Ví dụ như cuốn "kinh Thủ Lăng Nghiêm" hiện chỉ có bản tiếng hán do nhiều hành giả người Tq và cả Ind dịch, gồm 10 cuốn, mỗi cuốn đều rất sâu sắc, văn phong đa dạng, triết lý thâm sâu, từ cổ từ nguyên Phạn ngữ rất nhiều mà ây ai nó nhằn trong vài chục phút.
Đây là một phần của cuốn 7 "Kinh Thủ Lăng Nghiêm"
Phật bảo: “A-nan! Chú Đại Phật Đỉnh Quang Tụ Tất-đát-đa Bàn-đát-la Bí Mật Ca-đà Vi Diệu Chương Cú này sinh ra mười phương chư Phật. Mười phương Như Lai nhờ tâm chú này mà thành Vô thượng Chánh biến tri giác. Mười phương Như Lai cầm tâm chú này, hàng phục các ma, chế ngự ngoại đạo. Mười phương Như Lai nhờ tâm chú này, ngồi hoa sen báu, ứng hiện trong các cõi vi trần. Mười phương Như Lai chứa tâm chú này, chuyển đại pháp luân trong các cõi vi trần. Mười phương Như Lai giữ tâm chú này, xoa đầu thọ ký cho chúng sinh trong mười phương; dù chưa thành tựu quả vị, cũng được Phật trong mười phương thọ ký. Mười phương Như Lai dựa vào tâm chú này, cứu vớt chúng sinh khỏi các khổ nạn như địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, mù, điếc, câm, oán ghét, yêu thương chia lìa, cầu không được, năm ấm bốc cháy, các tai họa lớn nhỏ đồng thời giải thoát; các nạn như giặc, binh đao, vương pháp, tù ngục, phong hỏa thủy tai, đói khát nghèo khổ, chỉ cần niệm chú, đều tiêu tan. Mười phương Như Lai theo tâm chú này, phụng sự thiện tri thức trong bốn oai nghi, cúng dường như ý. Trong hội của vô lượng hằng sa Như Lai, người trì chú được tôn làm đại pháp vương tử. Mười phương Như Lai hành tâm chú này, nhiếp thụ thân nhân trong mười phương, khiến hàng Tiểu thừa nghe bí mật tạng mà không kinh sợ. Mười phương Như Lai tụng tâm chú này, thành Vô thượng giác, ngồi dưới cội Bồ-đề, nhập đại Niết-bàn. Mười phương Như Lai truyền tâm chú này, sau khi nhập diệt, giao phó việc Phật pháp, khiến nghiêm tịnh giới luật, đều được thanh tịnh.
Nếu ta nói chú Đại Phật Đỉnh Quang Tụ Bàn-đát-la này, từ sáng đến tối, âm thanh nối tiếp, câu chữ không trùng lặp, trải qua hằng sa kiếp cũng không thể nói hết. Chú này còn gọi là Như Lai Đỉnh. Các ngươi là hàng hữu học chưa thoát luân hồi, phát tâm chí thành cầu A-la-hán, nếu không trì chú này mà ngồi đạo tràng, muốn thân tâm xa rời ma sự, không có chuyện đó.
A-nan! Trong các thế giới, tùy quốc độ, chúng sinh dùng vỏ cây, lá bối, giấy, lụa trắng, viết chú này, để trong túi thơm, dù tâm mê muội, không thể tụng nhớ, hoặc mang trên người, hoặc để trong nhà, người ấy suốt đời không bị các độc hại.
A-nan! Ta nay vì ngươi nói lại chú này, cứu hộ thế gian, đạt đại vô úy, thành tựu trí xuất thế của chúng sinh. Sau khi ta diệt độ, chúng sinh đời mạt pháp, nếu tự tụng hoặc dạy người tụng, người ấy lửa không thiêu, nước không nhận, đại độc, tiểu độc không thể hại, cho đến chư thiên, quỷ thần, tinh kỳ, ma mị, các ác chú đều không thể tác động, tâm được chánh thọ. Tất cả chú nguyền, yểm cổ, độc dược, vàng độc, bạc độc, cỏ cây, côn trùng, rắn rết, các khí độc, vào miệng người này đều thành vị cam lồ. Các ác tinh, quỷ thần ác tâm, không thể hại người ấy. Tỳ-na-dạ-ca và các ác quỷ vương cùng quyến thuộc đều mang ơn sâu, thường gia hộ.
