Bài sau đây do GS Tuấn (Úc) viết đã lâu bàn về vấn đề nguồn gốc người Việt. Đã và đang có nhiều giả thuyết trái ngược, nhưng thực sự chưa giả thuyết nào thực sự đủ chứng cứ để đứng vững.  
  Hy vọng là cùng với sự phát triển về kinh tế và nguồn nhân lực, các nghiên cứu cơ bản giải mã di truyền người Việt, sẽ được cấp kinh phí đủ để thực hiện cùng với sự tham gia của các GS từ các đại học danh tiếng Hoa kỳ, cũng như các nhà nghiên cứu có uy tín từ các quốc gia ĐNA khác.  Các nghiên cứu khảo cổ tiền sử cũng rất quan trọng bên cạnh các nghiên cứu về gien. 
======================================
Bàn về nguồn gốc người Việt
Hỏi  một người Việt bình thường về nguồn gốc dân tộc Việt Nam, câu trả lời  mà người ta thường nghe là tổ tiên của chúng ta xuất phát từ Trung Quốc.   Ngay cả người có kiến thức rộng, có quan tâm đến dân tộc và văn hóa  Việt cũng có những ý kiến tương tự.  Đào Duy Anh, trong Việt Nam Văn hóa  Sử cương;  và Trần Trọng Kim, trong Việt Nam sử lược, cũng từng cho  rằng người Việt có nguồn gốc hoặc từ Trung Quốc [1] hay từ Tây Tạng [2],  dù họ có chút dè dặt và thận trọng trong phát biểu.
Có lẽ cái  quan điểm dân tộc Việt có nguồn gốc từ Trung Quốc đã ăn sâu vào tâm trí  của chúng ta, nên văn minh Việt Nam cũng được nghiễm nhiên suy luận là  bắt nguồn từ văn minh Trung Quốc.  Quan điểm này phù hợp với sách vở của  Trung Quốc.  Chẳng hạn như trong Hậu Hán thư , các sử gia của Trung  Quốc, với một giọng văn cực kì trịch thượng và kì thị chủng tộc, viết  rằng tổ tiên ta ngày xưa giống như loài “cầm thú”, xã hội thì chẳng có  tôn ti trật tự gì cả, phải đợi đến khi hai quan thái thú của họ là Tích  Quang và Khâm Diên dạy cho tổ tiên ta cách ăn mặc và cách trồng lúa.   Sau đó các nhà sử học này thản nhiên kết luận: “Miền Lĩnh Nam theo phong  hóa Trung Quốc là bắt đầu từ hai thái thú ấy” [3].
Điều thú vị  là nhận xét này đã được giới có học của Việt Nam tiếp nhận và lấy làm  một thứ kinh điển, một câu văn giáo khoa, mà không có một chất vấn tính  trung thực, hay thách thức tính khoa học của nó.  Tính dễ dãi chấp nhận  sử liệu ngoại bang của giới có học ngừơi Việt đã vô tình gieo vào lòng  nhiều người Việt một tâm lí tự ti, đánh giá thấp nền văn hóa Việt Nam  khi so sánh với các nền văn hóa khác, như của Trung Hoa chẳng hạn.
Thực  ra, chẳng riêng gì giới trí thức Việt Nam, ngay cả một phần lớn trong  giới sử học Tây phương cũng từng quan niệm, hay nói đúng hơn là giả  định, rằng các nền văn minh Đông Nam Á (kể cả của Việt Nam) chỉ là những  chi nhánh của hai nền văn hóa lớn hơn: Trung Hoa và Ấn Độ.  Giả định  này đã được dùng như là một sử liệu, một thuyết đáng tin cậy để dạy học  cho học sinh (trong đó có cả học sinh người Việt); và một cách vô tình,  nó được lưu truyền hết thế hệ này sang thế hệ khác như là một sự thật!   Bởi vì qua nhiều năm, chẳng ai chất vấn lý thuyết này, nên một cách  nghiễm nhiên, nó được xem là một “thuyết chính thống.”
