Vạch mặt 'kẻ phá đám' SAM-2: Chiến công thầm lặng của trinh sát nhiễu 
  
  Để có được chiến thắng vang dội trước cuộc tập kích bằng B-52  cuối tháng 12/1972, không thể không kể đến sự đóng góp “thầm lặng” của  đơn vị trinh sát nhiễu.
  
   Nhân kỷ niệm 40 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ trên không  (12/1972-12/2012), Trung tướng Phan Thu – Nguyên Tiểu đoàn trưởng Tiểu  đoàn Trinh sát nhiễu kể rõ hơn về vai trò của người lính trinh sát nhiễu  trong kháng chiến Mỹ:
Sự ra đời của "Đội nhiễu"
Từ sau chiến tranh thế giới thứ II, công nghệ radar được ứng  dụng rộng rãi trong quân sự, nhằm giúp lực lượng phòng không các nước  phát hiện, cảnh báo và đánh trả các cuộc tập kích đường không một cách  hiệu quả. Nhìn xa hàng chục, hàng trăm kilomet, báo sớm các cuộc tấn  công và chỉ rõ mục tiêu để hỏa lực phòng không tiêu diệt. Do đó, radar  được ví với "mắt thần" của phe phòng phủ. Không chịu thua kém, phe tấn  công tìm mọi biện pháp để bịt mắt, chọc mù những "đôi mắt" thần này. Một  trong những biện pháp đó là hoạt động gây nhiễu.
Trong cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam. Đế Quốc Mỹ rất coi  trọng thủ đoạn gây nhiễu radar của ta. Đặc biệt, từ năm 1965, khi bộ đội  phòng không Việt Nam được trang bị tên lửa SAM-2, địch thực hiện các  thủ đoạn gây nhiễu một cách quyết liệt hơn.
Tất cả các loại radar của ta đều bị gây nhiễu bằng máy gây nhiễu tích  cực và máy gây nhiễu tiêu cực lắp trên các chiến đấu cơ chiến thuật, máy  bay ném bom của Không quân Mỹ. Phía ta ghi nhận, nhiều trường hợp thủ  đoạn gây nhiễu của địch làm trắng màn hiện sóng radar, không thể xác  định được mục tiêu để chỉ điểm cho phòng không đánh trả.
Những thủ đoạn của địch đã làm giảm đi hiệu suất chiến đấu của bộ đội  tên lửa, trước tình hình đó đòi hỏi Quân chủng Phòng không – Không quân  cần thiết thành lập Đội trinh sát nhiễu làm nhiệm vụ tìm hiểu tính năng  kỹ thuật và thủ đoạn chiến thuật gây nhiễu của địch.
Trước tình hình mới, từ năm 1967, Liên Xô có đề nghị đưa sang Việt Nam  một số thiết bị trinh sát điện tử và một đoàn cán bộ thuộc Trung tâm  nghiên cứu chiến tranh điện tử làm nhiệm vụ nghiên cứu tìm hiểu phương  tiện của Mỹ. Bộ tư lệnh Quân chủng thành lập Đội nhiễu để phối hợp với  bạn.
Ngày 10/1/1967, Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không – Không quân ký quyết  định thành lập Đội nhiễu (thuộc Bộ Tham mưu Quân chủng) do đồng chí Phan  Thu làm đội trưởng. Đội nhiễu ban đầu chỉ có 34 đồng chí là các cán bộ,  trắc thủ, thợ sửa chữa radar từ các đơn vị quân chủng điều về.
Trang bị của Đội trinh sát nhiễu gồm có: máy thu sóng m P-313, P-314,  P-325; máy thu sóng dm và cm D1K; máy thu tín hiệu radar PC-1, PC-2,  PC-3; các máy phân tích phổ của tín hiệu; máy ghi âm để ghi lại tín hiệu  thu được và máy quay phim, chụp ảnh.
 
“Vạch mặt kẻ phá đám” SAM-2
Giai đoạn 1967-1968, để đối phó với đạn tên lửa của ta, máy bay  Mỹ sử dụng máy gây nhiễu ALQ-71 mở rộng tần số gây nhiễu sóng 10cm trùm  qua rãnh đạn tên lửa, làm cho đạn tên lửa của ta mất điều khiển. 
Theo tổng kết, tên lửa của ta gặp phải ba trường hợp: đạn được phóng lên  nhưng rơi tại chỗ, đạn không có điều khiển bay vọt lên cao tự nổ hoặc  đạn không rời bệ phóng vì không bắt được tín hiệu điều khiển.
Thủ đoạn này của đối phương làm bộ đội tên lửa giảm đáng kể khả năng  chiến đấu, đạn bắn lên rơi xuống đất rõ ràng không thể đối phó máy bay  địch. Một yêu cầu được đặt ra, cần phải nghiên cứu tỉ mỉ đặc điểm từng  loại nhiễu để đề xuất các phương án cải tiến kỹ thuật. Trước tình hình  đó, Đội nhiễu khẩn trương vào cuộc nghiên cứu phân tích để tìm ra và  khắc phục.
“Thật may, tháng 5/1967 bộ đội tên lửa phòng không đã bắn rơi một chiếc  F-4C của Không quân Mỹ và chúng tôi thu được một máy gây nhiễu ALQ-71  khá nguyên vẹn. Đây là một chiến lợi phẩm rất quý, có nó chúng ta có thể  giải đáp được nhiều vấn đề về chống nhiễu trong đội hình đối với các  loại máy bay chiến thuật của Không quân Mỹ”, Trung tướng Phan Thu kể  lại. 
                            
