[Funland] [Đọc chậm] 12 đặc điểm của một người Việt hời hợt

skuadi

Xe điện
Biển số
OF-573064
Ngày cấp bằng
8/6/18
Số km
3,336
Động cơ
26,416 Mã lực
(1) Bài viết này bị mắc lỗi logic ở mục số 8: "Tin theo những gì hợp ý mình bất kể tính xác thực".
Người viết không đưa ra nguồn, số liệu, nhưng lại muốn người đọc tin vào những điều tác giả viết ra.
Người viết chưa chứng minh được tính xác thực, nhưng lại muốn người đọc tin, chì vì bài viết có vẻ "hợp ý" với người đọc.

(2) Mục số 1 mẫu thuẫn với mục số 8:
"nhiều người chỉ cần đọc tiêu đề của một bài báo thôi đã vào phán như mình hiểu hết mọi chuyện" - mục số 1.
"rất nhiều người share hoặc viết những status mà chỉ cần đọc sơ qua là biết là fake news" - mục số 8.
Tác giả phê phán người khác ở mục số 1, nhưng lại "tự phán" là chỉ cần đọc sơ qua là biết fake news ở mục số 8.
---------------

Bài viết mang tính phê phán người Việt hời hợt, nhưng chính tác giả lại mắc một số lỗi logic hời hợt.
Nhưng dù sao tác giả cũng có nỗ lực truyền đạt thông tin, tác giả nên sửa một số lỗi logic, bổ sung thêm số liệu, thì bài viết sẽ giá trị hơn.
Rất tuyệt cháu.
Mời cháu một ly nha :)
 

CSKH TMCARe

Xe buýt
Biển số
OF-44908
Ngày cấp bằng
6/6/06
Số km
846
Động cơ
589,568 Mã lực
Mục này Min, Mod còn xoá suốt còn gì.:))
Đặc điểm dễ nhận của người Việt hời hợt là đang uống nước bẩn, hít bụi mịn bonus thuỷ ngân không lo, lo bàn chuyện đẩu đâu :))=))
 

Tenlaten

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-683947
Ngày cấp bằng
7/7/19
Số km
935
Động cơ
112,668 Mã lực
Tuổi
44
Bác lột tả rất chính xác, theo em để các cháu hình thành và phát triển được một nhân cách đầy đủ cần nhiều yếu tố. Em xin nêu ra 2 yêu tố cơ bản là: gia đình và nhà trường.

* Theo em việc giáo dục của gia đình là quan trọng nhất, nhưng bố mẹ cũng hời hợt, tào phào thì làm sao uốn nắn đc cho con. Các cụ nói "rau nào sâu nấy" ko hề sai.

* Đối với thầy cô: thầy cô sâu sắc đã không có nhiều, nhưng cái cơ chế nghành, rồi sự nghi ngờ đối kháng của phụ huynh với giáo viên đang giết chết tâm huyết của thầy cô.
Luật GD quy định "giáo viên ko đc đánh mắng, xúc phạm nhân cách người học" - đánh, xúc phạm nhân cách học sinh cấm là đúng. Nhưng đến mắng cũng ko đc mắng thì dạy dỗ cái gì? Hồi đi dạy em đã từng nói với phụ huynh "ông bà ko chấp nhận được sự rèn rũa thì mang con về nhà mà dạy"
Giờ toàn con vàng con bạc, thầy cô có cho cái roi vào mông thì làm ầm lên, suốt ngày đi rình rập quay video với cả kiện cáo thầy cô thì dạy dỗ cái gì nữa.
Chuyện bạo lực học đường là có, nhưng rất hãn hữu. Các vị đừng lấy cái đó ra để ngờ vực rồi đối kháng với thầy cô. Vì điều đó chỉ dập tắt nhiệt huyết của người thầy, họ sẽ HỜi HỢT với các con, họ chỉ hoàn thành nhiệm vụ thôi thì cũng ko ai nói gì đc họ. Nhưng con quý vị là những người thiệt thòi vì ko nhận đc sự tận tình, ân cần gọt rũa của thầy cô.

Cảm ơn bác chủ thớt, bài viết của bác rất sâu sắc và đáng để lưu lại nghiền ngẫm tiếp.
Cái này em ghi nhận. Giáo viên đúng là nghề nhân phẩm cao lương thấp, lại suốt ngày bị xã hội đem kính lúp ra soi. Em đi họp phụ huynh thấy rất nhiều ông bố bà mẹ lên lớp cho giáo viên cách dậy học sinh.
 

Duc Sang

Xe container
Biển số
OF-533992
Ngày cấp bằng
25/9/17
Số km
5,567
Động cơ
409,021 Mã lực
Ồ, hóa ra cháu quá nông cạn! :((
 

Sheldon

Xe buýt
Biển số
OF-343422
Ngày cấp bằng
19/11/14
Số km
858
Động cơ
279,325 Mã lực
Dài quá, em ko đọc hết nổi. Cụ ở dưới tóm tắt giúp em cái. Em sẽ rót riệu đàng hoàng
 

Núi đen

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-703474
Ngày cấp bằng
9/10/19
Số km
376
Động cơ
97,699 Mã lực
Tuổi
36
Ai cho cụ chủ đc các cái quyền đó
 

vantho185

Xe máy
Biển số
OF-298162
Ngày cấp bằng
11/11/13
Số km
76
Động cơ
310,560 Mã lực
Cụ viết dài lê thê thế khó đọc
 

Jochi Daigaku

Vũ Trụ
Biển số
OF-456402
Ngày cấp bằng
26/9/16
Số km
50,278
Động cơ
578,217 Mã lực
Tuổi
26
Nơi ở
Tokyo
Dài quá, em ko đọc hết nổi. Cụ ở dưới tóm tắt giúp em cái. Em sẽ rót riệu đàng hoàng
12 đặc điểm của một người Việt hời hợt

1. Có hiểu biết nông cạn và sơ sài về một vấn đề.
2. Không có hứng thú hoặc sự tò mò đối với kiến thức mới lạ.
3. Lười suy luận, không thích thử thách.
4. Không có khả năng kết nối và tổng hợp thông tin.
5. Tranh luận theo cảm tính, ít khi thấy được tính logic của vấn đề.
6. Sợ nói đến những chủ đề “nhạy cảm”.
7. Thích theo những trào lưu mới nổi nhưng không bền.
8. Tin theo những gì hợp ý mình bất kể tính xác thực.
9. Khả năng sử dụng ngôn ngữ kém.
10. Kém ngoại ngữ.
11. Trình độ thẩm mỹ thấp.
12. Không có tính sáng tạo.

Nguồn: Huỳnh Chí Viễn
https://www.facebook.com/barry.gibson.142
 

thichkhognthich

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-412627
Ngày cấp bằng
25/3/16
Số km
2,094
Động cơ
255,105 Mã lực
Tuổi
35
Không có tư duy độc lập vì không được dạy cách tư duy độc lập.
 

Chĩm111

Xe điện
Biển số
OF-554272
Ngày cấp bằng
13/2/18
Số km
2,989
Động cơ
1,032,438 Mã lực
Em thấy từ mục 4 trở đi nó chỉ là hệ quả của việc thiếu/hổng 3 mục đầu tiên thôi ạ!
Với 3 mục đầu tiên thì quan trọng hơn cả là mục 1. Việc học hỏi, trau dồi kiến thức (mục 1) là tiền để dẫn đến cái 2 và 3.
Kết luận là cụ họ Lê bên Liên Xô khuyên chuẩn cấm chỉnh: "Học, học nữa, học mãi".
 

minhna

Xe tải
Biển số
OF-627
Ngày cấp bằng
4/7/06
Số km
329
Động cơ
583,762 Mã lực
Cái buồn cười của tác giả bài viết này, chưa bàn đến tính đúng sai của nội dung bài viết, là tuy vẫn còn tương đối trẻ - 38 tuổi - mà đã ngồi phán xét các bạn trẻ cũng như những người khác. Thành phần này giờ ngày càng nhiều, ai ai cũng thích phán xét nhưng thiếu các luận cứ xác đáng + số liệu thống kê mà toàn kiểu nói cho sướng miệng :)
 

Jochi Daigaku

Vũ Trụ
Biển số
OF-456402
Ngày cấp bằng
26/9/16
Số km
50,278
Động cơ
578,217 Mã lực
Tuổi
26
Nơi ở
Tokyo
Cái buồn cười của tác giả bài viết này, chưa bàn đến tính đúng sai của nội dung bài viết, là tuy vẫn còn tương đối trẻ - 38 tuổi - mà đã ngồi phán xét các bạn trẻ cũng như những người khác. Thành phần này giờ ngày càng nhiều, ai ai cũng thích phán xét nhưng thiếu các luận cứ xác đáng + số liệu thống kê mà toàn kiểu nói cho sướng miệng :)
Người viết Huỳnh Chí Viễn bị mắc lỗi khái quát hóa vội vã (hasty generalization).
Tức là từ vài dẫn chứng cá thể đơn lẻ, khái quát thành đặc tính của cả tập hợp.
Lỗi này chém gió cho vui thì không sao, cũng chẳng chết ai cả.
Nhưng đụng đến tiền bạc (xin ngân sách, xin tài trợ ...) là hồ sơ bị loại ngay (nếu ở nước ngoài).
 