Mãi đến  thập niên 1960s, một số nhà khảo cổ học rất uy tín (phần lớn là Mĩ), dựa  vào nhiều kết quả của một loạt nghiên cứu ở Việt Nam và Thái Lan, đã  bắt đầu chất vấn sự chính xác và tính logic của thuyết chính thống trên  đây [4].  Có thể nói họ là những “con cừu đen” trong giới tiền sử học,  vì đã can đảm thách thức một quan điểm mà đại đa số đồng nghiệp đều mặc  nhiên công nhận.  Nhưng họ không phải là những người đơn độc.  Gần đây,  đã có một số nhà nghiên cứu từ Việt Nam, Thái Lan, và Nam Dương công bố  nhiều dữ kiện khảo cổ học cho thấy rằng thuyết văn hóa Đông Nam Á xuất  phát từ văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ không còn đứng vững nữa.
Nhưng  trong những nhà nghiên cứu chuyên môn này, chưa ai trình bày dữ kiện  một cách có hệ thống và nghiên cứu một cách sâu xa bằng một nhà nghiên  cứu “tài tử” là ông Stephen Oppenheimer trong cuốn sách "Eden in the  East: The Drowned Continent of Southeast Asia"  (tạm dịch là "Thiên đàng  ở phương Đông: Lục địa chìm đắm của Đông Nam Á) [5].  Trong tác phẩm  này, qua những dữ kiện dồi dào được thu thập một cách công phu từ nhiều  ngành nghiên cứu khác nhau, Oppenheimer trực tiếp thách thức cái thuyết  chính thống, và làm thay đổi những quan niệm về thời tiền sử mà chúng ta  từng hiểu và từng được dạy.  Đặc biệt, cuốn sách đặt trọng tâm vào việc  thẩm định lại các quan điểm về văn minh vào thời tiền sử ở Đông Nam Á,  tác giả cho rằng:
(a) Trận đại hồng thủy [6] được đề cập đến trong Kinh Thánh là có thật và xảy ra vào cuối thời đại Băng hà (Ice Age).
(b)  Trận đại hồng thủy này xảy ra khoảng 8000 năm về trước làm chìm đắm lục  địa Đông Nam Á, và làm cho dân chúng phải di tản đi các vùng đất khác  để sống.  Họ chính là những người gầy dựng nên nền văn hóa Tân Đồ Đá  (Neolithic cultures) của Trung Quốc, Ấn Độ, Mesopotamia, Ai Cập và vùng  đông Địa Trung hải, và do đó, họ là những người cha đẻ và vun đắp các  nền văn minh vĩ đại ở phương Tây.
(c) Những dân tộc thuộc quần đảo Polynesian không phải xuất phát từ Trung Quốc, nhưng có nguồn gốc từ Đông Nam Á.
(d)  Người Trung Quốc không phải là người sáng chế ra kĩ thuật trồng lúa.   Khoảng 9,000 đến 10,000 năm về trước, một số dân thuộc vùng Đông Nam Á  đã là những nhà canh nông chuyên nghiệp đầu tiên trên thế giới (chứ  không chỉ sống bằng nghề săn bắn), họ đã phát triển kĩ thuật trồng khoai  và qua đó làm một cuộc cách mạng nông nghiệp.
Nói một cách khác  cho rõ ràng hơn, qua công trình nghiên cứu này, Oppenheimer đề xuất một  thuyết cho rằng Đông Nam Á là cái nôi của văn minh nhân loại ngày nay.   Thuyết này thể hiện một thách thức rất lớn đến các tri thức về thời tiền  sử đã và đang được lưu truyền trong giới khoa bảng.  Và do đó,  Oppenheimer đã, lần đầu tiên, đặt vùng Đông Nam Á vào vị trí xứng đáng  của một vùng đất thường bị lãng quên bên cạnh hai nền văn minh lớn là  Trung Hoa và Ấn Độ.
