Em chỉ nghe báo chém có thế này, Không hiểu họ kết hợp kiểu gì?
     Nghịch lý chiến tranh Việt Nam: Radar 'bỏ đi' ăn đứt radar hiện đại
                     (Soha.vn) - Nhiều khi những vũ khí lạc hậu tưởng “vứt đi” lại hiệu quả hơn cả loại hiện đại.
         
        	Sự tự tin của người Mỹ
                                              
          
   
	
	
		
		
	
	
                  
                                                                                                      (Soha.vn) - Nhiều khi những vũ khí lạc hậu tưởng “vứt đi” lại hiệu quả hơn cả loại hiện đại.
         
        	Sự tự tin của người Mỹ
  	Năm 1965, hệ thống SAM-2 (C-75) được Liên Xô viện trợ cho Ai Cập và  Syria để chống lại không quân Israel. Trong cuộc chiến tranh 6 ngày (5  đến 11 tháng 6 năm 1967) giữa Liên quân Ai Cập - Syria với Israel, quân  đội Ai Cập không chịu nổi đòn tấn công của các binh đoàn thiết giáp  Israel nên đã tháo chạy khỏi sa mạc Sinai, bỏ lại hơn 20 bộ khí tài  SAM-2, cùng loại với khí tài mà Việt Nam đang sử dụng chống lại cuộc  chiến tranh phá hoại miền Bắc của Mỹ. 
Các  bộ khí tài này được các chuyên gia vũ khí Mỹ mổ xẻ và nghiên cứu, áp  dụng các phương pháp tác chiến điện tử nhằm đối phó với SAM-2.
 
 	 		Tổ hợp tên lửa C-75 (SAM-2) của Việt Nam
 	
  
 	 		Đài radar nhìn vòng P-12 của Việt Nam
 	
   	Năm 1969, đến lượt 1 hệ thống radar  cảnh giới P-12 của Ai Cập bị rơi vào tay Israel, toàn bộ kết quả phân  tích được chuyển giao cho Mỹ. Như  vậy đến năm 1970, các loại radar phòng không chủ yếu của Quân đội nhân  dân Việt Nam đều đã bị Mỹ nắm bắt và Mỹ đã chế tạo ra các thiết bị gây  nhiễu rất hiệu quả. Như chiếc B-52D, lúc đầu mang 8 máy gây nhiễu, thì tới tháng 12/1972 đã có tới 15 máy gây nhiễu, 2 máy phóng nhiễu giấy bạc.
 BÀI LIÊN QUAN
 	Mỹ cho rằng, đối thủ lúc bấy giờ của B-52 không phải là tên lửa SAM-2  mà là máy bay MiG bởi mọi bí mật về tính năng kỹ thuật của SAM-2 đã bị  Mỹ khai thác. Thế nên ngay từ đầu, chúng đã tập trung đánh tất cả các  sân bay của chúng ta.
 	B-52 là máy bay ném bom chiến lược có khả năng gây nhiễu điện từ rất  lớn. Một tốp 3 chiếc B-52 có 45 máy gây nhiễu, tất cả nhiễu đó tạo thành  giải nhiễu chồng chéo, dày đặc, đan xen, công suất rất lớn và rộng.  Chưa kể bay kèm B-52 là đội hình máy bay chuyên tác chiến điện tử, gây  nhiễu ra-đa. Điều này khiến radar của hệ thống phòng không gặp nhiễu,  không thể phát hiện và khóa mục tiêu được với B-52. Các đài radar P-12  của các tiểu đoàn tên lửa SAM-2 chỉ thu được các giải nhiễu đậm đặc, có  lúc làm trắng xóa cả màn hình
   	Đấy là chưa kể các nguồn nhiễu khác như: Nhiễu ngoài hạm tàu, nhiễu của  các máy bay chuyên gây nhiễu từ xa, cùng với máy gây nhiễu của máy bay  chiến thuật tạo thành một từ trường nhiễu tổng hợp gây rất nhiều khó  khăn cho bộ đội phòng không, không quân.
  	Hầu hết các đài radar của Việt Nam lúc ấy đều báo cáo rằng nhiễu rất  nặng, không thể phát hiện được mục tiêu. Thực tế tên lửa SAM-2 có thể hạ  mục tiêu ở độ cao trên 24.000m trong khi trần bay tối đa của B-52 chỉ  là 17.000m (khi bay ném bom thì độ cao bay khoảng 10.000m) nên SAM-2 đủ  sức vươn tới B-52. 
Tuy nhiên, với hàng  loạt loại nhiễu điện tử, tên lửa SAM-2 khi phóng lên không thể điều  khiển, có khi rơi ra chỗ khác gây thương vong cho chính quân dân ta.
 