A-nan! Chú này thường có tám vạn bốn ngàn na-do-tha hằng hà sa câu-chi Kim Cang Tạng Vương Bồ-tát chủng tộc, mỗi vị đều có Kim Cang chúng làm quyến thuộc, ngày đêm theo hầu. Nếu có chúng sinh tâm tán loạn, không ở tam-ma-địa, tâm nhớ miệng trì, các Kim Cang Vương thường theo hầu các thiện nam tử ấy, huống chi người quyết định tâm Bồ-đề? Các Kim Cang Bồ-tát Tạng Vương này, tinh tấn âm thầm khiến thần thức người ấy khai mở, khiến người đó nhớ được tám vạn bốn ngàn hằng hà sa kiếp, thông suốt rõ ràng, không chút nghi hoặc. Từ kiếp đầu đến thân sau, đời đời không sinh vào nơi dược-xoa, la-sát, phú-đơn-na, ca-trá phú-đơn-na, câu-bàn-trà, tỳ-xá-giá, và các loài ngạ quỷ, hữu hình, vô hình, hữu tưởng, vô tưởng, các ác xứ như vậy.
Thiện nam tử này, nếu đọc, tụng, viết, mang, cất giữ, cúng dường bằng các sắc, kiếp kiếp không sinh vào nơi nghèo hèn, hạ tiện, không đáng ưa. Dù không tự tạo phúc nghiệp, công đức của mười phương Như Lai đều ban cho người này. Nhờ đó, trong hằng hà sa a-tăng-kỳ kiếp không thể nói hết, người ấy thường sinh cùng chỗ với chư Phật, vô lượng công đức như cây độc tụ họp, cùng tu tập, mãi không phân ly. Do đó, chú này khiến người phá giới được giới căn thanh tịnh, người chưa thọ giới được thọ giới, người không tinh tấn được tinh tấn, người vô trí tuệ được trí tuệ, người không thanh tịnh được thanh tịnh, người không giữ trai giới tự thành trai giới.
A-nan! Thiện nam tử trì chú này, dù phạm giới trước khi thọ, sau khi trì chú, các tội phá giới, dù nặng hay nhẹ, đều tiêu diệt. Dù uống rượu, ăn ngũ tân, các thứ bất tịnh, chư Phật, Bồ-tát, Kim Cang, chư thiên, quỷ thần không xem là lỗi. Dù mặc áo rách bẩn, đi đứng đều như thanh tịnh. Dù không lập đàn, không vào đạo tràng, không hành đạo, tụng trì chú này, công đức cũng như vào đàn hành đạo. Nếu tạo năm tội vô gián, hoặc Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni phạm bốn bỏ, tám bỏ, tụng chú này, các nghiệp nặng ấy như gió mạnh thổi tan đống cát, đều tiêu diệt, không còn chút nào.
A-nan! Nếu có chúng sinh từ vô lượng kiếp đến nay, tất cả tội chướng nặng nhẹ, chưa kịp sám hối, nếu đọc, tụng, viết, mang trên người, hoặc để trong nhà, vườn, quán, các nghiệp tích lũy ấy như tuyết tan trước nước sôi, chẳng bao lâu đều chứng vô sinh nhẫn.
Lại nữa, A-nan! Nếu có phụ nữ chưa sinh con, muốn cầu con, nếu chí tâm niệm chú này, hoặc mang chú Tất-đát-đa Bàn-đát-la trên người, sẽ sinh con trai, con gái phước đức, trí tuệ. Người cầu trường thọ sẽ mau được trường thọ; người cầu quả báo nhanh viên mãn sẽ mau viên mãn. Thân, mạng, sắc, lực cũng như vậy. Sau khi mệnh chung, tùy nguyện vãng sinh mười phương quốc độ, quyết định không sinh vào biên địa, hạ tiện, huống chi là tạp hình?