Theo thuyết của Oppenheimer thì người Trung  Quốc và Ấn Độ ngày nay có gốc gác từ Đông Nam Á, chứ không phải nguồn  gốc của người Đông Nam Á là ở Trung Quốc hay Ấn Độ.  Đây cũng là một đảo  vòng xoay 180 độ về nguồn gốc dân tộc Việt Nam.  Mà, xem ra thuyết của  Oppenheimer có nhiều "đồng minh."  Một số học giả khác (như M. Colani,  J. Hornell, P. van Stein, H. Geldern, B, Karlgren, NJ Krom) cũng cho  rằng làn sóng người từ Bắc Việt tràn xuống phía Nam và vào Ấn Độ trước  khi vùng này bị giống dân Aryan xâm chiếm.  Giáo sư Solheim II căn cứ  trên những dữ kiện khảo cổ thì thấy rằng giống người Hoà Bình tràn lan  xuống phía nam, lên hướng bắc, và sang hướng tây.  Tại mỗi nơi, người  Hòa Bình phối hợp với dân địa phương để tạo thành các chủng tộc mới của  mỗi vùng.
Thuyết của Oppenheimer có cơ sở khoa học.  Sau khi cuốn  sách Eden in the East xuất bản, một loạt nghiên cứu di truyền học cung  cấp nhiều bằng chứng quí báu về hành trình của con người.  Tưởng cần  nhắc lại rằng trong quá khứ người ta thường tập trung vào nghiên cứu các  đặc tính nhân trắc và ngôn ngữ để xác định nguồn gốc con người, và xu  hướng này làm xao lãng các dữ kiện có thể cho chúng ta nhiều thông tin  hơn: đó là gien.  Không giống như xương sọ, những thay đổi trong gien  thường xảy ra theo những qui luật mà chúng ta hiểu khá rõ, và vì thế  gien và các đặc điểm của gien, như tầng số gien, cấu trúc DNA, phân phối  gien, v.v... cho chúng ta những thông tin cực kì quí giá về sự tiến hóa  của con người.  Ngày nay, những tiến bộ phi thường trong ngành di  truyền học và sinh học phân tử (molecular biology) trong mấy năm gần đây  đã cung cấp cho ngành nhân chủng học một phương tiện cực kì quan trọng  trong việc xác định lịch sử tiến hóa của con người và mối liên hệ giữa  các dân tộc.
Giá trị của di truyền học trong việc truy tầm nguồn  gốc dân tộc đã được đánh giá cao về mức độ tin cậy.  Di truyền học là  một cửa sổ để chúng ta nhìn lại quá khứ của chúng ta.  Tuy nhiên, những  nghiên cứu về di truyền học trong người Việt còn cực kì khiêm tốn, nếu  không muốn nói là không đáng kể.  Trong thời gian khoảng 10 năm trở lại  đây, đã có một số bằng chứng, tuy gián tiếp, nhưng cũng đủ để chúng ta  có lí do để xem xét lại lịch sử tiến hóa của dân tộc Việt.  Những bằng  chứng này là:
(a)  Năm 1998, Giáo sư Chu và đồng nghiệp (thuộc  Trường Đại học Texas) [7] phân tích 15 đến 30 mẫu “vi vệ tinh” DNA  (microsatellites) để thử nghiệm sự khác biệt di truyền trong 24 nhóm dân  từ nhiều tỉnh khác nhau ở Trung Quốc, 4 nhóm dân vùng Đông Nam Á (hai  thuộc thổ dân Mĩ, một thuộc thổ dân Úc châu, và một thuộc Tân Guinea), 4  nhóm dân da trắng (Caucasian), và 3 nhóm dân Phi châu.  Bằng một phương  pháp phân tích thống kê có tên là “phân tích phát sinh chủùng loại”  (Phylogenetic analysis)”, một số kết quả đáng ghi nhận như sau:
(i) hai nhóm dân có sự khác biệt rõ ràng nhất là Phi châu và các dân không thuộc Phi châu;
(ii)  tất cả các nhóm dân Đông Nam Á “tập hợp” thành một nhóm, và nhóm dân có  đặc tính di truyền gần họ nhất là người thổ dân Mĩ châu, kế đến là thổ  dân Úc châu, và Tân Guinea (Những kết quả này cũng phù hợp với thời gian  định cư ở Úc châu (khoảng 60,000 đến 50,000 năm trước đây, và thời gian  định cư ở Mĩ châu (từ 30,000 đến 15,000 năm trước đây);
(iii)  các nhóm dân miền nam Trung Quốc phân phối thành ba nhóm, gọi là S1, S2,  và S3 (ngoại trừ nhóm S2 là người Hán từ tỉnh Henan, phần còn lại (S1  và S3) gồm các sắc dân trong vùng Yunnan); và
(iv) các sắc dân  miền bắc Trung Quốc phân phối thành hai nhóm, gọi là N1 và N2.  Nhóm N1  gồm 6 sắc dân nói tiếng Altaic, một nhóm Hán tộc miền bắc từ tỉnh  Yunnan.  Nhóm N2 gồm 4 sắc tộc thiểu số có lịch sử sinh sống lâu đời ở  miền bắc, trong đó có một sắc tộc từ tỉnh Ninxia.
