[Funland] Lịch sử Dẫn đường Không quân

Estonque

Xe điện
Biển số
OF-27090
Ngày cấp bằng
7/1/09
Số km
3,122
Động cơ
517,199 Mã lực
Nơi ở
Nhà BVC
Hôm nay em xin góp thêm vào kho tàng kiến thức lịch sử quân sự của OF nhà ta 1 cuốn sách nói về sự hình thành và phát triển của ngành dẫn đường không quân của Không quân Nhân dân Việt Nam ta, rất mong các bác ủng hộ nhiệt tình :D
* * *
Lịch sử dẫn đường Không quân (1959-2004)

Nguồn: cụ Triumf

Chương I

NGÀNH DẪN ĐƯỜNG KHÔNG QUÂN RA ĐỜI

1. HÌNH THÀNH ĐỘI NGŨ VÀ CÁC TỔ CHỨC DẪN ĐƯỜNG


Ngày 9 tháng 3 năm 1949, Ban Nghiên cứu Không quân dược thành lập, mang tên gọi công khai là Nông trường thí nghiệm và đóng quân tại thôn Ngòi Liễn, xã Hữu Lộc, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Thời gian đầu trực thuộc Bộ Quốc phòng, sau đó trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu. Đồng chí Hà Đổng, nguyên là thư ký của Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Tạ Quang Bửu, được giao làm Trưởng ban. Nhiệm vụ chủ yếu của Ban là xây dựng cơ sở ban đầu cho không quân ta, tìm hiểu các loại máy bay của thực dân Pháp đang sử dụng ở Việt Nam và nghiên cứu cách phòng chống, từng bước đào tạo cán bộ không quân, chuẩn bị điều kiện hoạt động khi có thời cơ.

Để thực hiện công tác đào tạo cán bộ, Ban Nghiên cứu Không quân đã tổ chức được một số lớp học. Lớp học hoa tiêu (học dẫn đường trên không) khóa 1 có 29 học viên tham gia với thời gian học là bốn tháng. Lớp học hoa tiêu khóa 2 có 16 học viên với thời gian sáu tháng. Trong khóa 2 còn có các lớp học khí tượng 27 học viên và cơ vụ (kỹ thuật hàng không) 28 học viên cũng với thời gian sáu tháng. Thiếu tướng Hoàng Văn Thái - Tổng tham mưu trưởng đã trực tiếp dự Lễ bế mạc lớp học hoa tiêu khóa 1.

Đến đầu năm 1951, do chưa có điều kiện sử dụng không quân, Bộ Quốc phòng quyết định giải thể Ban Nghiên cứu Không quân. Học viên các lớp hoa tiêu được chuyển sang học pháo cao xạ.

Ngày 10 tháng 10 năm 1954, thủ đô Hà Nội được giải phóng. Quân đội ta tiếp quản sân bay Gia Lâm. Nhu cầu quản lý - điều hành các chuyến bay và chỉ huy các máy bay cất, hạ cánh tại Gia Lâm trở nên rất cấp thiết. Tháng 12 năm 1954, được sự giúp đỡ của Trung Quốc, 70 chuyên gia hàng không của bạn thuộc các chuyên ngành: Điều phái (quản lý - điều hành bay), Thông tin, Khí tượng, Dẫn đường, Cơ vụ... với đầy đủ phương tiện, thiết bị kỹ thuật đã có mặt tại Gia Lâm; mọi khó khăn đều được bạn nhanh chóng giúp ta tháo gỡ.

Căn cứ vào kế hoạch xây dựng quân đội trong điều kiện hòa bình đã được lập lại trên miền Bắc, để tạo cơ sở ban đầu xây dựng không quân, ngày 3 tháng 3 năm 1955, Bộ Quốc phòng ra quyết định thành lập Ban Nghiên cứu sân bay (C-47) trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu, đóng quân tại Gia Lâm. Đồng chí Trần Quý Hai - nguyên Sư đoàn trưởng Sư đoàn 325, được cử làm Trưởng ban. Ban Nghiên cứu sân bay có nhiệm vụ chỉ huy, quản lý các sân bay hiện có, tổ chức chỉ huy các chuyến bay hàng ngày, đồng thời giúp Bộ Tổng Tham mưu nghiên cứu những nội dung về tổ Chức, xây dựng lực lượng không quân phù hợp với nhiệm vụ xây dựng quân đội trong giai đoạn cách mạng mới. Tháng 5 năm 1955, đồng chí Đặng Tính – nguyên Cục trưởng Cục Tác chiến, được bổ nhiệm làm Trưởng ban và tháng 9 năm 1956, đồng chí Hoàng Thế Thiện làm Chính ủy.