A-nan! Nếu các quốc độ, châu huyện, làng xóm, gặp nạn đói, dịch bệnh, đao binh, giặc cướp, tranh đấu, hoặc các tai nạn khác, viết chú này đặt ở bốn cửa thành, hoặc trên tháp, khiến chúng sinh trong nước đón nhận chú này, đảnh lễ cung kính, một lòng cúng dường, mỗi người mang trên thân, hoặc đặt trong nhà, tất cả tai ương đều tiêu diệt.
A-nan! Ở mọi nơi, chúng sinh có chú này, thiên long hoan hỷ, mưa gió thuận thời, ngũ cốc phong thịnh, dân chúng an lạc. Chú này còn trấn áp các ác tinh, ngăn các dị tượng, tai họa không khởi, người không chết yểu. Gông cùm, xiềng xích không dính vào thân, ngày đêm an giấc, không mộng ác.
A-nan! Cõi Ta-bà có tám vạn bốn ngàn ác tinh biến đổi, hai mươi tám đại ác tinh dẫn đầu, tám đại ác tinh làm chủ, hiện các hình dạng, gây tai họa cho chúng sinh; nơi có chú này, tất cả đều tiêu diệt. Trong mười hai do-tuần, kết giới thành đất, các ác họa không thể xâm nhập.
Vì vậy, Như Lai tuyên thuyết chú này, để đời sau bảo hộ người sơ học tu tam-ma-đề. Thân tâm an nhiên, được đại an ổn, không bị các ma quỷ thần, oan nghiệt từ vô thỉ, nghiệp cũ, nợ xưa quấy nhiễu. Ngươi và các hữu học trong hội, cùng các hành giả đời sau, nếu y theo đàn tràng của ta, giữ giới đúng pháp, thọ giới từ thầy thanh tịnh, trì tâm chú này không nghi hối, nếu trong thân do cha mẹ sinh ra mà không được tâm thông, thì mười phương Như Lai thành nói dối.”
Nói lời này xong, trong hội, vô lượng trăm ngàn Kim Cang đồng thời trước Phật chắp tay đảnh lễ, bạch rằng: “Như lời Phật dạy, chúng con sẽ thành tâm bảo hộ người tu đạo Bồ-đề như vậy.”
Bấy giờ, Phạm Vương, Đế Thích, Tứ Thiên Đại Vương đồng thời đảnh lễ trước Phật, bạch rằng: “Nếu có người tu học thiện như vậy, chúng con sẽ hết lòng bảo hộ, khiến một đời được như nguyện.”
Lại có vô lượng Dược-xoa đại tướng, các La-sát vương, Phú-đơn-na vương, Câu-bàn-trà vương, Tỳ-xá-giá vương, Tần-na Dạ-ca đại quỷ vương, và các quỷ soái, đồng chắp tay đảnh lễ trước Phật: “Chúng con cũng nguyện bảo hộ người ấy, khiến tâm Bồ-đề mau viên mãn.”
Lại có vô lượng Nhật Nguyệt thiên tử, Phong Sư, Vũ Sư, Vân Sư, Lôi Sư, Điện Bá, các quan tuần hành năm tháng, các tinh tú và quyến thuộc, đồng đảnh lễ chân Phật, bạch rằng: “Chúng con cũng bảo hộ người tu hành này, lập đạo tràng, được vô sở úy.”
Lại có vô lượng sơn thần, hải thần, tất cả thần đất, nước, đất, không hành, vạn vật tinh kỳ, và Phong Thần Vương, chư thiên Vô sắc giới, đồng trước Như Lai cúi đầu bạch rằng: “Chúng con cũng bảo hộ người tu hành này thành Bồ-đề, không có ma sự.”
Bấy giờ, tám vạn bốn ngàn na-do-tha hằng hà sa câu-chi Kim Cang Tạng Vương Bồ-tát trong đại hội, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, bạch rằng: “Bạch Thế Tôn! Như chúng con, đã tu công nghiệp, từ lâu thành Bồ-đề, không lấy Niết-bàn, thường theo chú này, cứu hộ người đời mạt pháp tu tam-ma-đề chánh định. Bạch Thế Tôn! Người cầu chánh định, dù ở đạo tràng hay nơi kinh hành, thậm chí tâm tán loạn, vui chơi trong làng xóm, chúng con và quyến thuộc thường theo hầu người ấy. Dù ma vương Đại Tự Tại Thiên tìm cách quấy nhiễu, cũng không thể được. Các tiểu quỷ thần, cách xa thiện nhân này mười do-tuần, trừ phi họ phát tâm vui tu thiền. Bạch Thế Tôn! Nếu ác ma hoặc quyến thuộc muốn xâm nhiễu người thiện này, chúng con dùng chày báu đập nát đầu chúng như vi trần, khiến người ấy luôn được như nguyện.”
