- Biển số
- OF-752438
- Ngày cấp bằng
- 9/12/20
- Số km
- 754
- Động cơ
- 60,663 Mã lực
- Tuổi
- 40

Dở khóc dở cười chuyện đi vệ sinh của người Hà Nội xưa: Một thuở "CAM DAI BAY"
Nói về chuyện đi vệ sinh của người Hà Nội xưa, ta có thể liệt kê ra hàng loạt những "điển tích, điển cố" mà mỗi lẫn nhắc đến lại dở khóc dở cười.

Giải quyết nhu cầu cá nhân không phải chuyện của riêng ai, riêng thời nào mà là chuyện của cả nhân loại ở mọi thời. Nói về chuyện đi vệ sinh của người Hà Nội xưa, ta có thể liệt kê ra hàng loạt những “điển tích, điển cố” mà mỗi lẫn nhắc đến lại dở khóc dở cười.
Nhà vệ sinh lộ thiên và nhà vệ sinh đầm
Ở thời phong kiến, Hà Nội hoàn toàn không có bất cứ nhà vệ sinh công cộng nào. Đến thời vua Tự Đức, Hà Nội vẫn còn rất nhiều ao hồ, khu đất trống, nhu cầu vệ sinh được giải quyết một cách thô sơ ở những nơi như thế. Dân đi dạo phố, dân tỉnh lên chơi hay buôn bán, hễ khi có nhu cầu lại tìm một góc nào đó để p.hóng u.ế, đôi khi “bí quá” cũng chẳng cần giữ kẽ, kín đáo gì.
Nhà vệ sinh của các hộ gia đình khi ấy cũng rất đơn sơ, thường chỉ là một thùng nước t.iểu. Cứ vài ngày thùng lại đầy, người ta thuê phu phen mang thùng đổ ra sông Hồng. Với những nhà ở quanh sông hồ thì họ giải quyết tiện lợi hơn bằng cách t.hải trực tiếp xuống dòng nước.
Une campagne au Tonkin – một bác sĩ trong q.uân đ.ội v.iễn c.hinh Pháp đã mô tả Hà Nội năm 1883 trong cuốn sách “Một c.hiến d.ịch ở Bắc Kỳ” như sau: “Những túp lều dày đặc bao quanh Hồ Gươm, lối đi xuống hồ là những ngõ nhỏ nồng nặc mùi xú u.ế và nước t.iểu. Thành phố này không có bất cứ nhà vệ sinh công cộng nào”.
Đi vệ sinh ở Hà Nội xưa
Nhà vệ sinh ở chợ Đồng Xuân là khu nhà vệ sinh công cộng đầu tiên được xây dựng
Khu nhà vệ sinh công cộng đầu tiên được Pháp xây dựng vào năm 1891, gắn liền với sự kiện xây dựng chợ Đồng Xuân. Cụ thể là vào năm 1889, c.hính q.uyền thành phố cho lấp khúc sông Tô Lịch và hồ Cổ Ngựa làm chợ Đồng Xuân. Khu chợ vô cùng đông đúc tấp nập kẻ bán người mua. Những vợ con b.inh s.ĩ, s.ĩ q.uan, công chức Pháp mỗi khi cần mua thực phẩm hay hàng hóa lại ghé khu chợ này. Những “bà đầm” này không “tự do” như dân ta, chuyện phóng uế bừa bãi là điều không thể. Thế rồi họ bắt đầu phàn nàn về việc khu chợ không có chỗ đi vệ sinh, mỗi lần “mắc” không biết phải làm thế nào. Vậy là khu nhà vệ sinh công cộng đầu tiên được xây lên, chỉ dành riêng cho các bà đầm, dân ta gọi đó là nhà vệ sinh đầm.
Người An Nam thì vẫn thói quen cũ, không được sử dụng nhà vệ sinh nên họ t.iểu t.iện ở phía sau chợ, nép sau những gốc cây dưới to (nay là khu vực chợ Cao Thắng). Nước t.iểu đặc và p.hân “tưới” hàng ngày khiến những cây cổ thụ bị c.hết h.éo, mùi xú u.ế theo gió thổi vào trong chợ, người đi chợ. Người bán hàng phải bịt mũi vì lúc nào cũng ngửi thấy mùi k.hai t.hối. Họ làm đơn kêu lên đốc lý Tirant Gilbert, c.hính q.uyền buộc phải xây thêm nhà vệ sinh cho người An Nam.