Từ những phát  hiện trên, một số mô hình có thể đặt ra để giải thích, nhưng mô hình  thích hợp với dữ kiện của Giáo sư Chu và đồng nghiệp là các dân tộc miền  Bắc Á được tiến hóa từ các dân tộc Đông Nam Á châu.  Các dữ kiện liên  quan đến răng, sọ [8-9] cũng nhất quán với mô hình này.  Do đó, Giáo sư  Chu và đồng nghiệp kết luận rằng: “Tổ tiên của các nhóm dân Đông Á ngày  nay có nguồn gốc từ Đông Nam Á.”  Nói một cách khác, các dữ kiện di  truyền học của Giáo sư Chu và đồng nghiệp cho thấy tổ tiên của những  người nói tiếng Altaic từ Đông Á đã di cư vào Á châu từ ngã Đông Nam chứ  không phải từ ngả Trung Á.
(b)  Nhưng nghiên cứu của Giáo sư Chu  và đồng nghiệp có một điểm yếu, đó là họ dựa vào vi vệ tinh DNA, một  chất liệu di truyền rất “nhạy” (sensitive) và dễ bị đột biến (mutation).   Để khắc phục nhược điểm này, một nhóm nghiên cứu khác đã tiến hành một  nghiên cứu độc lập và qui mô hơn để xác định nguồn gốc Đông Nam Á của  dân tộc Trung Hoa.  Nhóm nghiên cứu Mĩ – Trung Quốc phân tích DNA trong  nhiễm sắc thể Y trong các nhóm dân Hán (thuộc 22 tỉnh của Trung Quốc), 3  nhóm dân Đông Bắc Á (Buryat, Đại Hàn, và Nhật Bản), 5 nhóm dân Đông Nam  Á (Cambốt, Thái Lan, Mã Lai, Batak, và Java), và 12 nhóm dân ngoài Á  châu (3 nhóm từ Phi châu, 3 từ Mĩ châu, 2 từ Âu châu, và 4 từ châu Đại  dương).   Các nhà nghiên cứu ghi nhận rằng mức độ biến thiên đa hình  thái (polymorphic variation) trong các nhóm dân Đông Nam Á cao hơn trong  các nhóm dân thuộc vùng Bắc Á.  Điều này có nghĩa là các sắc dân ở Đông  Nam Á có một quá trình định cư lâu dài hơn là các nhóm dân Bắc Á.  Dùng  các phương pháp phân tích di truyền quần thể (population genetics), các  nhà nghiên cứu kết luận rằng con người thời đó đã di cư từ Phi châu  sang đến Đông Nam Á [10] vào khoảng 60 ngàn năm về trước, và sau đó đã  di chuyển lên phía Bắc Á (kể cả Trung Quốc ngày nay) và Siberia [11].   Ngoài ra, còn có bằng chứng di truyền cho thấy các nhóm dân Polynesians  cũng có nguồn gốc từ Đông Nam Á [12].
(c)  Trong một nghiên cứu  trên 103 người ở Hà Nội [13], các nhà nghiên cứu Việt – Pháp phân tích  DNA trong hai gien (HLA-DR và DQB1), và so sánh kết quả này  với các sắc  dân thuộc châu Đại Dương (Oceania) và Đông Á.  Sau khi ước tính khoảng  cách di truyền [14] giữa các sắc dân, các nhà nghiên cứu kết luận rằng  cấu trúc di truyền của hai gien này trong người Việt gần với người Thái  và người Hoa.  Các nhà nghiên cứu này kết luận rằng dữ kiện của họ phù  hợp với giả thuyết người Việt có nguồn gốc từ người Trung Hoa và  Thái-Nam Dương.
