Thỏ móm Cụ cho hỏi sư cô NH có nói người thường không được góp ý người tu, ni không được góp ý cho tăng có đúng không nhỉ ? Dùng cái này để chặn sự góp ý của Diêu Tút.
Bạn Tuấn Kiệt hình như có nói đã đi tu một thời gian, sư cô nói gì thì bạn ấy cũng nhận cả, và khi phiên Live với sư cô, bạn ấy được Donate 1000 đô và lúc sư cô nổi sân thì bạn ấy dừng luôn cuộc nói chuyện, kiểm soát khá tốt, điểm đến là dừng.
Xin phép Mod cho Thỏ dài dòng chút vì để trả lời câu này thì bắt buộc dính tới chút Tôn giáo.
Như ta đã biết thì toàn bộ Thánh điển của Phật giáo được phân thành Tam Tạng (Tripiṭaka):
1- Tạng Luật (Piṭaka Vinaya)
2- Tạng Kinh (Piṭaka Sutta) và
3- Tạng Luận (Piṭaka Abhidamma).
Luật Tạng là ghi lại những giới luật mà đức Phật chế khi còn tại thế nhằm ngăn chặn những điều bất thiện của hành giả. Kinh Tạng là ghi lại những lời dạy của đức Phật. Luận Tạng là những tác phẩm mà các chư Tổ, các vị luận sư đã trước tác để giải thích những bộ kinh.
Giới và luật thường được xem là giống nhau hoàn toàn nên trong đạo Phật thường gọi chung là giới luật. Nhưng nếu chúng ta tìm hiểu kỹ hơn thì giới và luật đều có những điểm khác nhau. Giới tiếng Pāli là Sila chứa đựng những quy tắc đạo đức chuẩn mực, đồng thời giới là phép tắc mà đức Phật đã chế ra nhằm ngăn chặn những điều bất thiện của thân, khẩu và ý của những người xuất gia và tại gia. Luật tiếng Pāli là Vinaya là những kỷ luật, những phép tắc, những quy cũ trong thiền môn của đời sống Tăng Ni và được ghi lại trong Luật tạng. Ta có thể hình dung và so sánh về Giới luật với thuốc men thì dược tính chính là giới, còn dược liệu chính là Luật. Nghĩa là Giới là những điều răn dạy, Luật chính là những phương pháp để hành giả thực hành những điều răn dạy đó.
Về cuộc nói chuyện giữa Ni cô ( tạm gọi thế vì Thỏ không biết và/hoặc không thể xác nhận đúng hay không) Nhuận Hải và ytber, theo thiển ý cá nhân thì có 2 điều cần làm rõ:
1- Tú có phải Tăng không?
2- Ni cô kia là Sa di ni hay Tỷ kheo ni? Và tu Tiểu thừa hay Đại thừa?
Sở dĩ cần làm rõ vì nếu ni đó là sa di ni thì chỉ phải tuân thủ giới luật ít và dễ hơn Tỷ kheo Ni, tiếp nữa nếu tu Tiểu thừa thì Ni giới luâjt cũng ít hơn Đại thừa ( 311/348).
Quay lại chủ đề, việc ni cô NH nói Ni không được góp ý ( chỗ này chưa hiểu ý cô ta " góp ý" là gì) chư Tăng là chưa đúng. Đây không thuộc 311 hay 348 giời của Ni mà thuộc phần 8 phép cung kính. Thỏ xin trích nguyên văn:
BÁT KÍNH PHÁP
1. Ni cô bao giờ cũng phải lễ bái chư Tăng (dầu cho lớn tuổi thế mấy cũng vậy)
2. Ni cô không được phép trách mắng, rầy rà, nói hành chư Tăng
3. Ni cô không được phép xen vào việc ưng oan của chư Tăng
4. Ni cô tập sự hai năm, nếu muốn vào hàng xuất gia thiệt thọ, phải có Giáo hội chư Tăng chứng nhận
5. Ni cô nếu phạm giới phải sám hối giữa hai Giáo hội nữ và nam
6. Ni cô phải nhở Giáo hội chư Tăng chứng minh đọc giới bổn mỗi kỳ nửa tháng
7. Ni cô không được tựu hội nghĩ mùa mưa ở một xứ không có chư Tăng
8. Ni cô phải nhờ chư Tăng sắp đặt chỗ nơi hành đạo, khi dứt mùa mưa.
Tiếp nữa, ni cô nói người thường không được góp ý ( cũng lại chưa hiểu ý cô ta dùng " góp ý" là gì) thì cũng chưa chính xác.
Thứ nhất, người thường chưa chắc là Phật tử thì họ đâu cần biết ông Tăng hoặc ông Tu nài mà không được góp ý nếu chướng tai gai mắt?
Thứ hai, người thường nhưng không có nghĩa họ không hiểu Giáo lý và không thực hành Giáo lý hàng ngày và càng không có căn cứ để kết luận họ " kém" hoặc " tu không bằng" người tu ( chắc ý ni cô là người tu là cạo trọc,vận " cà sa" như Tú bịp, Phóng ).
Chỉ riêng qua 2 phân tích trên thì nếu ni cô NH là người thực sự tu, nắm vững giới luật thì nên tự sám hối và thực hành lại Tứ Vô Lượng cũng như tập quán chiếu lại Ngũ Độc và tốt nhất học lại Ngũ giới, bài học đầu tiên.