https://thehill.com/opinion/national-security/518527-americas-presence-in-cam-ranh-bay-should-be-more-than-occasional
Cách đây 45 năm, vào tháng 4 năm 1975, các lực lượng Bắc Việt tràn qua Vịnh Cam Ranh, nơi được nhiều người coi là nơi trú ẩn nước sâu tốt nhất ở Đông Nam Á. Cho đến năm 1972, Vịnh Cam Ranh từng là địa điểm của một căn cứ hải quân Mỹ, một căn cứ Không quân và một cơ sở hỗ trợ của Quân đội. Tuy nhiên, vào năm 1980, Hạm đội Thái Bình Dương của Liên Xô bắt đầu hoạt động từ đó.
Liên Xô không còn tồn tại và việc Nga sử dụng căn cứ này đã chấm dứt vào năm 2002. Các tàu chiến Mỹ đã cập cảng Vịnh Cam Ranh từ năm 2016 và hỗ trợ các tàu chiến vài năm trước đó.
Tuy nhiên, đã đến lúc Hoa Kỳ vượt ra ngoài chuyến thăm cảng không thường xuyên. Hải quân, và có lẽ cả các dịch vụ khác, một lần nữa nên hoạt động ngoài Vịnh Cam Ranh một cách thường xuyên.
Chính sách của Mỹ đã nhấn mạnh "Địa điểm không phải là Căn cứ", bởi vì các căn cứ có thể là mục tiêu cố định dễ bị tấn công cho một cuộc tấn công của kẻ thù. Tuy nhiên, Căn cứ vẫn chưa hết mốt. Hoàn toàn ngược lại. Sau khi rời khỏi “Phía đông Suez” vào năm 1971, Anh hiện đang vận hành một căn cứ ở Bahrain và đầu tháng này, Anh đã đạt được thỏa thuận với Muscat để mở rộng Căn cứ Hỗ trợ Hậu cần chung ở Oman. Pháp đã vận hành căn cứ hải quân tại Abu Dhabi từ năm 2009. Năm 2019, Thổ Nhĩ Kỳ hoàn thành căn cứ quân sự ở Qatar, lần đầu tiên kể từ thời Ottoman, Thổ Nhĩ Kỳ hiện diện toàn thời gian ở vùng Vịnh. Trung Quốc điều hành một căn cứ hỗ trợ quân sự ở Djibouti, cũng như Hoa Kỳ. Thật vậy, Mỹ duy trì nhiều căn cứ khác ở vùng Vịnh / Biển Ả Rập, trong số đó có căn cứ không quân al Udeid rộng lớn ở Qatar, trụ sở Hạm đội 5 ở Bahrain và việc sử dụng căn cứ không quân Al Dhafra của Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất.
Có lẽ là quá kỳ vọng vào việc Mỹ khôi phục các đặc quyền căn cứ lâu đời của họ ở Vịnh Cam Ranh. Việt Nam hiện chưa chuẩn bị sẵn sàng để Hoa Kỳ có độc quyền về căn cứ. VN không quan tâm đến bất kỳ mối quan hệ đồng minh chính thức nào với Hoa Kỳ. Mặt khác, việc Washington theo đuổi một thỏa thuận với Việt Nam tương tự như Biên bản ghi nhớ mà nước này đã đàm phán với Singapore lần đầu tiên vào năm 1990, được sửa đổi vào năm 2005 và gia hạn thêm 36 năm vào năm 2019 là rất khả thi.
Singapore không phải là đồng minh hiệp ước của Hoa Kỳ; nó duy trì quan hệ thân ái với Trung Quốc. Tuy nhiên, một loạt các thỏa thuận với Washington đã cho phép Hoa Kỳ không chỉ hưởng lợi từ hỗ trợ hậu cần cho việc chuyển tiếp nhân viên, máy bay và tàu bè. Nó cũng cho phép Hải quân được hỗ trợ tại căn cứ hải quân Changi của Singapore và triển khai các tàu chiến đấu Littoral và máy bay P-8 để tập trận, tiếp nhiên liệu và bảo dưỡng.