	
	
		
		
	
	
                                            "Kẻ phá đám" SAM-2 - máy gây nhiễu rãnh đạn AN/ALQ-71.
                             
Sau đó, cán bộ kỹ thuật quân sự Việt Nam nhanh chóng triển khai công tác nghiên cứu, phân tích kỹ càng máy ALQ-71.
“Chúng tôi đã “mổ xẻ” ALQ-71 để nghiên cứu, phân tích tỉ mỉ. Đèn phát  máy ALQ-71 được nối điện theo đúng thông số kỹ thuật của nó để khảo sát  tính năng điện của máy gây nhiễu. Sau khi nối điện để đèn phát nhiễu của  máy ALQ-71 làm việc, chúng tôi đã đo được dải tần số phát ổn định của  nó rất rộng, có thể trùm hết cả rãnh mục tiêu và rãnh đạn của đài điều  khiển tên lửa”, Trung tướng Phan Thu nói.
Những thông tin quý giá do Đội nhiễu tìm ra được chuyển lên cấp Bộ Tư  lệnh Quân chủng và chuyên gia Liên Xô. Ngay sau đó, thông tin này tiếp  tục chuyển sang Moscow để các nhà khoa học Liên Xô cải tiến.
“Các nhà khoa học Liên Xô đã có bước cải tiến cơ bản, vừa điều chỉnh  lệch tần số, vừa nâng cao công suất đèn phát tín hiệu trả lời của đạn về  đài điều khiển. Nhờ vậy, tín hiệu trả lời của đạn vượt lớn hơn tín hiệu  nhiễu, khiến máy gây nhiễu của Mỹ không thể rượt đuổi theo được do bị  hạn chế về công suất phát. Từ đó, tất cả đạn tên lửa của ta đều được  thay máy phát tín hiệu trả lời có công suất lớn hơn nhiều và nhiễu rãnh  đạn bị chấm dứt từ đây”, Trung tướng Phan Thu cho biết.
Có thể nói, việc cải tiến chống nhiễu rãnh đạn cho đạn SAM-2 là một  trong những bước cải tiến quan trọng. Việc khắc chế hoàn toàn nhiễu rãnh  đạn giúp “rồng lửa Thăng Long” SAM-2 tiếp tục phát huy hiệu quả bắn rơi  nhiều máy bay địch, trong đó có “pháo đài bay” B-52.  
                                         
Tiểu sử Trung tướng Phan Thu
            
            
                           
                                                                            
	
	
		
		
	
	
                                                                   Trung tướng Phan Thu - nguyên Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn trinh sát nhiễu.                                                                             Trung tướng  Phan Thu sinh ngày 16/6/1931 tại tỉnh Thà Khẹt (Lào). Sau Cách mạng  tháng 8/1945, ông cùng gia đình trở về Hà Nội. Toàn quốc kháng chiến  1946, ông tản cư về làng và làm nhiệm vụ giúp đỡ bà con, dạy bình dân  học vụ, đi tuyên truyền kháng chiến. Ngày 6/1/1949, ông được kết nạp vào  **** Cộng sản Việt Nam.
            
            Tháng 5/1950, ông nhập ngũ Quân đội Nhân dân Việt Nam. Ông  được cử đi học Lục quân Khóa VI tại trường của ta đặt ở Vân Nam, Trung  Quốc. Học xong, ông được giữa lại làm trợ giáo hai khóa 7-8.
            
            Sau 1950, ông cùng đơn vị pháo binh 105mm về tham gia nhiều  chiến dịch lớn của quân đội, như chiến dịch Hòa Bình. Năm 1954, ông được  chuyển về phòng không, học pháo cao xạ trung cao 88mm của Liên Xô viện  trợ tại Thẩm Dương (Trung Quốc).
            
            Từ 1956-1967, ông làm trợ lý radar phòng huấn luyện Sư đoàn  phòng không 367. Trong giai đoạn này, ngoài công tác huấn luyện cho bộ  đội sẵn sàng chiến đấu, ông cũng có những đề tài nghiên cứu cải tiến  radar SON-9A bắt mục tiêu bay thấp, nâng công suất phát radar SON-9A…
            
            Năm 1967, ông được bổ nhiệm làm Phó phòng Khoa học Quân sự  rồi làm Đội trưởng Đội trinh sát nhiễu kiêm Phó phòng Quân báo.
            
            Ngày 28/5/1970, ông được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực  lượng Vũ trang Nhân dân. Khi đó, ông đang là Phó phòng Quân báo kiêm Đội  trưởng Đội nhiễu và là Trưởng phòng Nghiên cứu Kỹ thuật Quân chủng  Phòng không – Không quân. 
                             
Theo Phượng Hồng (Đất Việt)