Thực hiện chủ trương xây dựng lực lượng không quân, ngày 24 tháng 2 năm 1956, 80 học viên đầu tiên lên đường sang Trung Quốc học tập. Đoàn học máy bay tiêm kích MiG-17, gồm 50 học viên, do đồng chí Phạm Dưng làm Đoàn trưởng và Đoàn học máy bay ném bom Tu-2, gồm 30 học viên, do đồng chí Đào Đình Luyện làm Đoàn trưởng, học tại Trường Không quân số 2 ở Trường Xuân, Trung Quốc (Sau này, do yêu cầu nhiệm vụ, đồng chí Đào Đình Luyện chuyển sang làm Đoàn trưởng Đoàn học máy bay MiG-17, đồng chí Phạm Dưng làm Đoàn trưởng Đoàn học máy bay Tu-2). Trong Đoàn học Tu-2 có sáu học viên dẫn đường trên không (chuyên dẫn đường trên các loại máy bay và trực thăng) đầu tiên là: Đinh Huy Cận, Lê Thế Hưng, Nguyễn Văn Kính, Lê Liên, Lương Nhật Nguyễn và Nguyễn Cảnh Phiên.

Sau khi học Tu-2, các học viên phi công chuyển đến sân bay Tây Giao học lái máy bay vận tải Il-14, Li-2, trực thăng Mi-4 và chuyển đến sân bay Tứ Xuyên học lái máy bay An-2. Các học viên dẫn đường về nước vào cuối năm 1957. Đến năm 1958, bốn học viên dẫn đường trên không là: Lê Thế Hưng, Nguyễn Văn Kính, Lương Nhật Nguyễn và Nguyễn Cảnh Phiên sang Tây Giao học dẫn bay Il-14 và Li-2. Còn đồng chí Lê Liên ở lại trong nước tham gia công tác chuẩn bị thành lập Cục Không quân và đồng chí Đinh Huy Cận học dẫn bay trên cả ba loại Li-2, An-2 và Aero-45 tại Gia Lâm do các giáo viên dẫn đường trên không Trung Quốc dạy.

Tháng 4 năm 1956, 30 học viên đầu tiên được cử sang Liên Xô học máy bay vận tải, do đồng chí Phạm Đình Cường làm Đoàn trưởng. Bạn đào tạo cho ta 2 tổ bay II- 14 và 2 tổ bay An-2, trong đó có bốn học viên dẫn đường trên không là: Hoàng Cần, Hoàng Minh Khôi, Phan Phi Phụng và Phạm Thanh Tâm. Ban đầu, các tổ bay được học cơ bản tại Trường Không quân Ba-la-xốp, sau đó bay đề cao ở sân bay Gre-zi.

Cuối năm 1956, Đoàn học lái máy bay thể thao đầu tiên được cử đi Tiệp Khắc, gồm các học viên: Trần Minh Khuê Hoàng Liên, Nguyễn Ngộ, Trịnh Hồng Thuận, Đinh Tôn, Nguyễn Phong Tùng và Lê Công Uẩn.

Cùng với đội ngũ lái chính, lái phụ (phi công vận tải và trực thăng) , cơ giới trên không, thông tin trên không..., đội ngũ dẫn đường trên không đầu tiên của Không quân nhân dân Việt Nam được hình thành, được đào tạo cơ bản, chính quy tại các nhà trường ở nước ngoài, có khả năng dẫn bay thành thạo trên nhiều loại máy bay và trực thăng khác nhau và luôn sẵn sàng thực hiện các nhiệm vụ được giao.