Các hiệp định của Singapore không chính thức quy định về đât là căn cứ của Mỹ nhưng Singaporeg gần như là căn cứ tốt. Việt Nam có thể thiết lập một quá trình mang lại kết quả tương tự. Việt Nam đã sửa chữa nhỏ 5 tàu chiến Mỹ từ năm 2010 đến năm 2012. Giờ đây, Hà Nội đang xây dựng các cơ sở sửa chữa tàu để phục vụ các tàu chiến nước ngoài, nên họ có thể tăng mức độ hỗ trợ khi các tàu hải quân Hoa Kỳ ghé thăm.
Việt Nam có mọi động lực để làm như vậy. Họ chia sẻ sự không hài lòng của người Mỹ về chủ nghĩa phiêu lưu của Trung Quốc ở Biển Đông. Thật vậy, cuộc chiến gần đây nhất của Việt Nam không phải chống lại Hoa Kỳ mà là chống lại Trung Quốc, vào năm 1979. Hơn nữa, không giống như mối quan hệ của Hà Nội với Washington, có rất ít tình yêu bị mất giữa hai nước cộng sản.
Hà Nội chưa sẵn sàng cho một liên minh chính thức với Hoa Kỳ, và Hoa Kỳ không cần một căn cứ nào khác ở Đông Nam Á vào lúc này. Tuy nhiên, sự hiện diện luân phiên thường xuyên của Mỹ ở Vịnh Cam Ranh sẽ tạo nên một tín hiệu khác cho Bắc Kinh rằng Washington sẽ không chỉ là người quan sát thụ động về những nỗ lực của Trung Quốc nhằm thu phục các nước láng giềng nhỏ hơn của họ. Thay vào đó, điều đó sẽ nhấn mạnh sự sẵn sàng của Mỹ khi đứng về phía bạn bè của mình và đảm bảo rằng dù Bắc Kinh có mở rộng khả năng quân sự đến đâu, họ vẫn sẽ không thể hiện thực hóa tham vọng trở thành bá chủ của khu vực.
Tác giả: Dov S. Zakheim là cố vấn cấp cao tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế và là phó chủ tịch hội đồng quản trị của Viện Nghiên cứu Chính sách Đối ngoại. Ông là Bộ trưởng Quốc phòng (biên soạn) và giám đốc tài chính của Bộ Quốc phòng từ năm 2001 đến năm 2004 và là thứ trưởng dưới quyền Bộ trưởng Quốc phòng từ năm 1985 đến năm 1987.
Cách đây 45 năm, vào tháng 4 năm 1975, các lực lượng Bắc Việt tràn qua Vịnh Cam Ranh, nơi được nhiều người coi là nơi trú ẩn nước sâu tốt nhất ở Đông Nam Á. Cho đến năm 1972, Vịnh Cam Ranh từng là địa điểm của một căn cứ hải quân Mỹ, một căn cứ Không quân và một cơ sở hỗ trợ của Quân đội. Tuy nhiên, vào năm 1980, Hạm đội Thái Bình Dương của Liên Xô bắt đầu hoạt động từ đó.
Liên Xô không còn tồn tại và việc Nga sử dụng căn cứ này đã chấm dứt vào năm 2002. Các tàu chiến Mỹ đã cập cảng Vịnh Cam Ranh từ năm 2016 và hỗ trợ các tàu chiến vài năm trước đó.
Tuy nhiên, đã đến lúc Hoa Kỳ vượt ra ngoài chuyến thăm cảng không thường xuyên. Hải quân, và có lẽ cả các dịch vụ khác, một lần nữa nên hoạt động ngoài Vịnh Cam Ranh một cách thường xuyên.
Chính sách của Mỹ đã nhấn mạnh "Địa điểm không phải là Căn cứ", bởi vì các căn cứ có thể là mục tiêu cố định dễ bị tấn công cho một cuộc tấn công của kẻ thù. Tuy nhiên, Căn cứ vẫn chưa hết mốt. Hoàn toàn ngược lại. Sau khi rời khỏi “Phía đông Suez” vào năm 1971, Anh hiện đang vận hành một căn cứ ở Bahrain và đầu tháng này, Anh đã đạt được thỏa thuận với Muscat để mở rộng Căn cứ Hỗ trợ Hậu cần chung ở Oman. Pháp đã vận hành căn cứ hải quân tại Abu Dhabi từ năm 2009. Năm 2019, Thổ Nhĩ Kỳ hoàn thành căn cứ quân sự ở Qatar, lần đầu tiên kể từ thời Ottoman, Thổ Nhĩ Kỳ hiện diện toàn thời gian ở vùng Vịnh. Trung Quốc điều hành một căn cứ hỗ trợ quân sự ở Djibouti, cũng như Hoa Kỳ. Thật vậy, Mỹ duy trì nhiều căn cứ khác ở vùng Vịnh / Biển Ả Rập, trong số đó có căn cứ không quân al Udeid rộng lớn ở Qatar, trụ sở Hạm đội 5 ở Bahrain và việc sử dụng căn cứ không quân Al Dhafra của Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất.