Jochi Daigaku

Vũ Trụ
Biển số
OF-456402
Ngày cấp bằng
26/9/16
Số km
50,278
Động cơ
578,217 Mã lực
Tuổi
26
Nơi ở
Tokyo
Người Việt hời hợt (phần 2)

Nói về nguyên nhân gây ra sự hời hợt của người Việt hiện nay, rất nhiều người nghĩ ngay rằng đây là hậu quả của một nền giáo dục tệ hại. Tôi không phủ nhận điều này vì nó là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến vấn đề. Tuy nhiên sẽ rất cảm tính và thiếu khách quan nếu chúng ta không truy nguyên những khía cạnh khác ảnh hưởng đến tính cách của một cộng đồng hay một dân tộc như nền tảng tư tuỏng triết học, tôn giáo, tập quán sinh hoạt, nghệ thuật và ngôn ngữ. Và quả thật là sẽ rất “hời hợt” khi tôi nói về nguyên nhân mà không đề cập đến những điều nói trên. Hôm nay tôi sẽ phân tích khía cạnh ngôn ngữ tiếng Việt vì ngôn ngữ là sản phẩm của tư duy và nó ảnh hưởng ngược lại tư duy của người sử dụng ngôn ngữ. Những vấn đề khác tôi sẽ đề cập trong những bài viết sau.

II. Sự hời hợt về ngôn ngữ

Chắc có nhiều người sẽ nổi giận thậm chí sẽ kết tội tôi là bôi nhọ tiếng Việt khi tôi nói rằng tiếng Việt của chúng ta là một ngôn ngữ khá hời hợt về mặt tư duy. Tôi là một người có thể sử dụng lưu loát tiếng Anh, tiếng Việt và tiếng Hoa nên tôi luôn có sự so sánh và đối chiếu về ngôn ngữ của ba thứ tiếng trên. Đó là lý do tại sao tôi nhận thấy tiếng Việt so với cả tiếng Hán lẫn tiếng Anh đều không sâu sắc bằng. Chúng ta sử dụng nhiều từ Hán Việt nhưng không biết mặt chữ tượng hình mà chỉ dựa vào âm đọc được phiên âm bằng bảng chữ cái Latin nên việc hiểu sai hiểu lầm về nghĩa từ Hán Việt là chuyện hết sức đương nhiên. Ngược lại mặc dù chữ viết của chúng ta dựa trên bảng chữ cái Latin nhưng cấu trúc văn phạm và từ vựng của chúng ta không hề thuộc về nhóm ngôn ngữ trong ngữ hệ Latin. Điều đó dẫn tới tư duy về ngôn ngữ của chúng ta sẽ không có được sự logic cao như những ngôn ngữ sử dụng ngữ hệ Latin của Châu Âu.

Như các bạn đã biết, chữ viết Việt Nam mà chúng ta đang dùng hay còn gọi là chữ quốc ngữ là một hình thức mà các giáo sĩ Bồ Đào Nha thế kỷ thứ 17 dùng để ký âm lại tiếng nói của người Việt bằng những mẫu tự trong bảng chữ cái tiếng Latin vì chữ Hán và chữ Nôm là một trở ngại lớn trong việc ghi chép và giảng Kinh Thánh. Điểm thuận lợi của chữ viết Latin là người học có thể ráp vần và phát âm những kí tự được ghép với nhau (chữ tượng thanh). Tuy nhiên điều bất cập của bản chữ cái tiếng Việt là chỉ thể hiện cách phát âm của một từ chứ không thể diễn tả được nghĩa của từ đó. Chữ Hán và chữ Nôm trước đó vốn là chữ tượng hình, mỗi ký hiệu sẽ có một ý nghĩa riêng của nó và khi ghép lại với nhau sẽ bổ sung cho nhau về mặt ngữ nghĩa. Do đó, sẽ có rất nhiều chữ viết hoàn toàn khác nhau và mang ý nghĩa khác nhau nhưng lại được đọc giống nhau. Tôi lấy một ví dụ là khi nói chữ “phong”, phần lớn người Việt đều sẽ nghĩ tới “gió”. Nhưng trong tiếng Hán Việt, có rất nhiều từ đọc là “phong” nhưng nghĩa và cách viết bằng Hán tự hoàn toàn khác nhau ví dụ như “phong” là “dán lại” trong từ “phong tỏa” hoặc “niêm phong”,”phong “ có nghĩa là “đầy đặn” trong từ “phong phú”, “phong” là “ban thưởng” như trong từ “sắc phong” hoặc “phong tước”, “phong” cũng có thể là “mũi nhọn” như trong tên của thủ lĩnh phong trào Dù Vàng Hong Kong “Hoàng Chi Phong”, “phong” cũng có thể là “con ong” (hoàng phong), “phong” có thể là “bệnh hủi”, “phong” cũng có nghĩa là “bị điên”, hay chữ “phong” trong tên của con tôi có nghĩa là “đỉnh núi” hoặc “phong” cũng có thể là “cây phong”. Nếu chỉ dựa trên âm đọc của mà không hiểu được cách viết chúng ta sẽ rất dễ dàng hiểu nhầm nghĩa của một từ.

Rất nhiều lần tôi đã giải nghĩa cho bạn bè hoặc người thân hiểu rằng tên của con tôi không phải là “gió” mà là “đỉnh núi”. Đặt tên con là “Chính Phong” tôi mong muốn con mình lớn lên chính trực và hiên ngang như một đỉnh núi, không liên quan gì tới gió mây ở đây cả. Cũng nhiều lần tôi đọc những bài viết ca ngợi Hoàng Chi Phong và người viết ví von rằng “cậu thanh niên này là một làn gió mới mang đến dân chủ cho Hong Kong” và sự ví von này hoàn toàn sai vì chữ “phong” trong tên của Joshua Wong trong tiếng Hán có nghĩa là “mũi nhọn”. Điều này tạo nên một sự hời hợt trong tư duy của người Việt, nhất là khi dùng từ Hán Việt vì chỉ biết âm đọc nhưng không biết cách viết nên rất dễ dàng mặc định âm đọc đó với một nghĩa mà mình biết bất chấp nghĩa đó đúng hay sai.

Có một lần tôi đọc trên facebook của một người dịch câu thơ “hoàng phong luyến hoa tâm” là “gió vàng vương vấn nhụy hoa” và tôi góp ý trong comment rằng “hoàng phong” theo tôi nghĩ là “ong vàng” chứ không phải “gió vàng” vì hình ảnh con ong vàng bay quanh nhụy hoa hút mật hợp lý hơn là “gió vàng”. Vì không có bản gốc chữ Hán mà chỉ có bản phiên âm Hán Việt nên rất khó có thể nói là tôi đúng hay người bạn đó đúng. Bạn thử nghĩ nếu những người dịch hoặc giảng giải từ Hán Việt có trình độ kém và lười tra cứu thì sẽ có rất nhiều trường hợp bị hiểu sai, bóp méo nghĩa hoặc thậm chí là dịch vô nghĩa.