Nói về chuyện vệ sinh, l.uật Pháp quốc thời đó muốn xây dựng một “Hà Nội văn minh như nước Pháp” nên vào ngày 28-3-1892, đốc lý Tirant Gilbert đưa ra n.ghị đ.ịnh về vệ sinh công cộng và trật tự lục lộ. Trong điều 2 của n.ghị đ.ịnh bắt buộc các nhà mặt phố phải tự giác dọn vệ sinh trước cửa nhà, khơi thông cống rãnh cho nước chảy, không được t.iểu b.ậy. Xe ngựa đi trên phố phải có miếng vải đỡ p.hân phía sau, không được chăn thả gia súc. Hằng ngày, dọc các tuyến phố đều có c.ảnh s.át lục lộ đ.i t.uần. Nếu bắt được cá nhân v.i p.hạm những điều ghi trong n.ghị đ.ịnh sẽ xử p.hạt “theo l.uật H.ình s.ự của nước Pháp”.
“Truyền kỳ” về “anh b.ắt đ.ái” phố Tố Tịch
Một khu nhà vệ sinh công cộng ở chợ Đồng Xuân chắc chắn không đủ và cũng không tiện cho cả thành phố, vậy nên nhiều lúc “bí”, người đi đường vẫn quen thói cũ, lẻn vào các khu đất trống hay vườn cây để đi t.rộm.
Năm 1902, c.hính p.hủ Pháp đã cho xây dựng nhà vệ sinh công cộng trên các phố Hàng Khay, Cửa Nam (góc ngã tư Lê Duẩn – Nguyễn Thái Học ngày nay), trước ga Hàng Cỏ, đầu phố Phùng Hưng… Trước những nhà vệ sinh đều có biển chỉ dẫn bằng tiếng Việt và tiếng Pháp, hàng ngày đều có nhân viên vệ sinh đến đổ thùng, quét dọn và dội nước. Tuy nhiên, ở Hà Nội thời ấy nhiều người ở các tỉnh lân cận qua lại, không phải ai trong số họ cũng biết chữ để đọc bảnh chỉ dẫn nên hiện tượng tiểu bậy vẫn thường xuyên diễn ra. Đặc biệt là ở con phố Tố Tịch – một con phố nhỏ tập trung thợ làm nghề tiện gỗ. Con phố này có phần tiếp giáp với Hàng Gai còn thưa nhà nên người đi qua vẫn thường ghé vào t.iểu t.rộm. Những nhà quanh khu vực không chịu nổi xú u.ế bốc lên, họ đã góp tiền để thuê một người chuyên rình kẻ t.iểu b.ậy. Thế là cái nghề “anh b.ắt đ.ái” ra đời.
Đi vệ sinh ở Hà Nội xưa
Phố Tố Tịch thời xưa
“Anh b.ắt đ.ái” hàng ngày lảng vảng ở đầu phố, b.ắt q.uả t.ang ai thì giao cho c.ảnh s.át lục lộ nhưng b.ắt không xuể với số lượng người t.iểu b.ậy dày đặc. Thấy phương án này không hiệu quả nên người dân đành phải thiên biến vạn hóa. Đỉnh cao của sự đánh trúng vào tâm lý đối tượng phải kể đến phương án của ông Kỳ Dương phố Tố Tịch. Ông nghĩ kế cho xây bệ nhỏ, giả làm miếu thờ. Hàng ngày ở cái miếu giả đều được khói hương nghi ngút, dân định vào ngõ đi t.iểu thấy hương khói, sợ bị t.hần l.inh “vật” nên không dám “hành sự”. Kể từ đó ở phố Tố Tịch không còn hiện tượng t.iểu b.ậy nữa.