Có lẽ là quá kỳ vọng vào việc Mỹ khôi phục các đặc quyền căn cứ lâu đời của họ ở Vịnh Cam Ranh. Việt Nam hiện chưa chuẩn bị sẵn sàng để Hoa Kỳ có độc quyền về căn cứ. VN không quan tâm đến bất kỳ mối quan hệ đồng minh chính thức nào với Hoa Kỳ. Mặt khác, việc Washington theo đuổi một thỏa thuận với Việt Nam tương tự như Biên bản ghi nhớ mà nước này đã đàm phán với Singapore lần đầu tiên vào năm 1990, được sửa đổi vào năm 2005 và gia hạn thêm 36 năm vào năm 2019 là rất khả thi.
Singapore không phải là đồng minh hiệp ước của Hoa Kỳ; nó duy trì quan hệ thân ái với Trung Quốc. Tuy nhiên, một loạt các thỏa thuận với Washington đã cho phép Hoa Kỳ không chỉ hưởng lợi từ hỗ trợ hậu cần cho việc chuyển tiếp nhân viên, máy bay và tàu bè. Nó cũng cho phép Hải quân được hỗ trợ tại căn cứ hải quân Changi của Singapore và triển khai các tàu chiến đấu Littoral và máy bay P-8 để tập trận, tiếp nhiên liệu và bảo dưỡng.
Các hiệp định của Singapore không chính thức quy định về đât là căn cứ của Mỹ nhưng Singaporeg gần như là căn cứ tốt. Việt Nam có thể thiết lập một quá trình mang lại kết quả tương tự. Việt Nam đã sửa chữa nhỏ 5 tàu chiến Mỹ từ năm 2010 đến năm 2012. Giờ đây, Hà Nội đang xây dựng các cơ sở sửa chữa tàu để phục vụ các tàu chiến nước ngoài, nên họ có thể tăng mức độ hỗ trợ khi các tàu hải quân Hoa Kỳ ghé thăm.
Việt Nam có mọi động lực để làm như vậy. Họ chia sẻ sự không hài lòng của người Mỹ về chủ nghĩa phiêu lưu của Trung Quốc ở Biển Đông. Thật vậy, cuộc chiến gần đây nhất của Việt Nam không phải chống lại Hoa Kỳ mà là chống lại Trung Quốc, vào năm 1979. Hơn nữa, không giống như mối quan hệ của Hà Nội với Washington, có rất ít tình yêu bị mất giữa hai nước cộng sản.
Hà Nội chưa sẵn sàng cho một liên minh chính thức với Hoa Kỳ, và Hoa Kỳ không cần một căn cứ nào khác ở Đông Nam Á vào lúc này. Tuy nhiên, sự hiện diện luân phiên thường xuyên của Mỹ ở Vịnh Cam Ranh sẽ tạo nên một tín hiệu khác cho Bắc Kinh rằng Washington sẽ không chỉ là người quan sát thụ động về những nỗ lực của Trung Quốc nhằm thu phục các nước láng giềng nhỏ hơn của họ. Thay vào đó, điều đó sẽ nhấn mạnh sự sẵn sàng của Mỹ khi đứng về phía bạn bè của mình và đảm bảo rằng dù Bắc Kinh có mở rộng khả năng quân sự đến đâu, họ vẫn sẽ không thể hiện thực hóa tham vọng trở thành bá chủ của khu vực.
Tác giả: Dov S. Zakheim là cố vấn cấp cao tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế và là phó chủ tịch hội đồng quản trị của Viện Nghiên cứu Chính sách Đối ngoại. Ông là Bộ trưởng Quốc phòng (biên soạn) và giám đốc tài chính của Bộ Quốc phòng từ năm 2001 đến năm 2004 và là thứ trưởng dưới quyền Bộ trưởng Quốc phòng từ năm 1985 đến năm 1987.