Một vấn đề nữa là nếu chỉ dựa vào cách phát âm, nghĩa của từ Hán Việt và từ thuần Việt sẽ dễ bị nhầm lẫn. Ví dụ từ “xán lạn” một từ ghép tiếng Hán hay được viết nhầm thành “sáng lạn” . Trong tiếng Hán “xán” có nghĩa là “rực rỡ, chói lọi” kết hợp với chữ “lạn” cũng là từ tiếng Hán có nghĩa là “ánh sáng của kim loại”. Còn “sáng” trong tiếng Hán có nghĩa là “chế tạo ra” (ví dụ như “sáng tạo”, “sáng kiến”, “sáng thế”). Nếu ghép vào chữ “lạn” thành “sáng lạn” thì cụm từ này vô nghĩa. Còn nếu ghép nghĩa thuần việt của từ “sáng” vào trong từ này thì càng không hợp lý vì một từ thuần Việt không thể ghép vào một từ Hán Việt như thế được. Cũng như từ “yếu điểm” hay bị hiểu lầm là “điểm yếu” thay vì “điểm quan trọng” (chữ “yếu” trong tiếng Hán Việt có nghĩa là quan trọng như “trọng yếu”, “thiết yếu”, “tất yếu”). Còn nếu muốn nói là “điểm yếu” theo trật tự Hán Việt thì phải nói là “nhược điểm”. Một số từ để cho đọc thuận miệng đã bị đảo thứ tự lại thành ra sai nghĩa như “thủy chung” thường bị nói thành “chung thủy”. Đây là một cách nói sai hoàn toàn vì “thủy” có nghĩa là “bắt đầu” (thủy tổ, nguyên thủy) còn “chung” là “kết thúc” (chung kết, chung thân). “Thủy chung” có nghĩa là từ đầu tới cuối, còn nếu nói “chung thủy” thì có nghĩa là “từ cuối lên đầu”.

Thật lòng mà nói, bài viết này của tôi không có ý đổ tội cho việc Latin hóa chữ Việt nhưng chữ viết hiện đại của chúng ta chỉ phiên âm chứ không thể hiện được nghĩa từ và không phải ai cũng điều kiện để tìm hiểu hoặc truy nguyên gốc từ Hán Việt nên việc dùng nhầm, dùng sai, ngộ nhận đã góp phần không nhỏ ảnh hưởng đến cách tư duy của chúng ta trong ngôn ngữ. Đó là chưa kể sau này khi những kẻ dốt nát thất học lên “cải cách” ngôn ngữ và giáo dục, sự hời hợt và nông cạn thể hiện rất rõ trong việc sử dụng từ ngữ. Những danh từ như “chất lượng”, “cá tính”, “ngoại hình” đều bị dùng như một tính từ. “Cá tính” nếu hiểu đúng nghĩa là tính cách riêng của một người nên cho dù bạn là người mạnh mẽ hay yếu đuối, nhu nhược hay quyết đoán thì bạn đều là người có cá tính, chỉ có điều là cá tính của bạn như thế nào mà thôi. Tương tự, một vật dù tốt hay xấu đều có “chất lượng” chứ không thể nào không có chất lượng. Mỗi lần tôi đi ngang những nơi đăng bản tuyển nhân viên nữ “có ngoại hình” tôi lại vừa cảm thấy buồn cười vừa bực mình. Đã là vật hữu hình thì ai mà chả có ngoại hình chứ có phải là ma đâu mà không có ngoại hình. Cách nói tùy tiện theo quán tính này không chỉ thể hiện trong lời ăn tiếng nói hằng ngày mà còn xuất hiện trong rất nhiều văn bản viết vốn cần độ chuẩn xác cao của ngôn ngữ. Và việc sử dụng ngôn ngữ một cách tùy tiện và thiếu chuẩn xác hình thành nên một lối suy nghĩ cũng hời hợt và tùy tiện của người sử dụng nó.

Có thể bạn sẽ nói với tôi rằng ngôn ngữ luôn luôn thay đổi và những từ mượn như từ Hán Việt chẳng hạn sẽ có khuynh hướng mang ý nghĩa khác với nghĩa gốc ban đầu nên chuyện tiếng Việt dùng sai hoặc khác nghĩa với tiếng Hán Việt thì có gì to tát đâu. Điều này đúng là không quan trọng lắm cho tới khi bạn áp dụng cách tư duy trong tiếng Việt vào trong việc học một ngôn ngữ khác có tính logic cao như tiếng Anh chẳng hạn, bạn sẽ gặp rất nhiều rắc rối phiền hà trong việc diễn đạt vì ngôn ngữ đó không chấp nhận cách tư duy phiến diện. Ví dụ nếu tôi dịch câu “dịch vụ ở đây chất lượng lắm” sang tiếng Anh theo kiểu “the service here is very quality” thì không ai hiểu tôi nói gì cả vì câu này sai cả về ngữ pháp (phó từ “very” không thể bổ nghĩa cho “quality” là danh từ, còn “quality” không thể đứng ở vị trí tính từ) và sai về cả ngữ nghĩa (“chất lượng” (danh từ) không đồng nghĩa với “tốt” (tính từ)).
Bài viết tiếp theo tôi sẽ phân tích sự hời hợt và tùy tiện của tiếng Việt khi so sánh với tiếng Anh, một thứ ngôn ngữ được đánh giá rất cao về tính logic. Đó cũng là lý do tại sao người Việt gặp nhiều khó khăn khi học tiếng Anh vì phần lớn chúng ta không có sự logic trong tư duy ngôn ngữ. (còn tiếp)

Nguồn: https://www.facebook.com/barry.gibson.142/posts/10157105673807017

-----------

Phần này người viết khá chắc tay. Tuy nhiên phần giải nghĩa còn thiếu, nên cháu xin bổ sung.

Phong (風) - gió, bệnh phong (hủi).
Phong (封) - niêm phong, sắc phong.
Phong (丰) - phong phú.
Phong (峰) - đỉnh núi.
Phong (蜂) - con ong.
Phong (鋒) - mũi nhọn.
Phong (瘋) - điên rồ.
Phong (枫) - cây phong.

Xán (燦)
Lạn (爛)
Xán Lạn (燦爛) - rực rỡ

Sáng (創) khởi đầu, khai sáng. Cho nên nói sáng lạn là sai chính tả.
Tuy nhiên tác giả Huỳnh Chí Viễn giải nghĩa từ Sáng - chế tạo ra, cũng sai nốt.
Thực ra chế tạo ra phải là Chế (制).

Yếu điểm (要點) - điểm quan trọng, hay bị dùng nhầm thành điểm yếu.
Thủy chung (始終) - từ đầu đến cuối, hay bị dùng nhầm thành chung thủy (từ cuối lên đầu).
 

Jochi Daigaku

Vũ Trụ
Biển số
OF-456402
Ngày cấp bằng
26/9/16
Số km
50,278
Động cơ
578,217 Mã lực
Tuổi
26
Nơi ở
Tokyo
Người Việt hời hợt (phần 3)

Trước khi bắt đầu bài viết mới này, tôi muốn gửi lời cám ơn đến những bạn trên facebook đã đọc, share và góp ý cho những bài viết lần trước của tôi. Tôi luôn tôn trọng những ý kiến đóng góp từ mọi người vì nó khiến tôi và những người theo dõi hiểu thêm nhiều khía cạnh của vấn đề. Đó là một điều hết sức đáng quý. Tuy nhiên tôi cũng xin nhắc lại một số điều để các bạn có thể tranh luận đúng hướng để cho việc tranh luận có chất lượng thay vì sa đà vào tranh cãi vô ích khi “ông nói gà, bà nói vịt”:

1. Bạn nào chỉ đọc sơ vài dòng hoặc lướt qua một lần thì miễn tranh cãi theo ý kiến cảm tính của mình. Tôi viết một bài bỏ rất nhiều công sức và thời gian nên tôi không chấp nhận và hoan nghênh những người chưa đọc kỹ hiểu kỹ đã vào nói càn nói bừa. Cũng làm ơn đừng comment những câu vô duyên kiểu: “Bài dài quá, đọc mệt ghê” hay “có ai tóm tắt lại giùm tôi không?” Xin lỗi, người viết bỏ ra vài tiếng để viết còn bạn chỉ cần bỏ ra 15-20 phút để đọc mà còn lười biếng thì bạn làm ơn đi chỗ khác chơi. Chỗ này không dành cho bạn.