“Giai thoại” về biển “CAM DAI BAY” thời bao cấp
Sau năm 1954, b.ộ đ.ội về tiếp quản Thủ đô, dân số của Hà Nội lúc này đã lên tới gần 40 vạn người. Sau c.hiến t.ranh, dân số tăng lên nhanh chóng, chỉ sau vài năm đã lên đến 50 vạn người nhưng lại không có thể nhà vệ sinh công cộng. Thế rồi n.ạn p.hóng u.ế, t.iểu t.iện bừa bãi lại tiếp tục diễn ra. Từ các gốc cây, cột điện, bờ tường các cơ quan công sở lúc nào cũng nồng nặc mùi nước t.iểu. Có thể kể ra những phố ở khu vực trung tâm bị ô n.hiễm n.ặng như bên số chẵn đầu phố Tràng Thi, xung quanh Thư viện Quốc gia, khu vực Tòa án nhân dân tối cao, hầm t.ránh b.om ở vườn hoa Chí Linh (nay là vườn hoa Lý Thái Tổ)… Đặc biệt vào những ngày diễn ra các sự kiện lớn ở Hồ Gươm thì các gốc cây quanh hồ đều sũng nước t.iểu. Vị trí đặt đồng hồ hồ hoa tại góc Hàng Khay – Đinh Tiên Hoàng bên phía bờ hồ hiện nay trước đây chính là vị trí của một cây đa lớn bị c.hết vì úng nước t.iểu.
Ở thời bao cấp, những biển “C.ấm đ.ái b.ậy” được viết ở khắp nơi nhưng cũng không ngăn được n.ạn t.iểu b.ậy. Phần vì dân số thành phố khi ấy quá đông, khách thập phương về Hà Nội nhiều, phần vì nhà vệ sinh quá k.inh k.hủng. Nhà vệ sinh công cộng thời ấy nơi thì m.ất cánh cửa, nơi thì không có nước, nơi khác có nước thì không có đồ để múc dội, người dân chưa có ý thức giữ gìn vệ sinh chung, nhân viên công ty môi trường đô thị hàng ngày dọn qua quýt. Chính vì thế mà dẫu có nhà vệ sinh, người ta cũng sợ không dám vào. N.ạn t.iểu b.ậy vì thế mà tiếp tục hoành hành, biển “C.ấm đ.ái b.ậy” cứ biển mới chồng chéo lên biển cũ.
Giai thoại về tấm biển “C.ấm đ.ái b.ậy” cũng có nhiều chuyện dở khóc dở cười. Chuyện rằng những vị khách nước ngoài khi đến Hà Nội đều thấy quảng cáo vịnh “CAM DAI BAY” ở khắp nơi, họ tò mò hỏi ra mới biết đó chẳng phải tên một danh lam thắng cảnh gì mà chỉ là biển “c.ấm đ.ái”.
Một giai thoại khác lại phản ánh về mức phạt nhẹ bẫng cho hành động t.iểu b.ậy. Chuyện kể tằng có một ông uống bia hơi xong buồn t.è bảo cháu đợi rồi xông vào chỗ có biển “C.ấm đ.ái b.ậy” phóng hết cỡ vào tường. Vừa “giải quyết nỗi buồn” xong thì quay ra đã bị anh làm nhiệm vụ xé vé p.hạt. Ông vui vẻ đưa 5 hào nhưng anh thi hành công vụ không có tiền lẻ trả lại, ông bèn bảo “thôi khỏi trả lại để cháu tôi t.è nốt là đủ 5 hào tiền p.hạt”. Giai thoại hài hước ấy cho thấy quy định về văn minh không được thực hiện nghiêm.
Để kể về chuyện đi vệ sinh ở Hà Nội xưa thì có lẽ kể cả ngày cũng không hết. Và đây cũng chưa hẳn là câu chuyện của một thời đã qua, ngay cả ở thời nay, khi các nhà vệ sinh công cộng đã được xây dựng tiện nghi nhưng vẫn có hiện tượng t.iểu b.ậy tại các bốt điện, góc công trình, gốc cây,… Để giải quyết triệt để vấn đề này cần đến sự tự ý thức của mỗi cá nhân chứ không còn là của riêng c.hính q.uyền nữa.