E tìm đc một bài viết khá hay của cụ DO CAO BAO về kết quả nghiên cứu mối quan hệ giữa thủy điện lũ lụt, gửi cccm thẩm.
"Nghiên cứu của Liên minh Địa vật lý Hoa Kỳ “Thủy điện có khiến thế giới dễ bị lũ lụt hơn không?”.
Trong quá trình đi tìm câu trả lời từ các tổ chức khoa học quốc tế có uy tín cho câu hỏi “Thủy điện có phải là tác nhân gây ra lũ lụt ở hạ lưu không?”, tôi tìm thấy một nghiên cứu mới nhất của AGU được công bố vào ngày 25/9/2025 với tiêu đề “Thủy điện có khiến thế giới dễ bị lũ lụt hơn không?”
AGU là viết tắt của Advancing Earth and Space Sciences - Liên minh Địa vật lý Hoa Kỳ, tổ chức khoa học phi lợi nhuận chuyên phát triển khoa học Trái Đất và Không gian, bao gồm cả khí quyển, đại dương, thủy văn, không gian và hành tinh.
Nghiên cứu của AGU xem xét nghiêm túc mối quan hệ phức tạp giữa phát triển thủy điện và rủi ro lũ lụt thông qua phân tích 107 đập thủy điện lớn ở các khu vực khác nhau trên thế giới kéo dài trong khoảng thời gian 40 năm.
NGUYÊN TẮC CHỌN THỦY ĐIỆN NGHIÊN CỨU:
AGU tìm kiếm toàn diện từ hơn 7.000+ đập lớn và lọc nó theo địa hình và khí hậu thủy văn để chọn ra các thủy điện ở những khu vực có địa hình dốc cao, uốn lượn và lượng mưa cao (trên 1.900mm một năm), sau đó loại bỏ các đập thủy điện ở Na Uy, Nhật Bản, Mỹ là những quốc gia có thu nhập cao để tập trung nghiên cứu vào khu vực các nước kinh tế đang phát triển.
Theo nguyên tắc này, AGU chọn ra 107 đập thủy điện ở Trung Mỹ (19 thủy điện), Nam Mỹ (18 thủy điện), Châu Phi (10 thủy điện), Nam Á (25 thủy điện) và Đông Nam Á (37 thủy điện, trong đó Việt Nam ~ 14 thủy điện).
DỮ LIỆU (chuyên môn hơi sâu):
Sử dụng đầy đủ dữ liệu viễn thám vệ tinh và quan sát Trái đất trong hơn 40 năm (dữ liệu vệ tinh có thể cung cấp nhiều thông tin và hiểu biết có giá trị về biến đổi thủy văn, sử dụng đất và hoạt động của hồ chứa).
Bằng cách kết hợp ước tính mực nước với dữ liệu diện tích bề mặt viễn thám, có thể ước tính những thay đổi trong lưu trữ hồ chứa. Những biến thể này, cùng với dữ liệu dòng chảy vào dựa trên mô hình thủy văn, cho phép tính toán lượng xả hồ chứa thông qua việc sử dụng các phương trình cân bằng nước.
Dữ liệu khí hậu được sử dụng làm nguồn cho hồ sơ dài hạn, độ phân giải cao về lượng mưa, nhiệt độ và tốc độ gió. Các bộ dữ liệu này cho phép tái tạo dòng chảy lịch sử, tốc độ bốc hơi của hồ chứa và sự thay đổi lượng mưa, tạo nền tảng vững chắc để hiểu các tác động khí hậu dài hạn đối với hoạt động của hồ chứa.
Các bộ dữ liệu bổ sung được sử dụng là dân số, độ che phủ đất và bức xạ ánh sáng ban đêm. Bản đồ độ che phủ đất và dữ liệu ánh sáng ban đêm cung cấp thông tin quan trọng về kinh tế xã hội và sử dụng đất cũng như hoạt động của con người và nhu cầu năng lượng, trong khi lưới dân số cho phép đánh giá những thay đổi nhân khẩu học và mở rộng đô thị gần các hồ chứa thủy điện. Bản đồ che phủ đất cung cấp các bản cập nhật chi tiết hàng năm, cho phép theo dõi sự mất độ che phủ rừng, xu hướng đô thị hóa và mở rộng nông nghiệp ở thượng nguồn và hạ lưu của các hồ chứa.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Sử dụng dữ liệu vệ tinh và dựa trên mô hình thủy văn để tạo ra dòng chảy hồ chứa, mô hình lưu trữ, xả nước và mức độ trong lũ lụt hạ lưu.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU:
Một phần đáng kể các vị trí đập thủy điện được phân tích đã chứng minh khả năng giảm thiểu rủi ro lũ lụt ở hạ lưu ở mức độ lớn. Tuy nhiên, khoảng 26,2% đập thủy điện được phát hiện có khả năng làm trầm trọng thêm nguy cơ lũ lụt ở hạ lưu, trong đó có khoảng 6% đập thủy điện được phát hiện có tác động bất lợi đáng kể đến tình hình lũ lụt với mức độ tin cậy cao.
Kết quả chi tiết:
1) Có 48 đập thủy điện (41,1%) có đặc tính giảm thiểu lũ lụt bằng cách đệm chống lại các dòng chảy cực đoan.
2) Có 28 đập thủy điện (26,2%) có khả năng làm trầm trọng thêm nguy cơ lũ lụt, chủ yếu là do tốc độ mưa tăng đều đặn và mất công suất hồ chứa do bồi lắng lâu ngày.