A-nan từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, bạch rằng: “Chúng con ngu muội, thích đa văn, chưa cầu thoát ly các lậu, nhờ Phật từ bi dạy bảo, được chánh pháp huân tu, thân tâm khoan khoái, được lợi ích lớn. Bạch Thế Tôn! Người tu chứng tam-ma-đề của Phật, chưa đến Niết-bàn, gọi là Càn Huệ địa như thế nào? Bốn mươi bốn tâm, đến thứ tự nào được gọi là mục tiêu tu hành? Đến nơi nào gọi là nhập địa? Gọi là Đẳng Giác Bồ-tát như thế nào?” Nói xong, năm vóc gieo xuống đất, đại chúng một lòng chờ nghe âm thanh từ bi của Phật, chăm chú nhìn ngưỡng mộ.
Phật khen A-nan rằng: “Lành thay, lành thay! Các ngươi đã vì đại chúng và chúng sinh đời mạt pháp tu tam-ma-đề, cầu Đại thừa, từ phàm phu đến đại Niết-bàn, chỉ rõ con đường chánh tu vô thượng. Nay hãy lắng nghe, ta sẽ vì ngươi mà nói.” A-nan và đại chúng chắp tay, khắc tâm, im lặng nhận dạy.
Phật nói: “A-nan nên biết! Diệu tính viên minh, lìa các danh tướng, vốn không có thế giới, chúng sinh. Do vọng mà sinh, do sinh mà diệt, sinh diệt gọi là vọng, diệt vọng gọi là chân; đó gọi là Như Lai Vô thượng Bồ-đề và đại Niết-bàn, hai chuyển y số.
A-nan! Ngươi nay muốn tu chân tam-ma-địa, thẳng đến đại Niết-bàn của Như Lai, trước tiên phải biết hai nguyên nhân điên đảo của chúng sinh và thế giới. Điên đảo không sinh, đó là chân tam-ma-địa của Như Lai.
A-nan! Gọi là chúng sinh điên đảo như thế nào? Do tâm tính sáng rõ, tính sáng viên mãn, từ sáng phát ra tính, từ tính sinh ra vọng kiến, từ tuyệt đối không thành tuyệt đối có. Cái có này không phải do nguyên nhân, nơi trụ không có căn bản. Từ cái không trụ này, lập ra thế giới và chúng sinh. Mê bản tính viên minh, sinh ra hư vọng, tính vọng không thật, không có chỗ y cứ. Muốn trở về chân, nhưng chân đã không phải chân thật như tính; không phải chân mà cầu trở lại, thành ra không tướng. Không sinh, không trụ, không tâm, không pháp, lần lượt phát sinh, sinh lực phát minh, huân thành nghiệp, cùng nghiệp cảm ứng, nên có chúng sinh điên đảo.
A-nan! Gọi là thế giới điên đảo như thế nào? Do có cái có, sinh ra vọng đoạn, nên lập ra giới. Không do nguyên nhân, không có nơi trụ, lưu chuyển không dừng, nên thành thế giới. Ba đời, bốn phương hòa hợp tương tác, biến hóa thành mười hai loại chúng sinh. Do đó, thế giới vì động mà có tiếng, vì tiếng mà có sắc, vì sắc mà có hương, vì hương mà có xúc, vì xúc mà có vị, vì vị mà biết pháp.
Sáu loạn vọng tưởng thành tính nghiệp, mười hai phân loại từ đó luân chuyển. Vì thế, trong thế gian, thanh, hương, vị, xúc, trải qua mười hai biến đổi thành một vòng luân hồi. Do vòng luân hồi điên đảo này, nên có thế giới: noãn sinh, thai sinh, thấp sinh, hóa sinh, hữu sắc, vô sắc, hữu tưởng, vô tưởng, phi hữu sắc, phi vô sắc, phi hữu tưởng, phi vô tưởng.
