Cuộc xung đột quân sự diễn ra từ ngày 12.7 đến 14.8.2006 giữa Israel và  Hezbollah, nhóm kháng chiến Hồi giáo Shiite ở Li-băng, đánh dấu việc lần  đầu tiên trong mấy năm quân đội Israel đã phải đối đầu với một kẻ địch  trang bị tốt trong cuộc đối đầu quy mô lớn.                                                                    
 Các nhà quan sát quân sự đã đặc biệt chú ý tới việc sử dụng tăng-thiết  giáp của Israel và kết quả các trận đánh giữa tăng chủ lực của Israel và  vũ khí chống tăng của Hezbollah. Tổng cộng đã có 4 bộ chỉ huy sư đoàn  và 17 lữ đoàn của lục quân Israel (6 lữ thiết giáp, 7 lữ bộ binh và 4 lữ  không vận) tham chiến, mặc dù không phải tất cả đều được biên chế đủ  quân. 
Trên 30.000 lính Israel và tới 400 tăng chủ lực đã trực tiếp tham chiến  trên đất Li-băng, còn xe tăng toàn bộ là các kiểu Merkava do Israel sản  xuất. 
Trong 6 lữ thiết giáp có 2 lữ (7 và 847) được trang bị Merkava Mk 2, 3  lữ (188, 434 và 673) trang bị Merkava Mk 3, và 1 lữ (401) trang bị tăng  tiên tiến nhất Merkava Mk 4. 
Trong 7 lữ bộ binh có 2 lữ (1 và 609) được trang bị xe bọc thép chở quân  hạng nặng Achzarit được cải hoán từ xe tăng chủ lực T-55 do Liên Xô sản  xuất do Israel thu được của quân đội các nước Arab trong các cuộc chiến  tranh năm 1967 và 1973.
Từ năm 2000, Hezbollah đã biến dải đất giữa biên giới Israel và sông  Litani thành một khu vực phòng thủ kiên cố, vững chắc, được biết đến với  tên gọi Nasser. Trên thực tế, mỗi khu dân cư đều có các công sự tạm  thời hoặc kiên cố (trong đó có các boongke bê tông, cửa sắt,…), một số  lượng lớn đường hầm trong lòng đất và ngụy trang tốt. 
Tuy các chiến binh Hezbollah có sử dụng các công sự, hầm hào, nhưng họ  đã không sa vào chiến thuật trận địa chiến, mà thực hành phương thức vận  động chiến. Các chiến binh được tổ chức thành các toán không quá 20  người (mà thường là chỉ có 5-6 người), thường dựa trên các tổ trang bị  các hệ thống vũ khí chống tăng. 
Đây có vẻ là chiến lược của họ để làm bộc lộ các đơn vị Israel đang tiến  quân, đặc biệt là các đơn vị tăng trước các tên lửa chống tăng có điều  khiển bắn từ cự ly khá xa, thường xuyên thay đổi vị trí bằng cách sử  dụng các mạng lưới đường hầm và boongke.
                           
	
	
		
		
	
	
                               RPG-7 (B-41)                Hezbollah đã triển khai tới 2.500 chiến binh, trong đó có lực lượng nòng  cốt gồm 1.000 lính chính quy được huấn luyện tốt và trang bị theo tiêu  chuẩn cao nhất của phương Tây. Các chiến binh nhiệt huyết, nhà nghề này  được cung cấp đầu đủ vũ khí và tuân thủ nghiêm các mênh lệnh. Không thể  nói Israel đã tác chiến với các đơn vị ‘du kích’ ở nghĩa thông thường  của từ này mà thực tế là với một quân đội chính quy được trang bị và tổ  chức tốt, kể cả khi nó trình diễn một số phương thức tác chiến đặc biệt.
Hezbollah đã có sự chuẩn bị đặc biệt để đối đầu với xe tăng-thiết giáp  Israel bằng một số lượng lớn vũ khí chống tăng, trong đó có hệ thống tên  lửa chống tăng có điều khiển Malyutka (NATO gọi là AT-3) của Liên Xô sử  dụng các tên lửa có điều khiển series 9M14 (kể cả các biến thể do Nam  Tư sản xuất theo giấy phép và các mẫu làm nhái Raad và Raad-2T mang đầu  đạn tandem  của Iran, Fagot (AT-5), Konkurs (AT-5, kể cả biến thể sản  xuất theo giấy phép Towsan-1 của Iran), MILAN của Pháp, TOW của Mỹ  (trong đó có các bản sao chép Toophan Toophan-2 mang đầu đạn tandem của  Iran), pháo không giật và một số biến thể của súng rocket chống tăng  xách tay RPG-7 của Liên Xô. 
Iran và Syria là nguồn cung cấp chính các vũ khí này, còn một số hệ  thống vũ khí phương Tây rõ ràng là lọt vào tay các chiến binh Shiite từ  kho của quân đội Li-băng.
                                        