2. Đối với những người chưa từng quen biết tôi, chưa đọc những bài viết trước kia của tôi nếu bạn góp ý thì hãy nhớ rằng phép lịch sự tối thiểu khi vào nhà một người chưa quen biết hãy chào hỏi và nói năng cho đàng hoàng tử tế. Tôi luôn dùng kính ngữ “dạ” và thái độ khiêm cung để trả lời một người mình chưa quen biết hoặc lớn tuổi hơn mình khi họ gửi comment hoặc tin nhắn cho tôi. Có rất nhiều người tôi không cần biết trình độ hiểu biết được bao nhiêu nhưng lần đầu vào comment thái độ rất trịch thượng và láo xược, tự xem mình là bố đời. Những kẻ đó tôi sẽ block ngay chứ không giải thích hay trả lời comment.

3. Loạt bài này không có mục đích nói xấu hay chê bai tiếng Việt mà muốn chỉ ra một số điểm hạn chế về tư duy logic của tiếng Việt để chứng minh một luận điểm là “người Việt hời hợt”. Tôi tiếp cận vấn đề từ nhiều hướng để đưa ra một cái nhìn tổng quát và đa chiều theo cách nhìn của khoa học, hoàn toàn không đặt tình cảm cá nhân vào đây. Những phản biệt “tiếng Việt giàu đẹp, phong phú” hay “là người Việt thì phải biết yêu tiếng Việt” … tôi xin phép không trả lời vì nó không liên quan đến những gì tôi bàn ở đây.

4. Những phản biện không bám vào những luận điểm mà tôi đưa ra và không đưa được dẫn chứng hoặc ví dụ cụ thể tôi cũng sẽ không quan tâm. Tôi bàn về vấn đề nào, bạn hãy đưa ra luận điểm phản bác đúng vấn đề mà tôi đang nói, đừng nói tới những gì mà tôi không bàn hoặc không liên quan tới điều đang được tranh luận.

5. Đừng chụp cho tôi cái mũ là “cuồng Tây, cuồng Tàu” hoặc cứ mở miệng là chê bai Việt Nam thế này, Việt Nam thế nọ. Nếu bạn yêu nước một cách tỉnh táo và có lòng tự hào dân tộc dựa trên sự hiểu biết, bạn sẽ thấy đất nước ta hiện nay thua sút và lạc hậu rất nhiều. Và chỉ có cách nhìn vào sự thật những sai lầm yếu kém của đất nước và con người Việt Nam mà quyết tâm sửa đổi thì mới có thể cải thiện được tình hình. Sự tự tôn quá đáng hoặc ảo tưởng sức mạnh dân tộc bất chấp sự thật chỉ có thể đẩy đất nước này tới bờ vực thẳm nhanh hơn một chút thôi.

So sánh tư duy logic tiếng Việt và tiếng Anh:

Tôi là người học tiếng Anh từ nhỏ (4 tuổi đã bắt đầu), đã có một thời gian 6 năm sống ở Mỹ trong một môi trường hầu như không có người Việt và đã dạy tiếng Anh được 12 năm. Sở dĩ tôi phải nói điều này để các bạn hiểu rằng tiếng Anh đối với tôi gần như là một ngôn ngữ phổ thông chứ không phải là một ngoại ngữ. Hơn nữa, tôi học cử nhân và thạc sĩ ngành giảng dạy tiếng Anh cho người nước ngoài nên tôi rất chú trọng đến tư duy bên trong của các ngôn ngữ và sự tương quan của các ngôn ngữ với nhau. Điều này rất quan trọng đối với tôi vì nó giúp tôi hiểu được những vấn đề sau đây:

1. Tại sao người Việt bỏ rất nhiều thời gian để học tiếng Anh nhưng hiệu quả thực tế lại rất thấp?
2. Tại sao có những khái niệm rất đơn giản trong tiếng Anh nhưng rất khó giải thích trong tiếng Việt và ngược lại?
3. Tại sao nhiều người được xem là giỏi tiếng Anh ở Việt Nam vẫn mắc những lỗi rất cơ bản về dịch thuật?
4. Tại sao người Việt Nam ít khi chịu đọc thêm tài liệu hoặc thông tin bằng tiếng Anh để nhìn nhận vấn đề một cách khách quan và đa chiều hơn?

Những vấn đề nói trên có thể sẽ không quan trọng với bạn nếu bạn chỉ là người học tiếng Anh ở mức độ giao tiếp, nhưng đối với một người nghiên cứu và giảng dạy ngôn ngữ đồng thời nghiên cứu về tâm lý học, chúng làm tôi mất ăn mất ngủ vì tôi muốn tìm cách để giúp các học viên của tôi tiếp cận tiếng Anh một cách logic và hiệu quả nhất.

Để sử dụng tốt một ngôn ngữ, bạn phải hiểu rõ được tư duy logic của ngôn ngữ đó trong việc sử dụng văn phạm, cấu trúc ngữ pháp, từ vựng và cả phát âm. Nếu không làm được điều đó thì việc giảng dạy hoặc học tập một ngôn ngữ chỉ có thể dừng ở mức độ học thuộc lòng để đối phó chứ không thể đạt được sự thông thạo.

Khi tiếng Anh là một ngôn ngữ mang tính chất giao tiếp quốc tế và người Việt Nam trên lý thuyết bỏ ra rất nhiều thời gian và tiền bạc để học tiếng Anh cả trong chương trình chính quy và ngoại khóa mà kết quả vẫn rất tệ, theo tôi đó là một sự lãng phí rất lớn. Không thông thạo được tiếng Anh, bạn chẳng những mất rất nhiều cơ hội trong công việc và học tập mà nó còn là một chướng ngại vật cực kỳ to lớn để tiếp nhận thông tin đa chiều cũng như kiến thức của nhân loại: cánh cửa dẫn tới tự do dân chủ.

1. Từ vựng tiếng Anh mô tả khái niệm chuẩn xác hơn tiếng Việt rất nhiều: Một trong những thử thách lớn nhất đối với những người sử dụng ngoại ngữ là sự hiểu biết về từ vựng vì có những từ có thể đồng nghĩa trong ngôn ngữ này lại hoàn toàn không đồng nghĩa trong ngôn ngữ kia. Đặc trưng của tiếng Anh là mỗi từ đều có một ý nghĩa rất chính xác và cụ thể, thể hiện đúng bản chất của về nghĩa mà tiếng Việt không có được.

Tôi lấy ví dụ từ “gặp” trong tiếng Việt nếu được dịch sang tiếng Anh một cách hời hợt sẽ là “meet” nhưng trên thực tế có đến 4 từ khác nhau trong tiếng Anh để dịch một từ “gặp” trong tiếng Việt, và bốn từ này về ý nghĩa hoàn toàn khác nhau. Từ “meet” chỉ có thể dùng trong trường hợp hai người gặp nhau có một mục đích cụ thể nào đó vì thế nó không thể dùng trong trường hợp “hôm qua tôi tình cờ gặp anh ta ở ngoài đường” được. Đối với hành động “tình cờ gặp nhau ngoài đường”, người Anh-Mỹ dùng từ “see” đúng nghĩa là “chỉ nhìn thấy nhau”. Còn khi tôi nói “Tôi đang gặp rắc rối/khó khăn” thì cả hai từ “meet” và “see” đều sai mà phải dùng từ “encounter” với nghĩa “đối mặt với một điều/người mà mình không mong muốn”.

Ví dụ thứ hai là từ “nhận ra” trong tiếng Việt khi dịch sang tiếng Anh sẽ có hai từ “realize” và “recognize” và hai từ này hoàn toàn không đồng nghĩa với nhau. “Realize” là “nhận ra một điều gì trước đây mình chưa từng có khái niệm về nó” ví dụ “I realized that my parents have sacrificed a lot for me” (Tôi chợt nhận ra/hiểu ra bố mẹ đã hi sinh rất nhiều cho tôi). Còn “recognize” nghĩa là “nhận ra một điều gì mình đã có khái niệm về nó từ trước” (tiền tố “re” có nghĩa là “again”, gốc từ Latin “cogn” có nghĩa là “nhận thức” và hậu tố “ize” để xác định đây là động từ). Vì vậy nếu bạn đưa một tấm ảnh cho ai đó xem và hỏi người ta có nhận ra người trong hình là ai không, bạn phải dùng từ “recognize” chứ không thể là “realize” được.

