp cũng không phải là dễ dãi sao cũng được vì dạng tính từ của từ “fry” có dạng V-ing (present participle) là “frying” để chỉ công dụng của một vật và dạng V3 (past participle) là “fried” để chỉ tính bị động của hành động. Nếu nói “chảo rán” thì bạn đang nói tới “công dụng của cái chảo” nên bắt buộc phải dùng là “frying pan”. Còn nếu bạn muốn nói về “gà rán” có nghĩa là “gà được/bị rán lên” thì bạn phải nói là “fried chicken” mới đúng.
Khi sử dụng tiếng Việt, bạn chỉ đơn giản là ghép hai từ với nhau để tạo thành từ mới, nhưng khi bạn sử dụng tiếng Anh, bạn phải cân nhắc xem hai từ đó là loại từ gì, có đứng chung với nhau được hay không? Nếu từ loại đã phù hợp, bạn lại phải xét tiếp là từ đó được dùng ở dạng thức gì, có phù hợp với mục đích cần sử dụng hay không? Đó là cả một quá trình suy nghĩ logic, không thể hời hợt và tùy tiện.
Có bạn sẽ nói rằng “từ đó giờ tiếng Việt dùng như vậy đấy rồi có chết ai đâu. Người Việt ai mà chả biết “gà rán” là “gà được rán lên”, còn “chảo rán” là “chảo dùng để rán.” Điều này đúng là không hại gì khi bạn chỉ sử dụng tiếng Việt mà không cần sử dụng tiếng Anh. Nhưng nếu bạn học tiếng Anh và sử dụng tiếng Anh thì bạn sẽ thấy ngay vấn đề của nó:
a. Bạn không bao giờ sử dụng được tiếng Anh đúng cách để nói và viết vì bạn mặc kệ những nguyên tắc về từ vựng của tiếng Anh. Điều này cũng giống như bạn đến chơi nhà người khác nhưng bất chấp những nguyên tắc ứng xử của gia đình người ta mà bắt người ta phải hiểu mình.
b. Bạn sẽ không bao giờ hiểu được tiếng Anh vì bạn không hiểu được mỗi dạng từ của cùng một từ đều có ý nghĩa khác nhau. Học những ngôn ngữ chịu ảnh hưởng của tiếng Latin như Anh, Pháp, Tây Ban Nha, bạn không thể chỉ cầm cuốn từ điển ra để học từ vựng một cách máy móc vì sự thay đổi dạng thức của một từ trong những ngữ cảnh khác nhau.
Ở trong phần bài viết này, tôi chỉ mới chạm tới lớp vỏ bên ngoài của ngôn ngữ là từ vựng. Tôi vẫn còn chưa nói đến cấu trúc văn phạm và phát âm. Hẹn các bạn ở phần tiếp theo. Để viết một bài, tôi phải tốn rất nhiều công sức. Hi vọng các bạn đừng phản biện theo kiểu cảm tính. Xin cám ơn (còn tiếp)
Nguồn:
https://www.facebook.com/barry.gibson.142/posts/10157120312027017
-----------
Phần này tác giả viết tốt. Nhưng phần giải nghĩa ví dụ còn chưa đào sâu vấn đề.
Chẳng hạn như từ "gặp" trong tiếng Việt, ngoài những ví dụ như tác giả nêu ra meet/see/encounter
Khi dùng với nghĩa bóng (gặp nhau về mặt tư tưởng) người ta hay dùng get together.
“encounter” với nghĩa “đối mặt với một điều/người mà mình không mong muốn” (giải nghĩa của tác giả Huỳnh Chí Viễn).
Đúng nhưng chưa đủ, thậm chí là sai nếu mang tư duy này khi đọc Kinh Thánh. Vì trong Kinh Thánh, encounter là gặp những người mà mình mong muốn gặp (ví dụ gặp Chúa Jesus). Nếu không tin, mọi người cứ tra google với cụm từ khóa [encounter Jesus].