Tuy nhiên, sau khi xem xét kĩ phần phương pháp  nghiên cứu, tôi có lí do để cho rằng kết luận này rất có thể không đúng.   Những lí do này là: Thứ nhất, nghiên cứu này chỉ dựa vào hai gien mà  thôi (con người có khoảng 35 đến 39 ngàn gien), và với những yếu điểm  của mtDNA, các ước đoán về khoảng cách di truyền không ổn định.  Thứ  hai, ngay cả trong bài báo các nhà nghiên cứu không xây dựng được một  cây di truyền nào, và cũng chẳng phân tích phát sinh chủùng loại thì  không thể phán đoán về chiều hướng di cư hay nguồn gốc dân tộc được.
(d)   Khoảng 2 năm sau, các nhà nghiên cứu này lại tiến hành một nghiên cứu  khác trên 50 người cũng ở Hà Nội [15], và cũng qua dùng kĩ thuật PCR  (polymerase chain reaction) họ phân tích 6 “restriction enzymes”, và ghi  nhận khoảng cách di truyền giữa người Việt và người Hoa rất thấp (chỉ  0.0022), nhưng giữa người Việt và Ấn Độ thì tương đối cao hơn (0.0468),  có nghĩa là quan hệ giữa giống người Việt và Hoa gần nhau hơn so với  quan hệ Việt và Ấn.
Nghiên cứu này cũng có những yếu điểm như  nghiên cứu trình bày phần (c), tức là số lượng gien quá ít (trong trường  hợp này chỉ có một gien), và tác giả cũng không tính toán mức độ biến  thiên của chỉ số khoảng cách di truyền, nên không thể nào phát biểu  khoảng cách giữa Việt – Hoa gần hơn khoảng cách giữa Việt – Ấn.  Thực  ra, sau khi tính toán lại, tôi thấy hai khoảng cách di truyền (Việt –  Hoa  và Việt – Ấn) không có sự khác biệt đáng kể (non-significant)!
(e)   Tuy nhiên, một nghiên cứu khác trên 5 gien trong nhiễm sắc thể Y trong  hai nhóm dân: Bắc Á (Bắc Trung Quốc, Nhật, Hàn Quốc, và Mông Cổ), và  Nam Á (Nam Dương, Phi Luật Tân, Thái, và Việt Nam) cho thấy người Việt  gần với các nhóm dân Bắc Á (nhất là Hàn Quốc) hơn là các nhóm dân Nam Á  [16]!  Chúng ta biết rằng, qua nghiên cứu của Giáo sư Chu, người Hoa  phía Bắc Trung Quốc có cấu trúc di truyền khác với người Hoa phía Nam  Trung Quốc.  Do đó, phát hiện này quả rất khó giải thích.  Càng khó giải  thích hơn nữa khi phần lớn những người Việt trong nghiên cứu này là cư  dân ở Hà Nội, tức gần miền Nam Trung Quốc.
(f)  Trong một nghiên  cứu dùng mtDNA, Ballinger và đồng nghiệp [17] ghi nhận rằng chỉ số biến  thiên (trong di truyền học gọi là F-value) trong người Việt cao nhất  trong các sắc dân vùng Đông Nam Á.  Tuy nhiên, các tác giả kết luận một  cách mơ hồ rằng các dữ kiện này cho thấy “người Á châu có nguồn gốc từ  nhóm dân Nam Mông” (nguyên văn: “The greatest mtDNA diversity and the  highest frequency of mtDNA with HpaI/HincII morph 1 were observed in the  Vietnamese suggesting a Southern Mongoloid origin of Asians”).  Thực  ra, các dữ kiện mà tác giả trình bày không cho phép họ kết luận như thế,  bởi vì họ chỉ 7 nhóm dân Á châu mà thôi, và cũng chỉ nghiên cứu trên  vài mẫu gien rất nhỏ.  Nhưng qua số liệu của các nhà nghiên cứu này,  chúng ta có thể phát biểu rằng trong hai gien mà họ nghiên cứu, người  Việt có lẽ là một sắc dân cổ nhất trong vùng Đông Nam Á.