Ví dụ thứ ba là cùng một từ “nuôi” trong tiếng Việt, tiếng Anh có sáu từ với khái niệm hoàn toàn khác nhau và không thể dùng thay thế cho nhau được và được chia thành hai cụm khái niệm lớn khác nhau: Cụm thứ nhất dành cho các loài vật bao gồm những từ: a) “raise”: nuôi một con vật để khai thác kiếm lợi từ nó như nuôi heo, nuôi bò, nuôi gà… b) “breed”: nuôi để làm giống, và c) “keep” : nuôi một con vật để làm cảnh. Cụm thứ hai dành cho con người bao gồm: a) “bring up” hoặc “rear” hoặc “raise”: dùng để chỉ việc nuôi dạy con cái, b) “support”: dùng để chỉ việc cung cấp tiền bạc cho một người không đủ khả năng tài chính (ví dụ: “He supported his younger brother through college” Anh ta nuôi em trai học đại học) và c) “take care of”: chăm sóc cha mẹ khi về già. Thử tưởng tượng nếu bạn không hiểu nghĩa những từ này mà cứ mặc định chúng là từ đồng nghĩa theo kiểu tiếng Việt rồi dịch cụm từ “nuôi cha mẹ” thành “keep my parents” hoặc “bring up my parents” thì kinh khủng tới mức nào.

Những ví dụ mà tôi nêu ở trên là 3 trong hàng trăm nếu không muốn nói là hàng ngàn những ví dụ về sự chặt chẽ về ngữ nghĩa trong từ ngữ tiếng Anh và sự qua loa, hời hợt trong tiếng Việt về nghĩa từ. Nếu cần thiết tôi sẽ liệt kê cả một danh sách vài chục trang giấy. Và đó chỉ là ở mức độ từ ngữ thông dụng chứ chưa nói đến từ ngữ mang tính chất chuyên ngành hoặc hàn lâm. Sự chuẩn xác về ngữ nghĩa này khiến cho người sử dụng tiếng Anh ít khi nào hiểu sai bản chất của khái niệm được đề cập và rất khó chơi trò lập lờ đánh lận con đen đánh tráo khái niệm qua mặt người khác.

2. Từ ngữ trong tiếng Anh có những dạng thức khác nhau và từ loại khác nhau, không thể lẫn lộn: Từ ngữ trong tiếng Việt không có sự biến thể trong cùng một từ (số ít, số nhiều, dạng bị động, chủ động, tính từ, trạng từ, danh từ…) nhưng tiếng Anh thì một từ có nhiều biến thể dùng với những mục đích hoàn toàn khác nhau. Lấy ví dụ từ “hạnh phúc” trong tiếng Việt vừa có thể là tính từ, vừa có thể là danh từ và cũng có thể là trạng từ. Nhưng trong tiếng Anh thì không thể. Nếu bạn muốn dịch câu “Hạnh phúc không mua được bằng tiền” thì bạn phải hiểu rằng “hạnh phúc” ở đây là “happiness” (danh từ) chứ không phải là “happy” (tính từ). Còn muốn nói “một gia đình hạnh phúc” thì phải dùng từ “happy” (tính từ) để đặt trước “family”. Và nếu muốn dịch câu “họ sống với nhau rất hạnh phúc” thì phải dùng trạng từ “happily” chứ không phải là “happy” hoặc “happiness”. Thật là thảm họa cho ai học tiếng Anh mà không quan tâm tới loại từ mà chỉ hiểu sơ sài về nghĩa từ “hạnh phúc” là “happy”.

Trong tiếng Việt chúng ta có thể nói “gà rán” hoặc “chảo rán” mà không hề cảm thấy có gì sai nhưng tiếng Anh thì không thể. Thứ nhất từ “rán” là “fry” vốn là động từ nên không có thể đặt trước danh từ “chicken” hay “pan” để làm một tổ hợp tính từ + danh từ. Để dùng từ “fry” làm tính từ, bạn phải chuyển nó thành dạng tính từ. Và việc chọn dạng tính từ thích hợp cũng không phải là dễ dãi sao cũng được vì dạng tính từ của từ “fry” có dạng V-ing (present participle) là “frying” để chỉ công dụng của một vật và dạng V3 (past participle) là “fried” để chỉ tính bị động của hành động. Nếu nói “chảo rán” thì bạn đang nói tới “công dụng của cái chảo” nên bắt buộc phải dùng là “frying pan”. Còn nếu bạn muốn nói về “gà rán” có nghĩa là “gà được/bị rán lên” thì bạn phải nói là “fried chicken” mới đúng.

Khi sử dụng tiếng Việt, bạn chỉ đơn giản là ghép hai từ với nhau để tạo thành từ mới, nhưng khi bạn sử dụng tiếng Anh, bạn phải cân nhắc xem hai từ đó là loại từ gì, có đứng chung với nhau được hay không? Nếu từ loại đã phù hợp, bạn lại phải xét tiếp là từ đó được dùng ở dạng thức gì, có phù hợp với mục đích cần sử dụng hay không? Đó là cả một quá trình suy nghĩ logic, không thể hời hợt và tùy tiện.

Có bạn sẽ nói rằng “từ đó giờ tiếng Việt dùng như vậy đấy rồi có chết ai đâu. Người Việt ai mà chả biết “gà rán” là “gà được rán lên”, còn “chảo rán” là “chảo dùng để rán.” Điều này đúng là không hại gì khi bạn chỉ sử dụng tiếng Việt mà không cần sử dụng tiếng Anh. Nhưng nếu bạn học tiếng Anh và sử dụng tiếng Anh thì bạn sẽ thấy ngay vấn đề của nó:

a. Bạn không bao giờ sử dụng được tiếng Anh đúng cách để nói và viết vì bạn mặc kệ những nguyên tắc về từ vựng của tiếng Anh. Điều này cũng giống như bạn đến chơi nhà người khác nhưng bất chấp những nguyên tắc ứng xử của gia đình người ta mà bắt người ta phải hiểu mình.

b. Bạn sẽ không bao giờ hiểu được tiếng Anh vì bạn không hiểu được mỗi dạng từ của cùng một từ đều có ý nghĩa khác nhau. Học những ngôn ngữ chịu ảnh hưởng của tiếng Latin như Anh, Pháp, Tây Ban Nha, bạn không thể chỉ cầm cuốn từ điển ra để học từ vựng một cách máy móc vì sự thay đổi dạng thức của một từ trong những ngữ cảnh khác nhau.

Ở trong phần bài viết này, tôi chỉ mới chạm tới lớp vỏ bên ngoài của ngôn ngữ là từ vựng. Tôi vẫn còn chưa nói đến cấu trúc văn phạm và phát âm. Hẹn các bạn ở phần tiếp theo. Để viết một bài, tôi phải tốn rất nhiều công sức. Hi vọng các bạn đừng phản biện theo kiểu cảm tính. Xin cám ơn (còn tiếp)

Nguồn: https://www.facebook.com/barry.gibson.142/posts/10157120312027017

-----------

Phần này tác giả viết tốt. Nhưng phần giải nghĩa ví dụ còn chưa đào sâu vấn đề.
Chẳng hạn như từ "gặp" trong tiếng Việt, ngoài những ví dụ như tác giả nêu ra meet/see/encounter
Khi dùng với nghĩa bóng (gặp nhau về mặt tư tưởng) người ta hay dùng get together.

“encounter” với nghĩa “đối mặt với một điều/người mà mình không mong muốn” (giải nghĩa của tác giả Huỳnh Chí Viễn).
Đúng nhưng chưa đủ, thậm chí là sai nếu mang tư duy này khi đọc Kinh Thánh. Vì trong Kinh Thánh, encounter là gặp những người mà mình mong muốn gặp (ví dụ gặp Chúa Jesus). Nếu không tin, mọi người cứ tra google với cụm từ khóa [encounter Jesus].
 