3) Nam Mỹ và Nam Á thể hiện sự tập trung cao hơn của các địa điểm "Có khả năng gây lũ lụt" và "Có khả năng gây lũ lụt (độ tin cậy cao)", phản ánh rủi ro lũ lụt đáng kể ở hạ lưu ở khu vực này.
4) Đông Nam Á có số lượng đập cao nhất được phân loại là "Có khả năng bảo vệ lũ lụt", cho thấy thực hành quản lý hồ chứa hiệu quả hơn hoặc điều kiện thủy văn thuận lợi ở khu vực này.
Trong 37 thủy điện ở Đông Nam Á được nghiên cứu có 32 thủy điện (86,49%) không làm cho lũ lụt tăng nên (trong đó có 17 thủy điện có khả năng làm giảm lũ lụt), chỉ có 5 thủy điện (13,51%) có khả năng làm trầm trọng thêm lũ lụt ở hạ lưu (trong đó có 3 thủy điện thuộc dạng có độ tin cậy cao)
Việt Nam, trong báo cáo của AGU không có con số tường minh, nhưng nhìn bản đồ minh họa đi kèm thì tôi đếm được 14 thủy điện, trong đó có 12 thủy điện (85,71%) không làm cho lũ lụt tăng thêm, chỉ có 2 thủy điện (14,28%) có khả năng làm trầm trọng thêm lũ lụt ở hạ lưu (ở dạng có độ tin cậy không cao).
Nguyên nhân khiến các thủy điện “có khả năng gây lũ lụt”:
1) Do thiên nhiên: lượng mưa cao, tăng trưởng lượng mưa trung bình hàng năm cao, xuất hiện nhiều các trận mưa cực đoan.
2) Do khu vực xung quanh thủy điện: đô thị hóa dưới hạ lưu tăng cao, diện tích rừng thượng lưu bị thu hẹp.
3) Do chính thủy điện: khả năng lưu trữ nước của hồ giảm do lắng đọng, diện tích bề mặt lòng hồ giảm, chiều dài hạ lưu sông ngắn.
BÌNH LUẬN
Thế giới có khoảng 90.000 thủy điện, AGU chọn ra 107 thủy điện (Việt Nam có 382 thủy điện, AGU chọn ra 14 thủy điện) mà họ cho rằng có nguy cơ tăng lũ lụt ở hạ lưu để làm đối tượng nghiên cứu, kết quả là số thủy điện “có khả năng gây lũ lụt” là 26,2% với toàn cầu và 14,28% với Việt Nam.
AGU cho rằng những thủy điện không nghiên cứu (chiếm 96,34% đến 98,8%) khả năng lớn là những thủy điện có tác dụng giảm thiểu lũ lụt (hay ít ra là không phải tác nhân gây ra lũ lụt ở hạ lưu). Vì vậy tỷ lệ thủy điện “có khả năng gây lũ lụt” thực tế thấp hơn nhiều, cũng như tỷ lệ thủy điện “có khả năng giảm thiểu lũ lụt” cao hơn nhiều.
Chưa hết, có đến 2/3 nguyên nhân khiến một thủy điện bị đánh giá là “có khả năng gây lũ lụt” là do các nguyên nhân bên ngoài thủy điện (thiên nhiên, đô thị hóa hạ lưu, rừng thượng lưu), chỉ có 1/3 nguyên nhân là do chính thủy điện mà thôi.
Cho đến thời điểm này, tôi mới tìm được một nghiên cứu khoa học này về chủ đề thuỷ điện làm giảm lũ lụt & tăng nguy cơ gây lũ lụt.
Ảnh: bản đồ kết quả nghiên cứu (xanh là giảm lũ lụt, ghi là mơ hồ, đỏ là có khả năng tăng lũ lụt).
( Từ Cao Đỗ Bảo)
Là đời thứ 2 làm thủy điện và f1 của một chuyên gia thủy công hàng đầu Việt Nam ( Cha cụ là thế hệ thứ 2 sau
những người anh cả thủy điện Việt Nam : Thái Phụng Nê, Nguyễn Đình Tranh), thực sự mấy ngày nay rất hoang con mẹ mang khi rất nhiều bài đồng loạt” đổ oan “ cho TĐ xả lũ hại dân lành .
Là người con, người cháu
của những chuyên gia thủy công hàng đầu Việt Nam và cũng có nhà máy thủy điện vừa trên Sông Bung thuộc QN và vài cái trên Sơn trà.
Tôi rất mong muốn nhà nước cử những chuyên gia hàng đầu và mời cả những chuyên gia thủy công, chuyên gia đánh giá tác động môi trường thế giới, mở một đợt tổng kiểm thanh tra đánh giá lại các nhà máy thủy điện vừa và nhỏ trên toàn quốc để kết luận rõ ràng: nhà máy nào trong quá trình TKKT hoặc trong quá trình vận hành sai sót ko tuân thủ nghiêm ngặt quy định gây lũ lụt ảnh hưởng nghiêm trọng đến dân lành thì cho dừng, cấm vận hành vĩnh viễn dù đó là của tư nhân hay nhà nước.
Để mỗi khi mùa lũ về gây thiệt hại cho dân ít nhất có thể và không có cớ đổ hô cho TĐ nữa.
Bài viết rất dài, các bạn lười tìm hiểu hoặc trái chiều có thể bỏ qua!"
DO CAO BAO