Qua các  nghiên cứu di truyền dựa vào nhiễm sắc thể Y và mtDNA mà tôi vừa tóm  lược và nhận xét cho chúng ta thấy rằng các nhóm dân Đông Á có cùng một  nguồn gốc chung: đó là tất cả đều xuất phát từ Phi châu.  Cũng dựa theo  các dữ kiện mới này, các nhà nghiên cứu ước đoán rằng đợt người đầu tiên  di cư đến Đông Nam Á xảy ra vào khoảng 18.000 đến 60.000 năm trước đây,  và sau đó từ đây một đợt di cư về phía Bắc.  Một đợt khác cũng từ Đông  Nam Á di cư sang các quần đảo Thái Bình Dương qua ngả Mã Lai Á ngày nay.   Tất nhiên, đây chỉ là “câu chuyện” mới được phát họa, nhiều chi tiết  vẫn còn trong vòng nghiên cứu thêm.
Các kết quả của các nghiên  cứu này đã cung cấp thông tin cho chúng ta để phát biểu một giả thuyết  mới, rằng người Hoa ngày nay, nhất là người Hoa ở phía Nam Trung Quốc,  có thể xuất phát từ Đông Nam Á; và có bằng chứng [tuy chưa đầy đủ] cho  thấy người Việt có thể là một dân tộc cổ nhất trong vùng Đông Nam Á; cho  nên có thể người Việt cũng có thể chính là tổ tiên của người Hoa ngày  nay, nhất là các sắc dân ở miền Nam Trung Quốc.  Cố nhiên, đó chỉ là một  giả thuyết cần được thử nghiệm.
Nguồn gốc con người hiện đại, mà  đặc biệt là nguồn gốc dân tộc Việt, là một câu hỏi đơn giản, nhưng câu  trả lời thì không đơn giản chút nào.  Tổ tiên chúng ta xuất phát từ đâu,  họ đến Việt Nam bằng cách nào, vẫn còn là những vấn đề khoa học “nóng”,  đòi hỏi nhiều nghiên cứu về di truyền học, khảo cổ học, và ngôn ngữ  học.  Tuy nhiên, với sự tiến bộ phi thường về khoa học di truyền và công  nghệ sinh học trong khoảng mười năm qua, chúng tôi tin rằng việc nghiên  cứu quá trình lịch sử di truyền của người Việt chúng ta sẽ đem lại  nhiều kết quả thích thú và làm sáng tỏ hơn về nguồn gốc tổ tiên của  chúng ta. Chúng tôi đang làm việc này và hi vọng sẽ có dịp trình bày kết  quả nay mai.
NVT
Chú thích:
1.  Trong Việt Nam Văn hóa Sử cương (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh tái  bản năm 1992), ở trang 24-25, Đào Duy Anh viết: "Nay ta hãy căn cứ vào  sự nghiên cứu của các nhà sử học, nhất là các vị giáo sư ở trường Viễn  Đông bác cổ, mà xem gốc tích của dân tộc ta như thế nào.  Có người cho  rằng tổ tiên ta phát xuất từ Tây Tạng, sau theo lưu vực sông Nhị mà di  cư xuống miền trung châu Bắc Việt.  Nhưng theo ông Aurousseau dẫn chứng  có điều rất kỹ càng thì tổ tiên ta lại là người nước Việt ở miền hạ lưu  sông Dương Tử, sau bị nước Sở (đời Xuân thu) đánh đuổi phải chạy xuống  miền nam ở miền Quảng Đông, Quảng Tây, rồi lần lần đến Bắc Việt và phía  Bắc Trung Việt.  Theo nhiều nhà nhân chủng học hiện thời thì ở thời  thượng cổ, giống người Indonesian bị giống Aryan đuổi ở Ấn Độ mà tràn  sang bán đảo Ấn Độ Chi-na, làm tiêu diệt giống người thổ trước đầu tiên ở  đây là giống Melanesian rồi một phần trong đám di dân ấy đi thẳng mãi  sang Nam Dương quần đảo, còn một phần ở lại Ấn Độ Chi-na, ở phía nam  thành người Chiêm Thành và Cao Man sau đồng hóa theo văn hóa Ấn Độ, ở  phía bắc thì hỗn hợp với giống Mông Cổ ở Trung Hoa xuống mà thành người  Việt Nam."
