Đồng thời bác đưa tin mà không đưa link cũng không hợp lý, và viết cũng mang nặng cảm tính với những câu như: nghiên cứu mới đây, hé lộ trong tương lai ...
Em xin nhắc lại là các nước có tiêu chuẩn an toàn thực phẩm cho đồ nhựa họ sẽ có quy định rất khắt khe.
Bác uống nước tinh khiết Lavie hoặc Aqua trong chai PET đó, các bình nước Lavie loại 18 gallon vẫn đựng trong bình nhựa dùng hàng ngày, nếu nguy hiểm thì đã bị cấm từ lâu rồi.
Tôi e ngại tôi viết thuần túy khoa học thì nhiều người không hiểu, nên tôi viết nhẹ nhàng dễ hiểu, không đao to búa lớn. Cụ muốn link các nghiên cứu mới nhất tôi cung cấp bên dưới.
Đây, mời các cụ đọc cho mở tầm mắt. Thứ nhất là trước kia người ta không dành các kỹ thuật tiến tiến của VL để đo đếm các hạt kích cỡ micro mét vd trong chai nước. Nhưng bây giờ thì đã khác, người ta đã dùng tất cả các kỹ thuật cơ bản như
1. Kính hiển vi quang học: phát hiện hạt kích cỡ vài chục micrometr
2. Phân tích phổ Raman: phát hiện hạt kích cỡ 0.1-100 micrometr
3. SEM – Scanning Electron Microscopy (Hiển vi điện tử quét): phân tích cấu trúc bề mặt vi hạt.
cùng các phần mềm đếm vi hạt trên ảnh ImageJ, siMPle++ hoặc µFTIR .
Và tất nhiên là cả học máy AI đem vào hết để nhận dạng ảnh.
Nguồn: https://www.nih.gov/news-events/nih-research-matters/plastic-particles-bottled-water
Nhựa là một phần trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, và ô nhiễm nhựa đang ngày càng đáng lo ngại. Khi nhựa bị phân hủy theo thời gian, chúng có thể hình thành các hạt nhỏ hơn gọi là vi nhựa, có chiều dài 5 mm hoặc nhỏ hơn.
Ngược lại, vi nhựa có thể phân hủy thành các mảnh nhỏ hơn nữa gọi là nano nhựa, có kích thước dưới 1 μm. Không thể nhìn thấy bằng mắt thường, chúng đủ nhỏ để xâm nhập vào các tế bào và mô của cơ thể.
Các nghiên cứu trước đây đã tìm thấy bằng chứng về các hạt nhựa trong máu, phổi, ruột, phân và các mô sinh sản như nhau thai và tinh hoàn của con người.
Tuy nhiên, những ảnh hưởng tiềm ẩn đến sức khỏe của những hạt nhựa nhỏ bé này vẫn chưa được chứng minh và chưa được biết đến. Kích thước nhỏ của các hạt nano khiến chúng đặc biệt khó phát hiện và nghiên cứu.
Để hiểu rõ hơn về nano nhựa, một nhóm nghiên cứu do Tiến sĩ Wei Min và Beizhan Yan của Đại học Columbia dẫn đầu đã cải tiến một kỹ thuật hình ảnh mạnh mẽ mà Tiến sĩ Min đồng phát minh cách đây 15 năm với sự hỗ trợ của NIH.
Kỹ thuật này, được gọi là kính hiển vi tán xạ Raman kích thích (SRS), hiện được sử dụng rộng rãi để quan sát các phân tử nhỏ trong tế bào sống. Phương pháp này hoạt động bằng cách tập trung hai chùm tia laser vào mẫu để kích thích một số phân tử nhất định phát ra các tín hiệu ánh sáng đặc trưng có thể phát hiện được.
Không giống như nhiều phương pháp khác, kính hiển vi SRS không phụ thuộc vào việc đánh dấu các phân tử cụ thể để tìm thấy chúng. Trong nghiên cứu mới, được NIH hỗ trợ, các nhà nghiên cứu đã phát triển một phương pháp SRS mới để phát hiện vi nhựa và nano nhựa ở cấp độ hạt đơn lẻ. Sau khi xác nhận rằng kỹ thuật này có thể nhanh chóng phát hiện các hạt nhựa nhỏ hơn 1 μm, họ đã phát triển một thuật toán dựa trên học máy để phát hiện bảy loại nhựa phổ biến.