A-nan! Do thế giới hư vọng luân hồi, động điên đảo, hòa hợp khí thành tám vạn bốn ngàn phi trầm loạn tưởng; nên có noãn yết-la-lam, lưu chuyển quốc độ, cá, chim, rùa, rắn, loài này đầy khắp.
Do thế giới tạp nhiễm luân hồi, dục điên đảo, hòa hợp dưỡng thành tám vạn bốn ngàn hoành thụ loạn tưởng; nên có thai át-bộ-đàm, lưu chuyển quốc độ, người, súc vật, rồng, tiên, loài này đầy khắp.
Do thế giới chấp trước luân hồi, thú điên đảo, hòa hợp noãn thành tám vạn bốn ngàn phiên phúc loạn tưởng; nên có thấp tướng tế-thi, lưu chuyển quốc độ, côn trùng, loài ngọ nguậy, đầy khắp.
Do thế giới biến dịch luân hồi, giả điên đảo, hòa hợp xúc thành tám vạn bốn ngàn tân cố loạn tưởng; nên có hóa tướng yết-nam, lưu chuyển quốc độ, loài biến hóa, bay nhảy, đầy khắp.
Do thế giới lưu ngại luân hồi, chướng điên đảo, hòa hợp trước thành tám vạn bốn ngàn tinh diệu loạn tưởng; nên có sắc tướng yết-nam, lưu chuyển quốc độ, loài tốt xấu, sáng rõ, đầy khắp.
Do thế giới tiêu tán luân hồi, hoặc điên đảo, hòa hợp ám thành tám vạn bốn ngàn âm ẩn loạn tưởng; nên có vô sắc yết-nam, lưu chuyển quốc độ, không, tán, tiêu trầm, đầy khắp.
Do thế giới vọng tượng luân hồi, ảnh điên đảo, hòa hợp ức thành tám vạn bốn ngàn tiềm kết loạn tưởng; nên có tưởng tướng yết-nam, lưu chuyển quốc độ, thần, quỷ, tinh linh, đầy khắp.
Do thế giới ngu độn luân hồi, si điên đảo, hòa hợp ngoan thành tám vạn bốn ngàn khô cảo loạn tưởng; nên có vô tưởng yết-nam, lưu chuyển quốc độ, tinh thần hóa thành đất, gỗ, vàng, đá, đầy khắp.
Do thế giới tương đãi luân hồi, ngụy điên đảo, hòa hợp nhiễm thành tám vạn bốn ngàn nhân y loạn tưởng; nên có phi hữu sắc tướng thành sắc yết-nam, lưu chuyển quốc độ, loài thủy mẫu, lấy tôm làm mắt, đầy khắp.
Do thế giới tương dẫn luân hồi, tính điên đảo, hòa hợp chú thành tám vạn bốn ngàn hô triệu loạn tưởng; nên có phi vô sắc tướng vô sắc yết-nam, lưu chuyển quốc độ, chú nguyền, chán sinh, đầy khắp.
Do thế giới hợp vọng luân hồi, vọng điên đảo, hòa hợp dị thành tám vạn bốn ngàn hồi hỗ loạn tưởng; nên có phi hữu tưởng tướng thành tưởng yết-nam, lưu chuyển quốc độ, loài yết-lư, chất khác nhau, đầy khắp.
Do thế giới oán hại luân hồi, sát điên đảo, hòa hợp quái thành tám vạn bốn ngàn thực phụ mẫu tưởng; nên có phi vô tưởng tướng vô tưởng yết-nam, lưu chuyển quốc độ, như thổ kiêu, lấy đất làm con, hoặc chim phá kính, lấy quả cây độc ôm làm con, con thành thì cha mẹ bị ăn, loài này đầy khắp. Đó gọi là mười hai loại chúng sinh.”
Đây là vb được copy luôn chưa qua chỉnh lý đối chiếu.
Công nhận ây ai nó quá mạnh, ko biết các cụ thấy ntn?