2.  Trong Việt Nam Sử Lược (Trung tâm Học liệu Bộ Giáo  dục xuất bản, Sàigòn, 1971), ở trang 5, Trần Trọng Kim viết: "Theo ý  kiến những nhà kê cứu của nước Pháp, thì người Việt Nam và người Thái  đều ở miền núi Tây Tạng xuống.  Người Việt Nam theo sông Hồng Hà lần  xuống phía Đông nam, lập ra nước Việt Nam ta bây giờ; còn người Thái thì  họ theo sông Mê-kông xuống, lập ra nước Tiêm la (tức là Thái Lan) và  các nước Lào.  Lại có nhiều người Tàu và người Việt Nam nói rằng nguyên  khi xưa đất nước Tàu có giống Tam Miêu ở, sau giống Hán tộc (tức người  Tàu bây giờ) ở phía Tây Bắc đến đánh đuổi người Tam Miêu đi, chiếm giữ  lấy vùng sông Hoàng Hà lập ra nước Tàu, rồi dần dần xuống phía nam,  người Tam Miêu phải lẩn núp vào rừng hay là xuống ở miền Việt Nam ta bây  giờ.  Những ý kiến ấy là theo lý mà suy ra đó thôi, chứ cũng chưa có  cái gì làm chứng cho đích xác.  Chỉ biết rằng người Việt Nam ta trước có  hai ngón chân cái giao lại với nhau, cho nên Tàu mới gọi ta là Giao  Chỉ; mà xem các loài khác, không có loài nào như vậy, thì tất ta là một  loài riêng, chứ không phải là loài Tam Miêu."
3. Sách Hậu Hán thư  (tức sử của Trung Quốc) chép: "Phàm đất thuộc bộ Giao Chỉ, tuy đã đặt  quận, huyện, nhập vào lãnh thổ Trung Quốc, nhưng ngôn ngữ vẫn khác nhau,  phải có thông ngôn mới hiểu.  Người như cầm thú, không phân biệt trưởng  ấu (tức không có tôn ti trật tự), búi tóc ở gáy, đi chân không, lấy vải  quấn qua đầu làm áo.  Sau đó những người tội phạm Trung Quốc đến ở lẫn  với họ, mới biết ngôn ngữ dần dần thấy hóa theo lễ.  Đến thời Quang Vũ  Trung Hung, Tích Quang làm thái thú Giao Chỉ, Nhâm Diên làm thái thú Cử  Chân, bấy giờ mới dạy cho dân biết cày cấy, biết đội mũ đi giày, đặt mối  lái, dân mới biết hôn nhân, dựng học hiệu dạy lễ nghĩa …"
4. Về  các bài báo khoa học mang tính tiền phong trong ngành khảo cổ học ở Đông  Nam Á, xin xem những bài sau đây: (i) "On the improbability of  Austronesian origins in South China," của Giáo sư William Meacham, đăng  trong Tạp san Asian Perspectives, quyển 25, năm 1984-5; (ii) "The  nusantao and North-South dispersals," của Giáo sư Wilhelm G. Solheim II,  in trong "Indo-Pacific Prehistory Association Bulletin," quyển 2, năm  1996; (iii) "Southeast Asia and Korea: from the beginings of food  production to the first states," cũng của Giáo sư Solheim II, in trong  "The History of Humanity: scientific and cultural development," quyển I:  "Prehistory and the Beginning of Civilization," do UNESCO/Routledge  (London) xuất bản năm 1994.
5. Sách "Eden in the East: the  Drowned Continent of Southeast Asia," của Stephen Oppenheimer, Nhà xuất  bản Phoenix (London), 1998.  Sách khổ 13 x 20 cm, dày 560 trang, kể cả  47 trang tài liệu tham khảo và 28 trang bảng danh mục, chữ loại nhỏ  (Times cỡ 8).  Giá đề 15 đô-la Canada, hoặc 9 sterling Anh.
6.  Theo sách Genesis, và theo truyền thuyết của nhiều nền văn minh cổ, ngày  xưa có xảy ra một số trận lụt vĩ đại (hay đại hồng thủy) phủ ngập cả  trái đất.  Huyền thoại về lụt nổi tiếng nhất là câu chuyện về Noah, một  giáo trưởng, được của Thượng đế, xây dựng một chiếc thuyền lớn tên là  Ark để gia đình ông ta và mọi sinh vật có thể sống sót qua cơn lụt.