Jochi Daigaku

Vũ Trụ
Biển số
OF-456402
Ngày cấp bằng
26/9/16
Số km
50,278
Động cơ
578,217 Mã lực
Tuổi
26
Nơi ở
Tokyo
Người Việt hời hợt (phần 4)

So sánh tiếng Anh và tiếng Việt (tiếp theo)
Tính logic của mạo từ tiếng Anh và nỗi khổ của người Việt khi dùng mạo từ.
(Lưu ý: Bài viết mang tính học thuật nhưng không quá phức tạp và cực kỳ cần thiết cho những người học tiếng Anh nghiêm túc)

Một trong khái niệm đơn giản và logic nhất của tiếng Anh nhưng hầu hết người Việt sử dụng tiếng Anh thường khó có thể hiểu được thấu đáo và sử dụng chính xác đó là cách dùng những mạo từ “a, an, the” đứng trước danh từ. Luật sử dụng mạo từ trong tiếng Anh không khó, nó chủ yếu dựa trên hai yếu tố:
a. Số của danh từ: số ít, số nhiều và không đếm được.
b. Tính xác định của danh từ: xác định và không xác định.

Quy tắc sử dụng mạo từ sẽ dựa trên sự kết hợp giữa hai yếu tố trên. Ví dụ: danh từ số ít sẽ có hai dạng là xác định và không xác định, danh từ số nhiều cũng sẽ có hai dạng xác định và không xác định, và danh từ không đếm được cũng vậy.
a. Danh từ số ít và không xác định (một vật được nhắc đến một cách ngẫu nhiên, một cái bất kỳ trong nhiều cái cùng loại, một vật lần đầu tiên được người nói giới thiệu đến cho người nghe) thì bắt buộc phải sử dụng mạo từ “a” (nếu danh từ đó bắt đầu bằng một âm phụ âm) hoặc “an” (nếu danh từ đó bắt đầu bằng âm nguyên âm).
b. Danh từ số ít và được xác định (vật mà cả người nói lẫn người nghe đều biết, cái duy nhất tại thời điểm nói, vật này đã được nhắc đến ít nhất một lần trước đó) thì bắt buộc phải dùng “the” trước danh từ đó.
c. Danh từ số nhiều và danh từ không đếm được nếu không xác định (nói một cách tổng quát chung chung) thì không dùng mạo từ.
d. Danh từ số nhiều và danh từ không đều được nếu xác định (những vật mà cả người nói lẫn người nghe đều biết, tất cả những cái tại thời điểm nói, những vật này đã được nhắc đến ít nhất một lần trước đó) thì bắt buộc phải dùng “the” trước nó.

Khi người Việt dùng danh từ, người nói và người nghe sẽ tự hiểu rằng danh từ đó là số ít hay số nhiều hay không đếm được và có xác định hay không. Vì sự “tự hiểu” này sẽ có rất nhiều trường hợp ý của câu bị hiểu sai một cách vô tình hoặc cố ý. Trong tiếng Anh thì khi nói, người nói phải sử dụng đúng mạo từ để người nghe không thể hiểu lầm hoặc tự đoán rằng người nói muốn nói gì. Có nghĩa là danh từ trong câu tiếng Anh khi nói phải chính xác tuyệt đối về số và tính xác định của nó. Và chính điều này khiến cho việc sử dụng mạo từ trong tiếng Anh đối với người Việt là một điều hết sức khó khăn. Tôi sẽ giải thích đơn giản cho các bạn biết bằng những ví dụ cụ thể nhé:
a. Trong tiếng Việt, câu “Đưa cho tôi cái ghế” sẽ được hiểu theo hai cách: người nghe sẽ đưa cho người nói một cái ghế bất kỳ nếu trong phòng có từ hai chiếc ghế trở lên hoặc người nghe sẽ hiểu được rằng người nói muốn cái ghế nào và đưa cho người nói cái ghế mà anh ta muốn. Trong tiếng Anh, hai ý này không thể viết bằng một câu mà phải viết bằng hai câu riêng biệt. Nếu anh muốn tôi đưa cho anh một cái ghế bất kì (không xác định) thì anh phải nói là “Give me A chair” còn nếu anh muốn tôi đưa cho anh cái ghế mà anh muốn (xác định) thì anh phải nói là “Give me THE chair”. Không có chuyện trong tiếng Anh, một người nói với người kia “Give me chair” (không có mạo từ) thì người kia tự động hiểu đúng là người kia muốn gì.

b. Nếu bạn dịch câu “Anh ấy phải bán xe để trả nợ” sang tiếng Anh bạn sẽ dịch như thế nào? Tiếng Anh sẽ không có một cách dịch chung mà sẽ tùy theo trường hợp mà sẽ có những cách dịch khác nhau dựa vào tính xác định và số của hai danh từ “xe” và “nợ”:

Nếu anh ta bán chiếc xe anh ta đang sử dụng và đó là chiếc xe duy nhất thì từ “xe” phải dịch là “THE car”. Nếu anh ta có nhiều chiếc xe và bán bớt đi một chiếc trong số đó thì “xe” sẽ dịch là “A car”. Nếu anh ta phải bán đi tất cả những chiếc xe mà anh ta có thì “xe” phải dịch là “THE cars”.

Nếu anh ta chỉ có một món nợ thì chữ “nợ” sẽ được dịch là “the debt”. Nếu anh ta chỉ có trả được một trong những món nợ mà anh ta vay thì “nợ” trong câu này sẽ là “a debt”. Còn nếu anh ta bán xe để trả hết tất cả những món nợ của anh ta thì “nợ” sẽ được dịch là “the debts”.

Bạn nào có một chút khái niệm về toán tổ hợp sẽ thấy rằng nếu kết hợp hai tổ hợp “xe” và “nợ” lại với nhau chúng ta sẽ viết được tới 9 câu khác nhau.
1. He must sell THE CAR to pay THE DEBT. (Anh ta phải bán chiếc xe đang chạy để trả món nợ duy nhất)
2. He must sell THE CAR to pay A DEBT. (Anh ta phải bán chiếc xe đang chạy để trả một trong những món nợ của mình).
3. He must sell THE CAR to pay THE DEBTS. (Anh ta phải bán chiếc xe đang chạy để trả hết những khoản nợ của mình)
4. He must sell A CAR to pay THE DEBT. (Anh ta phải bán một trong những chiếc xe anh ta có để trả món nợ duy nhất).
5. He must sell A CAR to pay A DEBT. (Anh ta phải bán một trong những chiếc xe anh ta có để trả một trong những món nợ của mình)
6. He must sell A CAR to pay THE DEBTS. (Anh ta phải bán một trong những chiếc xe anh ta có để trả những khoản nợ.)
7. He must sell THE CARS to pay THE DEBT. (Anh ta phải bán tất cả những chiếc xe mình có để trả món nợ duy nhất).
8. He must sell THE CARS to pay A DEBT. (Anh ta phải bán tất cả những chiếc xe mình có để trả một trong những món nợ của mình).
9. He must sell THE CARS to pay THE DEBTS. (Anh ta phải bán tất cả những chiếc xe mình có để trả hết những khoản nợ).

Bây giờ hãy thử dịch câu “Tôi đi đến nhà sách để mua sách” sang tiếng Anh nhé. Sẽ có bao nhiêu khả năng?

c. Khi bạn nói “Chúng ta không thể sống thiếu nước” thì từ “nước” ở đây được hiểu là danh từ không đếm được và là một khái niệm chung nên sẽ không dùng mạo từ. Do đó câu này sẽ dịch thành “we cannot live without WATER”. Còn khi bạn nói “Đừng uống nước trong cái ly đó” thì từ “nước” trong trường hợp này là danh từ không đếm được và xác định rõ ràng (nước trong cái ly đó chứ không phải là nước ở nơi khác). Do đó câu này sẽ được dịch thành “Don’t drink THE WATER in that cup”.