             
                             Ngoài ra, Hezbollah đã sử dụng một số lượng nhỏ các hệ thống tên lửa  chống tăng mang vác hiện đại 9K115-2 Metis-M (AT-13) và 9K129 Kornet-E  (AT-14), và súng rocket chống tăng RPG-29 Vampir do Nga cung cấp cho  Syria năm 1998-1999. 
3 hệ thống vũ khí mới này đã xuyên phá vỏ giáp cực tốt nhờ đầu đạn chống tăng nổ mạnh (HEAT) của chúng. 
Hệ thống tầm gần Metis-M có tầm bắn đến 1.500 m và được trang bị tên lửa có điều khiển 9M131 nặng 13,8 kg dẫn bằng dây. 
                           
	
	
		
		
	
	
                               Hệ thống tên lửa chống tăng có điều khiển Metis-M                Kornet-E hạng nặng hơn bắn tên lửa dẫn bằng laser 9M133 nặng 29 kg với tầm bắn đến 5.500. 
Cả 2 hệ thống này đều do Viện thiết kế KPB Tula phát triển và được trang bị kính ngắm ảnh nhiệt 1PN86V1 Mulat. 
Súng rocket chống tăng xách tay RPG-29 là một trong những sản phẩm mới  nhất của hãng Bazalt lừng danh ở Moskva. Nặng 11,5 kg, RPG-29 bằn đạn  chống tăng gắn động cơ rocket nặng 6,2 kg với tầm bắn 500 m từ một ống  phóng kiểu ống lồng.
Các đội hình phòng ngự của Hezbollah được tổ chức xung quanh các vũ khí chống tăng vốn được sử dụng số lượng lớn này. 
Theo ước tính của Israel, các chiến binh Hezbollah đã phóng hơn 500 quả  tên lửa chống tăng có điều khiển chỉ riêng trong tháng 7 và khoảng 1.000  quả trong suốt cuộc xung đột. Hơn nữa, các tên lửa chống tăng có điều  khiển đã được sử dụng để chống không chỉ các mục tiêu thiết giáp mà cả  chống bộ binh Israel. Các chiến binh thường sử dụng vũ khí ở tầm xa nhất  có thể.
                           
	
	
		
		
	
	
                               Hệ thống tên lửa chống tăng có điều khiển Konkurs                
Xét tổng thể thì cả quy mô sử dụng các hệ thống vũ khí chống tăng của  Hezbollah lẫn việc họ có các hệ thống hiện đại với khả năng xuyên giáp  vượt trội đã là sự bất ngờ đối với bộ chỉ huy Israel. 
Tuy vậy, các biện pháp giảm tổn thất của xe tăng-thiết giáp đã được áp  dụng ngay từ đầu. Có dấu hiệu cho thấy, trên lãnh thổ Li-băng, quân  Israel chỉ sử dụng các xe bọc thép chở quân có vỏ giáp mạnh sử dụng  khung gầm tăng chủ lực là Achazarit (dùng khung gầm tăng T-55),  Nagmahon, một số mẫu chế thử của xe Nemerah (dùng khung gầm tăng  Merkava), xe chiến đấu công binh Puma và Nakpadon, tất cả đều dùng khung  gầm xe tăng Centurion cũ của Anh, trong khi các xe bọc thép chở quân  tiêu chuẩn M113, thậm chí các xe đã hiện đại hóa với vỏ giáp được tăng  cường rất nhiều hiếm khi được sử dụng và do đó chỉ là xe kỹ thuật, bảo  đảm và hộ tống.
Theo các nguồn tin Israel và phương Tây, trong chiến dịch ở Li-băng, có  46-50 xe tăng chủ lực Merkava (trong số 400 chiếc được triển khai) và 14  xe bọc thép chở quân đã bị vũ khí chống tăng bắn trúng, trong đó có 22  vụ vỏ giáp xe tăng và 5 vụ vỏ giáp xe bọc thép chở quân bị xuyên thủng.
6 xe tăng khác và ít nhất 1 xe bọc thép chở quân đã bị nổ tung do mìn và  thiết bị nổ tự tạo. Trong số những chiếc tăng bị chống đạn chống tăng  này có 18 chiếc là tăng tối tân nhất Merkava Mk 4 (thuộc lữ thiết giáp  401), và 6 xe trong số này có vỏ giáp bị xuyên thủng. 
23 thành viên các kíp xe tăng và 5 thành viên các kíp xe bọc thép chở  quân đã bị chết. Một số lượng lớn tên lửa chống tăng và đạn rocket chống  tăng RPG đã bắn trúng xe tăng, song trong đa số trường hợp chỉ gây hư  hại nhẹ. 
                                        