Để thử nghiệm nền tảng hình ảnh thông lượng cao mới của mình, nhóm nghiên cứu đã phân tích vi nhựa và nano nhựa trong ba thương hiệu nước đóng chai phổ biến. Kết quả được báo cáo vào ngày 8 tháng 1 năm 2024, trên Kỷ yếu của Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ.
Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng, trung bình, một lít nước đóng chai chứa khoảng 240.000 mảnh nhựa nhỏ. Khoảng 90% trong số các mảnh nhựa này là nhựa nano. Tổng số hạt nhựa này nhiều hơn từ 10 đến 100 lần so với các nghiên cứu trước đây, chủ yếu tập trung vào các hạt nhựa siêu nhỏ.
Nước chứa các hạt của cả bảy loại nhựa. Phổ biến nhất là polyamide, một loại nylon thường được sử dụng để lọc và làm sạch nước. Một lượng lớn polyethylene terephthalate (PET) cũng được phát hiện. Điều này có thể dự đoán được, vì PET được sử dụng để làm chai đựng nước, soda và nhiều loại đồ uống và thực phẩm khác. Các loại nhựa khác được xác định bao gồm polyvinyl clorua, polymethyl methacrylate và polystyrene, cũng được sử dụng trong lọc nước.
Phương pháp này đã xác định được hàng triệu hạt nhựa bổ sung không khớp với bảy loại nhựa. Hiện vẫn chưa rõ liệu những hạt nhỏ này là nhựa nano hay các chất khác. Các nhà nghiên cứu cho biết kỹ thuật mới này sẽ giúp nâng cao hiểu biết của chúng ta về việc con người tiếp xúc với nhựa nano. "Điều này mở ra một cánh cửa để chúng ta có thể nhìn vào một thế giới nhựa mà trước đây chúng ta chưa từng tiếp xúc", Yan nói. Trong tương lai, các nhà nghiên cứu sẽ áp dụng phương pháp này để phân tích nhiều mẫu môi trường hơn, chẳng hạn như nước máy, mẫu không khí trong nhà và ngoài trời, và các mô sinh học. Họ cũng đang phát triển các bộ lọc có thể giảm ô nhiễm nhựa từ nước thải giặt là, vì nhiều loại vải có chứa nylon, PET và các loại nhựa khác.
Nguồn: https://www.sciencedaily.com/releases/2024/01/240108153132.htm?utm_source=chatgpt.com
Trong những năm gần đây, ngày càng có nhiều lo ngại rằng các hạt nhỏ được gọi là vi nhựa đang xuất hiện ở khắp mọi nơi trên Trái Đất, từ băng ở hai cực đến đất, nước uống và thực phẩm. Được hình thành khi nhựa phân hủy thành các mảnh nhỏ hơn, những hạt này đang được con người và các sinh vật khác tiêu thụ, với những tác động tiềm ẩn chưa được biết đến đối với sức khỏe và hệ sinh thái. Một trọng tâm nghiên cứu lớn: nước đóng chai, được chứng minh là chứa hàng chục nghìn mảnh nhựa có thể nhận dạng được trong mỗi chai. Giờ đây, bằng cách sử dụng công nghệ mới được cải tiến, các nhà nghiên cứu đã bước vào một thế giới nhựa hoàn toàn mới: thế giới ít được biết đến của nanoplastic, sản phẩm của các vi nhựa đã phân hủy thậm chí còn lớn hơn. Lần đầu tiên, họ đã đếm và xác định những hạt nhỏ này trong nước đóng chai. Họ phát hiện ra rằng trung bình, một lít nước chứa khoảng 240.000 mảnh nhựa có thể phát hiện được - lớn hơn từ 10 đến 100 lần so với các ước tính trước đây, chủ yếu dựa trên kích thước lớn hơn.
Công bố:
Article: Rapid single-particle chemical imaging of nanoplastics by SRS microscopy
Journal: Proceedings of the National Academy of Sciences (PNAS)
pnas.org
Link DOI: https://www.pnas.org/doi/10.1073/pnas.230058212