Do logic trong tiếng Việt không có những khái niệm “xác định” và “không xác định” đối với danh từ nên việc sử dụng mạo từ đúng trong tiếng Anh là một thử thách lớn cho người học tiếng Anh kể cả những người học lâu năm nhưng không quan tâm đến nguyên tắc này. Người Việt sử dụng danh từ thường mắc những lỗi kinh điển về mạo từ sau:
a. Không dùng mạo từ “a, an, the” trước danh từ số ít.
b. Dùng “the’ tùy tiện theo kiểu thấy thích thì dùng, không thì thôi.
c. Dùng danh từ số ít trong những trường hợp đáng lẽ phải dùng số nhiều.

Việc sử dụng sai mạo từ trong tiếng Anh khiến cho nghĩa câu bị hiểu sai nghiêm trọng hoặc câu thậm chí không có nghĩa. Lúc còn ở Việt Nam, tôi cũng mắc những lỗi sai sử dụng mạo từ một cách tùy hứng vì không hiểu được tư duy logic của việc dùng mạo từ. Giáo viên tiếng Anh người Việt thường giảng rất sơ sài là “a, an” dành cho danh từ không xác định, còn “the” dành cho danh từ xác định nhưng chính họ cũng không hiểu thế nào là xác định và không xác định, còn tới danh từ không đếm được thì nhiều người bỏ qua không giảng vì không có khái niệm này.

Khi dạy ngữ pháp, tôi dạy rất kỹ về mạo từ, cho rất nhiều ví dụ nhưng hầu hết học viên của tôi sau khi học xong đều không áp dụng được vì ít ai chịu tư duy về tính xác định của danh từ mà chọn mạo từ thích hợp. Phần lớn sẽ nghĩ theo kiểu tiếng Việt không cần tới mạo từ, mặc kệ người nghe hoặc người đọc hiểu sao thì hiểu. Và khi đọc hoặc nghe người bản xứ nói tiếng Anh, người Việt cũng thường không chú ý đến cách dùng mạo từ trước danh từ để hiểu đúng ý mà người kia muốn diễn đạt. Đây là một trở ngại lớn về mặt tư duy khiến cho việc học tiếng Anh của người Việt không hiệu quả nếu chỉ học thuộc lòng mà không suy luận. (còn tiếp)

Nguồn: https://www.facebook.com/barry.gibson.142/posts/10157134780417017

------------

Phần này tốt, không có vấn đề gì cả.
 

Jochi Daigaku

Vũ Trụ
Biển số
OF-456402
Ngày cấp bằng
26/9/16
Số km
50,278
Động cơ
578,217 Mã lực
Tuổi
26
Nơi ở
Tokyo
Người Việt hời hợt (phần 5)

Tại sao người Việt thường không sử dụng đúng thì trong tiếng Anh?

Khái niệm “thì” (tense) là một khái niệm gắn liền với cách sử dụng động từ trong tiếng Anh và cũng là một trong những khái niệm cơ bản trong tiếng Anh. Các thì trong tiếng Anh được công thức hóa nên việc nhớ công thức của thì không phải là quá khó. Tuy nhiên, đối với đại đa số người Việt học tiếng Anh thì cho dù nhớ công thức của thì, việc sử dụng đúng thì khi nói và viết lại là một chuyện khác. Với bài viết này, tôi hi vọng những bạn học tiếng Anh sẽ hiểu được nguyên tắc tư duy khi dùng thì trong tiếng Anh để có thể sử dụng thì một cách hiệu quả.

Trước hết, một thì trong tiếng Anh luôn bao gồm có hai phần: thời gian (time) và bản chất (nature) của hành động. Thời gian (time) gồm có: past (quá khứ), present (hiện tại) và future (tương lai). Còn bản chất (nature) thì gồm có: simple (đơn), tiếp diễn (continuous), hoàn thành (perfect) và hoàn thành tiếp diễn (perfect continuous). Khi kết hợp time và nature thì sẽ được tense. Như vậy sẽ có 12 thì (3x4) trong tiếng Anh. Vấn đề là trong tiếng Việt, khi nói về một hành động chúng ta chỉ nghĩ đơn giản rằng hành động đó đã, đang hoặc sẽ xảy ra, tức là chú trọng yếu tố “time” của hành động nhưng lại không có khái niệm về bản chất của hành động trong thời gian đó xảy ra như thế nào. Trong khi đó, đối với thì của tiếng Anh, yếu tố ”time” chỉ là yếu tố mang tính chất tương đối còn yếu tố “nature” mới là yếu tố cốt lõi. Do đó, nếu học thì tiếng Anh mà chỉ chú trọng vào yếu tố “time” mà không hiểu hoặc không coi trọng yếu tố “nature” sẽ không bao giờ dùng thì đúng được.

a. Nếu hiểu từ “Continuous” là “tiếp diễn” theo nghĩa là “đang diễn ra” thì sẽ không chính xác. Vì nếu bạn nói “present continuous” là hành động đang diễn ra ở hiện tại thì còn chấp nhận được chứ nếu nói “past continuous” là “đã đang diễn ra” và “future continuous” là “sẽ đang diễn ra” thì nghe mâu thuẫn quá. “Continuous” hiểu cho đúng là “hành động diễn ra theo khuynh hướng kéo dài trong một khoảng thời gian”. Nếu bạn suy nghĩ theo logic này thì khi muốn nói về một hành động đã diễn ra trong quá khứ và muốn nhấn mạnh sự kéo dài của nó, bạn sẽ dùng thì “past continuous”. Ví dụ khi tôi muốn dịch câu “tôi đã làm việc suốt ngày hôm qua” thay vì dùng thì simple past (I worked all day yesterday), tôi sẽ dùng past continuous để nhấn mạnh vào hành động kéo dài (I was working all day yesterday) sẽ hiệu quả hơn. Tương tự, để diễn tả một hành động sẽ diễn ra trong tương lai và kéo dài trong một khoảng thời gian, tôi sẽ dùng “future continuous.” (I will be sleeping this whole weekend). Tất nhiên thì “present continuous” dùng để diễn tả hành động đang diễn ra trong thời điểm nói.

b. Khái niệm “perfect” được dịch sang tiếng Việt là “hoàn thành” cũng là một cách dịch khá hời hợt thiếu chính xác vì nếu bạn nói “past perfect” là “quá khứ hoàn thành” sẽ là dư thừa vì hành động nếu xảy ra trong quá khứ thì coi như đã hoàn thành, còn nếu nói “future perfect” là “tương lai hoàn thành” thì lại tối nghĩa vì “tương lai” chưa xảy ra, làm sao có thể “hoàn thành” được? “Perfect” nếu muốn hiểu đúng thì phải hiểu là “hoàn tất trước một thời điểm”. Một hành động nếu dùng “past perfect” để diễn đạt sẽ có ý nhấn mạnh rằng hành động này “diễn ra trước một hành động hoặc một mốc thời gian trong quá khứ”. Ví dụ như để nói rằng: “Anh ấy đã bỏ đi trước khi tôi đến”, người Anh/Mỹ sẽ dùng thì “past perfect” cho hành động “anh ấy đã bỏ đi” vì nó diễn ra trước hành động “tôi đến”. Sẽ không quá khó hiểu khi bạn áp dụng cách hiểu này vào “future perfect” vì thì này diễn tả một hành động hoàn thành trước một hành động khác hoặc một mốc thời gian trong tương lai. Ví dụ: “Em tôi sẽ tốt nghiệp trước năm 2021” hoặc “Tôi sẽ hoàn thành công việc này trước khi anh ta quay trở lại”. Riêng với thì “present perfect” thì hơi khác một tí vì nó được dùng khi người nói muốn ám chỉ hoặc nhấn mạnh hành động trong quá khứ đã xảy ra được bao lâu so với hiện tại. Ví dụ “Anh ta đã phải chịu đựng căn bệnh này hơn một năm rồi” (He has suffered from this disease for more than a year” hoặc “Tôi chưa từng gặp lại anh từ năm ngoái” (I haven’t seen him again since last year).

c. Khái niệm “perfect continuous” dùng để diễn tả một việc đã xảy ra trước (perfect) nhưng vẫn kéo dài cho tới khi hành động thứ hai diễn ra (continuous). Ví dụ “anh ta đã làm việc ở đây cho tới khi tôi thay thế vị trí của anh ta vào năm ngoái” (He had been working here until I replaced him) (past perfect) hoặc “Tôi đã chờ ở đây hơn 2 tiếng nhưng vẫn chưa thấy ai tới” (I have been waiting here for two hours but no one showed up yet”.

d. Riêng về khái niệm “simple” (đơn) là một từ không dùng để chỉ cách thức diễn ra của hành động mà dùng để ám chỉ công thức của những thì “simple” đơn giản hơn những thì khác (không cần mượn trợ động từ và dạng của động từ chính đơn giản hơn ở thể xác định). Rất hiếm giáo viên Việt Nam khi dạy thì hiểu được nghĩa của từ “simple” này. Chính vì vậy thì “present simple” thường bị hiểu sai là miêu tả một hành động “đơn giản” ở hiện tại (không có khái niệm “hành động đơn giản” trong tiếng Anh) trong khi đó, thì này dùng để diễn tả một thói quen hoặc sự thật hiển nhiên không bị ràng buộc về yếu tố thời gian.

