Ô, té ra, các cu ở đây cũng quan tâm đến các cụ lính Việt thời Thế chiến 1.

Baoleo tôi, cũng có nhiều tư liệu về việc này.
Tôi sẽ dùng tư liệu của mình, và các cụ CCB đáng kính khác của: quansuvn.net – để cùng các bác trong OF chém gió về vấn đề này.
Trước hết xin ‘đề mô’ 1 tý, sau đó sẽ trình bày lớp lang, nếu các cụ trong OF thấy có nhã hứng.
Trước hết, các cụ lính Việt, tham gia thế chế 1, đều được biên chế và thuộc: ‘Thủy binh bộ chiến An Nam Lữ đoàn’.
Các cụ lính Việt, thuộc Lữ này, đều là các cụ rất nên được tôn trọng.
Chẳng thế mà sau này, khi nước Việt Nam giành được Độc Lâp, vào ngày 3 tháng 7 năm 1946, Hồ Chủ tịch – Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, cũng đã đến Đền kỷ niệm Đông Dương tại vườn hoa Nogent, để đặt vòng hoa, tưởng, nhớ những người lính Việt, đã ngã xuống trên các nẻo đường chinh biên Tây Âu xa xôi, thời Thế chiến 1.
Khi tham chiến các đơn vị lính Việt đánh nhau thế nào xin tham khảo nhận xét về họ từ tài liệu Pháp:
Tiểu đoàn lính thuộc địa Đông Dương số 7 (7 BTI) gia nhập khu chiến tháng Tư năm 1917. Các đơn vị cơ bản của nó được phân tán về các trung đoàn BB 54 , 67 và 350 của sư đoàn BB 12 Lục quân Pháp. Họ tham gia vào trận chiến Aisne năm 1917 ở phía bắc làng Soupir. Trong ba ngày, báo cáo cho thấy 21 người hy sinh, 95 người bị thương và 67 người mất tích. Trong quá trình chiến đấu, lính tập Ngo Dinh Phu hạ được 2 địch thủ và bắt được 16 kẻ thù mà anh ta tự hào dẫn giải về cho viên đại úy của mình. Sau đó, tiểu đoàn chiếm lĩnh các trận địa tại Vosges và trong khu vực Reims; khi ký hiệp định đình chiến họ ở gần Gerardmer. Trong hai năm, những người lính của tiểu đoàn thuộc địa Đông Dương số 7 nhận được 97 mề-đay Thập tự Chiến (Croix de Guerre). Ngày 22 tháng 11 năm 1919, đơn vị trang nghiêm tiến vào Strasbourg cùng với các đội quân của tướng Gouraud.
Trong các trận chiến đẫm máu, các đơn vị Đông Dương thường chẳng bao giờ bị một lời chê trách nào. Họ đã nhận 12 huân chương quân công và 555 huy chương Croix de Guerre. Những người lính này nổi bật ở những phẩm chất của kẻ săn mồi và ý thức tổ chức vốn có của người châu Á. Người ta đánh giá họ "bình thản dưới làn đạn trái phá, nghiêm túc, lạnh lùng, thần kinh vững vàng". Trong năm 1917, sĩ quan chỉ huy một đơn vị thuộc trung đoàn bộ binh 67 đã viết về họ : "Họ thực sự rất cừ, luôn luôn đi hàng đầu". Cùng năm đó, một viên tướng mô tả "lính thuộc địa Đông Dương ở trong các chiến hào và các hầm trú ẩn bận rộn trong lúc nghỉ ngơi. Tại đó họ viết thư về cho gia đình hoặc đọc những cuốn sách chữ Tàu với một sự bình thản như thể họ đang ở cạnh một con kênh thanh bình".
(Các cụ nom ảnh để thấy, thời thế chiến 1, các cụ lính Việt nhà ta, chả kém cha con thằng …Tây nào cả

)
Các cụ lính Việt, cũng đã tham gia vào đầy đủ các quân binh chủng hiện đại của Thế chiến 1, như Hải quân, Không quân, Công binh xưởng, Chế tạo vũ khí, và cả…..chế tạo máy bay.
Đề mô cụ phi công trước.
Phi công Cách mạng đầu tiên là Cụ Lê Hồng Phong người Hưng Nguyên xứ Xô Viết Nghệ Tĩnh. Cái này thì chính sử của **** nói rồi

Tuy nhiên, phi công tiên khởi người Việt đầu tiên là người xứ Nam Kỳ, con điền chủ ở Chợ Lớn Đỗ Hữu Phương, ông là Đỗ Hữu Vị. Ngôi trường Phan Đình Phùng ở phố Cửa Bắc Hà Nội hồi tây gọi là trường Đỗ Hữu Vị.
Trong Thế chiến 1 ông phục vụ trong không quân Pháp, là phi công cường kích theo cách gọi bây giờ, trước đó ông phục vụ trong 1 phi đội ở mặt trận Maroc-Algerie năm 1912-1913. Thế chiến 1 ông là biên đội phó 1 biên đội phóng pháo trên mặt trận Pháp-Đức, từng ném bom xuống Karlsruhe, Ludwigshafen.
Đỗ Hữu Vị từng bị rơi 1 lần (sau khi công kích trên đường về bị gió lốc) năm 1915, sau đó KQ không nhận về nữa do bị thương không đủ sức khỏe lái máy bay, ông trở về bộ binh, trung đoàn lê dương 1, cấp đại úy, chỉ huy đại đội 7 trung đoàn này tham chiến tại mặt trận sông Somme, trong cuộc "chiến tranh chiến hào" nổi tiếng của Thế chiến 1. Hy sinh vì trúng nhiều viên đạn trong một trận xung phong ở vị trí dẫn đầu hồi 16h ngày 9 tháng 7 năm 1916. Trên mộ ông người Pháp viết thế này:
Capitaine-aviateur Do-Huu
Mort au Champ d'Honneur
Pour son pays d'Annam
Pour sa patrie, la France.
Cụ Đỗ Hữu Vị (1881-1916) trên máy bay oanh tạc cơ Blériot của mình:
Các cụ phi công oanh tạc cơ, đang tung hoành trên bầu trời, giao rắc nỗi khiếp đảm cho quân Đức tặc.