                             Có tin 1 xe tăng Merkava Mk 4 đã sống sót khi bị trúng 23 quả tên lửa  chống tăng trước khi bị vô hiệu hóa hoàn toàn và vỏ giáp của nó bị xuyên  thủng. 
Tất cả các xe Merkava có vỏ giáp bị xuyên thủng, theo Israel, đều là do  bị bắn bằng các tên lửa chống tăng có điều khiển Konkurs, Metis-M và  Kornet-E, cả rocket chống tăng RPG-29. 
Nếu tính rằng, 22/50 xe tăng có vỏ giáp bị xuyên thủng, tức là tỷ lệ xuyên vỏ giáp là 44% (chỉ 33% đối với Merkava Mk 4). 
Theo thống kê của quân đội Israel, tỷ lệ xuyên thủng vỏ giáp xe tăng  trong cuộc chiến tranh Li-băng 1982 là 47% và 60% trong cuộc chiến tranh  năm 1973. Tỷ lệ thương vong của kíp xe cũng cao hơn nhiều so với năm  2006 ở mức 0,5 thành viên kíp xe trên mỗi xe tăng bị hỏng, trong khi tỷ  lệ này trên 1 xe tăng bị hỏng trong chiến tranh năm 1973 là 1,0 thành  viên kíp xe.
                           
	
	
		
		
	
	
                               Súng rocket chống tăng RPG-29 Vampir                Số lượng xe tăng tổn thất không thể khôi phục trong số xe tăng bị hỏng,  theo các tài liệu Israel đăng tải gần đây là 5 chiếc cả thảy, trong đó  có 2 xe tăng (1 Merkava Mk 2 và 1 Mk 4) bị mìn tự tạo phá hủy và 3 xe  tăng bị cháy hoàn toàn sau khi bị tên lửa chống tăng có điều khiển bắn  trúng. Đó là nhờ khả năng bảo vệ mạnh của các xe tăng hiện đại nhất  Merkava Mk 4, vốn chỉ có thể bị bắn hỏng bằng các vũ khí chống tăng hiện  đại nhất với đầu đạn tandem HEAT mạnh bắn vào các khu vực vỏ giáp yếu.
Tỷ lệ bắn trúng cực thấp của tên lửa và tỷ lệ thấp xuyên thủng vỏ giáp  cho thấy rõ ràng là đại đa số các tên lửa chống tăng có điều khiển là  các kiểu cũ, chắc là loại hoàn toàn lạc hậu Malyutka (và nhiều loại sao  chép của nó), với các hệ dẫn thô sơ (bằng tay, ở các mẫu cũ nhất), không  có kính ngắm hiện đại và với đầu đạn tương đối nhỏ so với tiêu chuẩn  hiện nay.
Dường như các tên lửa chống tăng có điều khiển thế hệ 2 chưa được hiện  đại hóa sản xuất trong thập niên 1970 (Fagot, Konkurs, MILAN, TOW) đã  được sử dụng trong các trận đánh. 
                                                                                                       
	
	
		
		
	
	
                                                                   Hệ thống tên lửa chống tăng có điều khiển Kornet-E                                                                                Các hệ thống Kornet-E và Metis-M với hiệu quả chiến đấu cao hơn nhiều rõ  ràng chỉ có rất ít, song lại gây ra phần lớn các tổn thất cho Israel. 
Điều đó cho phép kết luận rằng, Israel làm ầm ĩ việc Hezbollah sở hữu  các hệ thống mới này đa phần là bởi lý do chính trị hơn là lý do quân sự  giản đơn. 
Mặt khác, nếu Hezbollah mà có số lượng lớn các hệ thống Kornet-E và  Metis-M thì cuộc tấn công bằng xe tăng của Israel đã có thể bị đẩy lùi  hoàn toàn. Các vũ khí hiện đại của Nga chứng tỏ có hiệu quả cao chống  lại trang bị tối tân nhất của phương Tây.
                           
	
	
		
		
	
	