7.   Xem bài “Genetic relationship of populations in China,” tác giả J. Y.  Chu và đồng nghiệp, Tập san Proceedings of the National Academy of  Science (USA) 1998; số 95, trang 11763-11768.
8. Xem bài “Major  features of Sundadonty and Sinodonty, including suggestions about East  Asian microevolution, population history, and late Pleistocene  relationships with Australian aboriginals”, C. G. Turner, Tập san  American Journal of Physical Anthropology, năm1990; bộ 82, trang  295-317.
9. Xem bài  “Population prehistory of east Asia and the  Pacific as viewed from craniofacial morphology: the basic populations in  east Asia, VII” T. Hanihara, American Journal of Physical Anthropology,  năm1990, năm 1993, bộ 91, trang 173-87.
10. Xem bài “African  origin of modern humans in East Asia: a tale of 12000 Y chromosomes,”  tác giả Yuehai Ke và đồng nghiệp, [Tập san] Science, năm 2001, bộ 292,  trang 1151-1153.
11. Xem bài “Y-chromosome evidence for a  northward migration of modern humans into eastern Asia during the last  Ice Age,” tác giả Bing Su và đồng nghiệp, [Tập san] American Journal of  Human Genetics, năm 1999, bộ 65, trang 1718-1724.
12.  Xem bài  báo khoa học “Polynesian origins: insights from the Y chromosome,” tác  giả Bing Su và đồng nghiệp, Tập san Proceedings of the National Academy  of Science (USA), năm 2000, bộ 97, trang 8225-8228.
13. Xem bài  “HLA-DR and DQB1 DNA polymorphisms in a Vietnamese Kinh population in Ha  Noi”, tác giả A. Vu-Trieu và đồng nghiệp, Tập san European Journal of  Immunogenetics, năm 1997, bộ 24, trang 345-356.
14. Khoảng cách  di truyền (hay còn gọi là genetic distance) là một thông số di truyền  học đo lường mức độ khác nhau giữa các nhóm dân.  Chỉ số này có giá trị  tối thiểu là 0 (tức hai nhóm dân giống nhau về mặt di truyền), và giá  trị tối đa là 1 (tức hai nhóm dân hoàn toàn khác nhau).
15. Xem  bài “Mitochondrial DNA polymorphism in the Vietnamese population”, tác  giả R. Ivanova và đồng nghiệp, Tập san European Journal of  Immunogenetics, năm 1999, bộ 26, trang 417-422.
16. Xem bài “Y  chromosomal DNA variation in East Asian populations and its potential  for inferring the peopling of Korea”, tác giả W. Kim và đồng nghiệp, Tập  san Journal of Human Genetics, năm 2000; bộ 45, trang 76-83.
17.   Xem bài “Southeast Asian mitochondrialDNA analysis reveals genetic  continuity of ancient Mongoloid migration,” tác giả S. W. Ballinger và  đồng nghiệp, Tập san Genetics, năm 1992, bộ 130, trang 139-45.
18.   Solheim II WG.  New light on a forgotten past.  National Geographic,  1971;139:number 3.  Trích đoạn, “Theo truyền thống, người ta cho rằng  trong thời kỳ tiền sử, kỹ thuật miền Đông Nam Á là kết quả của những làn  sóng di dân từ phương Bắc mang đến.  Riêng tôi cho rằng văn hóa nguyên  thủy thời đồ đá mới Ngưỡng Thiều (Yangshao) ở Trung Quốc mà người ta  biết đến chính là kết quả của một nền văn hóa tiền Hòa Bình đã di chuyển  từ miền bắc Đông Nam Á lên phía bắc vào khoảng 6000 hay 7000 năm trước  Công nguyên.” và […] “Văn hóa Long sơn (Lungshan) vẫn được xem là phát  triển từ Ngưỡng Thiều, […] thực ra là đã [được] khai sinh ở Nam Trung  Quốc và di chuyển lên phía Bắc.  Cả hai nền văn hóa này đều bắt nguồn từ  gốc văn hóa Hòa Bình.”
Nguồn