 	 		B-52 có lắp máy gây nhiễu ALR-18 hướng về phía đuôi để gây nhiễu radar của MiG-21
 	
  
 	 		Máy gây nhiễu rãnh đạn AN/ALQ-71 của Mỹ
 	
  
 	 		Máy phóng nhiễu giấy bạc dạng rocket
 	
   	Ngày 10/4/1972, B-52 đánh vào thành phố Vinh nhưng hai ngày sau, chúng  ta mới phát hiện được. Ngày 13/4, B-52 đánh vào Thanh Hóa, chúng ta có 2  tiểu đoàn tên lửa ở khu vực này nhưng vì radar bị nhiễu rất nặng nên  cũng không đánh được B-52.
  	Đặc biệt, sáng sớm 16/4/1972, 12 chiếc B-52 vào đánh Hải Phòng đúng lúc  Sư đoàn Phòng không 363 đang diễn tập phương án đối phó B-52. Các phái  viên của Bộ Tổng tư lệnh Quân chủng Phòng không- Không quân và các  chuyên gia đang có mặt ở từng trận địa tên lửa cho rằng, đây là cơ hội  rất tốt để chiến thắng B-52.
  	Nhưng trận đánh ấy, Sư đoàn 363 đã bắn lên 93 tên lửa nhưng lại không  rơi một chiếc máy bay nào. Những tên lửa của chúng ta rơi chỗ khác hoặc  là mất điều khiển.
  	Từ sự khởi đầu khá suôn sẻ trong trận 16/4/1972, Mỹ tin rằng B-52 có  thể đánh phá bất cứ mục tiêu nào trên miền Bắc trong đó có thủ đô Hà  Nội. Nhưng cũng chính thất bại này, lại càng thôi thúc các chiến sĩ  radar cũng như chiến sĩ tên lửa tìm mọi cách vạch nhiều tìm thù để phát  hiện B-52.
  	
Radar "bỏ đi" ăn đứt radar hiện đại
  	Khi quân chủng phòng không - không quân đang nghiên cứu mọi biện pháp  để phát hiện B-52 trong nhiễu thì có một đồng chí cán bộ nảy ra ý nghĩ  rằng: Máy gây nhiễu hiện đại của B-52 đối phó được với radar hiện đại  thế hệ thứ 8 thứ 9 mà chúng ta đang trang bị, nhưng nó chưa chắc đối phó  được với thế hệ radar cũ như thế hệ thứ 2,3,4. Vì vậy, đồng chí này đề  xuất bố trí radar cũ vào trong đội hình mạng radar quốc gia. Quả nhiên  chiếc radar tưởng như bỏ đi đó lại hoàn toàn không bị ảnh hưởng từ nhiễu  của B-52.
  	Từ phát hiện trên, đồng chí này cùng với cán bộ kỹ thuật của binh chủng  tên lửa đã nghiên cứu thiết kế lắp đặt một bộ điều khiển mang mật danh  KX trang bị cung cấp cho các đơn vị tên lửa của chúng ta. KX chính là sự  kết hợp giữa radar cổ lỗ và bộ điều khiển của hệ thống điều khiển  SAM-2.
  	Chính bộ điều khiển mang mật danh KX đã góp phần vào việc phát hiện  B-52 rất chính xác, thậm chí có thể phát hiện đâu là B-52 thật, đâu là  B-52 giả để tập trung lực lượng tiêu diệt.
  	Quân chủng phòng không không quân đã xây dựng phương án đánh B-52 bảo  vệ Hà Nội dựa trên cơ sở bộ điều khiển KX  từ tháng 5/1972 và sau đó  tiếp tục hoàn chỉnh phương án này vào tháng 7, tháng 9, tháng 11. Đây là  một phương án có tính chất chiến lược để phát huy cao độ các lực lượng  của quân chủng phòng không không quân để đánh thắng B-52.
 
 	 		Hệ thống radar KX được trưng bày tại bảo tàng phòng không-không quân
   	Phương án này được nhanh chóng phổ biến trong toàn quân chủng và đã góp  phần quan trọng trong thắng lợi trong chiến dịch Điện Biên Phủ trên  không. Đôi khi, trong chiến tranh, vũ khí hiện đại không hẳn là yếu tố  tạo nên chiến thắng. Các yếu tố làm lên thắng lợi của chiến dịch “Điện  Biên Phủ trên không” chính là làm tốt các khâu từ chuẩn bị kỹ thuật khí  tài, yếu tố linh hoạt và sáng tạo trong khai thác, sử dụng cũng như tư  duy về chiến thuật trong công tác nghiên cứu địch và phương pháp bố trí  trận địa để đánh địch. Điều đó cho thấy, yếu tố con người vẫn là quan  trọng nhất làm nên sức mạnh Việt Nam.