                               Hệ thống tên lửa chống tăng có điều khiển Kornet-E                Các hệ thống tên lửa chống tăng có điều khiển kiểu cũ tự thể hiện là cực  kỳ không hiệu quả. Và do đa số các lực lượng chống tăng trên thế giới  đang được trang bị chính các hệ thống tên lửa thế hệ cũ này, kết quả  cuộc chiến Li-băng mới đây này sẽ rung lên hồi chuông báo động và thúc  đẩy việc mua sắm các hệ thống vũ khí chống tăng hiện đại như Kornet-E. 
Tuy nhiên, từ kinh nghiệm của mình ở Li-băng, Israel đã tự kết luận  rằng, bản thân vỏ giáp về nguyên tắc không thể bảo vệ hoàn toàn chống  các hệ thống tên lửa chống tăng có điều khiển và rằng, tất cả các xe  tăng của họ sẽ phải được trang bị các hệ thống phòng vệ tích cực như  Trophy của hãng Rafael và Iron Fist của hãng IMI.
Họ đã quyết định vào đầu năm 2007 trang bị cho toàn bộ lực lượng tăng  Merkava và xe bọc thép chở quân Nemerah sẽ được chế tạo hệ thống phòng  vệ tích cực Trophy vào cuối năm 2008. Các biện pháp đối phó điện tử thụ  động nay cũng được chú trọng. Rõ ràng là không chiếc nào trong số 4 xe  tăng được trang bị hệ thống đối phó điện tử thử nghiệm bị bắn trúng dù  là 1 quả tên lửa chống tăng có điều khiển.
Tuy vậy, tầm quan trọng của vỏ giáp “thông thường” hạng nặng (trong đó  có các bộ giáp phản ứng nổ) cũng đã được chứng minh trên chiến trường và  Israel đã quyết định tiếp tục sản xuất tăng chủ lực Merkava Mk 4 và bắt  đầu sản xuất loạt xe bọc thép chở quân hạng nặng Nemerah dùng khung gầm  xe tăng này. 200 xe này đã được đặt hàng.
Như vậy, cuộc chiến ở Li-băng đã chứng tỏ rằng, cách tiếp cận của Liên  Xô/Nga đối với việc phát triển khả năng bảo vệ cho tăng chủ lực xác lập  vào thập niên 1970 là rất đúng đắn. Trong thập niên 1980, Liên Xô đã chế  tạo hệ thống phòng vệ hoàn toàn thụ động (Shtora) và tích cực (Drozd,  Arena) đầu tiên và chúng vẫn đang được phát triển. Israel và phương Tây  chỉ đang đuổi theo Nga. 
Trong khi đó, chúng ta có thể thấy rằng, các xe tăng tối tân nhất của  phương Tây (kể cả loại nổi tiếng có vỏ giáp vững chắc là Merkava) cũng  bị nổ tung khi bị vũ khí chống tăng hiện đại bắn trúng giống hệt các xe  tăng lạc hậu T-72 của Liên Xô ở Chechnya và Iraq. 
Nga không đi theo cách của phương Tây khi loại bỏ vỏ giáp hạng nặng và  giáp phản ứng nổ như là “không cần thiết” và tiếp tục phát triển một kết  cấu vỏ giáp cân bằng, bao gồm giáp tháo lắp và giáp lắp liền, và điều  đó đã được chứng minh là đúng đắn. 
Cuộc xung đột ở Li-băng năm 2006 và cuộc chiến tranh ở Iraq một lần nữa  chứng tỏ những luận điệu cho rằng, tăng chủ lực đã lỗi thời là vô lý.  Tăng chủ lực hiện đại với vỏ giáp nặng vững chắc và trọng lượng chiến  đấu lớn sẽ tiếp tục là nòng cốt của lực lượng mặt đất trong một thời  gian nữa. 
Còn về mặt sử dụng chiến thuật bộ đội tăng-giáp, rõ ràng là quân Israel  sử dụng xe tăng của mình thành các nhóm nhỏ hầu như hoàn toàn để chi  viện trực tiếp cho bộ binh. Chính lực lượng bộ binh được trang bị và  huấn luyện tốt đã đóng vai trò quyết định trong trận chiến. Những nỗ lực  sử dụng bộ đội tăng-giáp để đột phá mà không có sự chi viện, yểm trợ  của bộ binh và trinh sát tất yếu dẫn đến những tổn thất vô nghĩa như lực  lượng của lữ thiết giáp 401 của Israel phải hứng chịu tại Vadi Saluki  ngày 9.8.2006. 
Tiểu đoàn tăng của lữ đoàn này khi tiến quân mà không có bộ binh đi cùng  đã lọt vào bẫy của các hệ thống tên lửa chống tăng có điều khiển (đa số  là Kornet-E, theo các nguồn tin Israel), và bị bắn hỏng 11 chiếc tăng  Mk 4 Merkava, 8 thành viên tổ lái bị chết, trong đó có tiểu đoàn trưởng.  Bộ đội tăng-giáp Israel rõ ràng là đã không chuẩn bị tốt để đối phó với  các vũ khí chống tăng hiện đại.
Về phía Israel, cũng rõ ràng là các đơn vị thiết giáp dự bị đã không  chuẩn bị đầy đủ, đặc biệt là về mặt sử dụng các biện pháp đối phó (màn  khói, bắn trước để cản trở việc ngắm bắn, chạy lùi khi rút lui,…). Như  vậy, chất lượng huấn luyện bộ đội tăng-giáp và khả năng của các cấp chỉ  huy kết hợp hiệu quả lực lượng xe tăng và các lực lượng khác vẫn là  những yếu tổ then chốt cho việc sử dụng thành công tăng chủ lực trên  chiến trường.