Dĩ nhiên vẫn còn nhiều cách dùng khác cho những thì nói trên nhưng nếu bạn hiểu được logic cơ bản đằng sau các thì thì việc chọn lựa thì đúng để diễn đạt trong tiếng Anh sẽ chính xác và hiệu quả hơn. Ngoài ra còn có những dạng thì sử dụng để chỉ sự giả định của hành động (hành động đó trên thực tế không xảy ra) dùng với các mẫu câu điều kiện “if”. Nếu chỉ căn cứ vào yếu tố “time” thì bạn sẽ không hiểu được tại sao “present perfect” hoặc “present perfect continuous” lại sử dụng để diễn tả hành động trong quá khứ chứ không phải là hành động trong hiện tại và khi muốn diễn tả hành động diễn ra ở hiện tại thì bạn lại chọn “present simple” vốn không liên quan gì đến hiện tại cả.

Một trở ngại nữa về tư duy logic của tiếng Việt khi áp dụng để hiểu thì trong tiếng Anh là cấu trúc thì của tiếng Anh đòi hỏi sử dụng đúng “dạng” của động từ. Một động từ trong tiếng Anh khi chia thì sẽ rơi vào những dạng như sau:

a. Present form: là động từ dạng nguyên mẫu dùng với các chủ ngữ “I, you, we, they” và dạng thêm “s/es” khi dùng với các chủ ngữ “he, she, it” ở thì present simple.

b. Present participle form: là động từ dạng hiện tại phân từ V-ing, được dùng cho các thì mang tính chất “continuous”.

c. Past simple form: là dạng quá khứ đơn của động từ (V-ed đối với động từ có quy tắc hoặc cột thứ hai đối với động từ bất quy tắc) được dùng cho thì past simple.

d. Past participle form: là dạng quá khứ phân từ (V-ed đối với động từ có quy tắc hoặc cột thứ 3 đối với động từ bất quy tắc) được dùng cho những thì mang tính chất “perfect”.

Sự chặt chẽ này khiến cho người sử dụng tiếng Anh chỉ cần nhìn vào trợ động từ và dạng của động từ chính trong câu thì có thể hiểu chính xác hành động đó diễn ra như thế nào và khi nào (mục đích của thì). Sẽ rất khó hiểu lầm về ý của người nói hoặc người viết khi họ chọn cách dùng một thì để diễn đạt ý của mình.

Trong khi đó động từ trong tiếng Việt không có những dạng khác nhau. Để diễn đạt ý nghĩa của thì, người sử dụng sẽ kết hợp một cách lỏng lẻo những trạng từ “sẽ”, “đã”, “đang” hoặc “rồi”vào trước động từ đó hoặc thậm chí là không có cả những từ này mà người nghe hoặc người đọc phải tự hiểu rằng hành động đó xảy ra hay chưa. Ví dụ: Khi tôi nói “Tôi gặp anh ta ngày hôm qua” thì người nghe sẽ hiểu là hành động diễn ra rồi căn cứ vào trạng từ chỉ thời gian “ngày hôm qua” chứ không phải căn cứ vào dạng của động từ “gặp”. Tương tự, người nghe sẽ căn cứ vào trạng từ “rồi” trong câu “tôi ăn sáng rồi” để hiểu rằng hành động “ăn sáng” đã diễn ra trong quá khứ. Nhưng vấn đề là những từ “đã, sẽ, rồi, đang” hoặc những trạng từ chỉ thời gian “hôm qua, tuần tới, ngày mai” không phải lúc nào cũng xuất hiện trong câu tiếng Việt nên việc đoán hành động xảy ra chưa hay rồi đối với người nghe sẽ rất khó khăn. Ví dụ khi tôi nói “tôi ăn sáng lúc 8 giờ”, người nghe sẽ dựa vào ngữ cảnh mà hiểu rằng hành động ăn sáng đã xảy ra (nếu thời điểm nói là sau 8 giờ) hoặc chưa xảy ra (nếu thời điểm nói là trước 8 giờ) hoặc cũng có thể hiểu đây là một thói quen lặp đi lặp lại lúc 8 giờ của người nói nếu không dựa vào yếu tố thời gian. Ngay cả một câu được hiểu trong tiếng Việt là đã xảy ra rồi trong quá khứ “Tôi đã làm việc ở đây hai năm” cũng có thể diễn giải thành ba câu với ý nghĩa hoàn toàn khác nhau trong tiếng Anh:
a. “I worked here for two years” với ý nói “trước đây tôi đã làm việc ở đây hai năm, nhưng bây giờ thì không còn nữa.”
b. “I have worked here for two years” với ý “tính tới thời điểm này, tôi đã làm việc ở đây được 2 năm”.
c. “I have been working here for two years” với ý “tính tới thời điểm này tôi đã làm việc ở đây được 2 năm và hiện vẫn đang làm.”

Việc không chia động từ trong tiếng Việt cũng khiến cho người Việt học tiếng Anh không chú tâm tới logic chia động từ của ngôn ngữ này mà theo quán tính sẽ dùng luôn động từ nguyên mẫu vào câu bất chấp thì đó là thì gì. Rất nhiều người Việt quên không thêm “s” vào sau động từ ngôi thứ ba số ít khi dùng nó với chủ ngữ “he, she, it” ở hiện tại đơn cũng như không chia động từ sang dạng quá khứ khi kể lại những chuyện mình đã trải qua.

Có người sẽ cho rằng tiếng Việt như vậy đơn giản hơn nhiều, không cần nhớ nhiều dạng động từ làm gì cho mệt. Câu trả lời của tôi là thế này: “Nếu anh chấp nhận việc mặc cùng một bộ quần áo cho tất cả những dịp đi làm, đi chơi, đi dự tiệc, ở nhà và lên giường ngủ thì đúng là việc không chia động từ cho những trường hợp khác nhau thì đối với anh không có gì gọi là quan trọng cả.”

Tôi vẫn còn một bài viết phân tích về ngôn ngữ nữa trước khi chuyển sang phân tích những khía cạnh khác như lịch sử, tín ngưỡng, tư tưởng, văn hóa và giáo dục. Hi vọng các bạn kiên nhẫn theo dõi và khoan kết luận gì trước khi đọc hết series dài tập này. Rất cảm ơn sự ủng hộ của các bạn với những bài viết của tôi về những chủ đề khá khó đọc như thế này. (còn tiếp)

Nguồn: https://www.facebook.com/barry.gibson.142/posts/10157143765592017

-----------

Phần này tốt, không có vấn đề gì.
Chỉ có điều dường như tác giả hơi sa đà vào thế mạnh của mình (tiếng Anh).
 

Tigerwood

Xe tăng
Biển số
OF-44665
Ngày cấp bằng
27/8/09
Số km
1,703
Động cơ
486,086 Mã lực
Nơi ở
Hà Nội
Website
donghai-tvtk.com
Đặc điểm thứ 13: Đam mê
Cái đel gì cũng đam mê, mở mồm ra là đam mê này đam mê nọ. Chơi gì cũng đam mê, mỗi lao động là tiệt không thấy đam mê bao giờ.
Hình như cụ lói hơi xai: iem rất thích nao động, nhất nà trong nhà nao động :D
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top