Gắn liền với công tác đào tạo thành phần bay và đội ngũ kỹ thuật hàng không, đầu năm 1956, Trung Quốc viện trợ cho không quân ta 5 chiếc máy bay, gồm 2 Li-2, 3 Aero-45 và đến giữa năm 1957, thêm 1 chiếc Li-2 nữa. Đây là những chiếc máy bay đầu tiên của Không quân nhân dân Việt Nam dùng để thay thế các máy bay của hàng không Pháp, làm nhiệm vụ phục vụ ủy ban Quốc tế kiểm soát và giám sát việc thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ trên miền Bắc Việt Nam. Tuy nhiên, các chuyến bay của ta trong thời gian đầu đều do các tổ bay của Trung Quốc đảm nhiệm. Năm 1958, Liên Xô viện trợ cho ta 1 chiếc II-14, 2 chiếc Li-2, 1 chiếc An-2 và 1 chiếc Mi-4, trong đó có 1 chiếc II- 14, 1 chiếc Li-2 và 1 chiếc Mi-4 là quà của Chính phủ Liên Xô tặng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Như vậy, tính đến thời điểm này, không quân ta có tất cả 11 chiếc máy bay và trực thăng các loại.

Ngày 10 tháng 9 năm 1958, đoàn học lái máy bay ở Tiệp Khắc về nước và được điều về sân bay Cát Bi bay Aero-45. Tháng 3 năm 1959, hai đoàn học máy bay vận tải ở Trung Quốc và Liên Xô về nước và tiếp tục bay thêm dưới sự giúp đỡ của các giáo viên Trung Quốc. Đây là điều kiện rất thuận lợi để đội ngũ dẫn đường trên không của ta từng bước tiếp cận với các nhiệm vụ bay khác nhau của không quân ta và thực hiện dẫn bay từ đơn giản đến phức tạp ngay trên bầu trời của Tổ quốc.

Với ý chí quyết tâm cao và cần mẫn trong học tập, đến quý III năm 1958, nhiều tổ bay của ta đã nhanh chóng được chuyên gia bạn cho bay đơn (độc lập công tác). Tổ bay Aero-45: lái chính Đinh Tôn-dẫn đường trên không Đinh Huy Cận, đã đưa đại diện phái đoàn quân sự và ngoại giao của ta đi công tác đặc biệt từ Gia Lâm vào Vinh. Chuyến bay này đã mở ra một trang mới về khả năng độc lập đảm nhiệm cả lái và dẫn đường của lực lượng Không quân vận tải Việt Nam trong thực hiện các nhiệm vụ bay.

Tiếp sau đó, các tổ bay vận tải của ta đã hoàn toàn đảm nhiệm các chuyến bay thường xuyên hàng tuần, phục vụ ủy ban Quốc tế kiểm soát và giám sát việc thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ trên miền Bắc Việt Nam, trên các tuyến bay cố định: Hà Nội-vinh-đồng Hớt và chở khách trên tuyến Hà Nội-Nà Sản-Điện Biên.

Đội ngũ dẫn đường trên không của ta không những thường xuyên hoàn thành tốt công tác độc lập dẫn bay, mà còn tiếp tục nỗ lực phấn đấu một người có thể độc lập thực hiện dẫn bay trên nhiều loại máy bay và trực thăng khác nhau. "ít mà tinh" đã trở thành truyền thống tốt đẹp trong xây dựng đội ngũ của ngành Dẫn đường Không quân sau này.

Ngày 24 tháng 1 năm 1959, Bộ Quốc phòng ra nghị định thành lập Cục Không quân trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu trên cơ sở hợp nhất các tổ chức và lực lượng của Ban Nghiên cứu sân bay và Cục Hàng không dân dụng Việt Nam. Cục Không quân có nhiệm vụ giúp Bộ Quốc phòng nghiên cứu chủ trương và kế hoạch tổ chức, xây dựng lực lượng không quân và các căn cứ không quân; xây dựng, chỉ huy các đơn vị mặt đất và trên không; đào tạo bồi dưỡng cán bộ, nhân viên kỹ thuật; bảo quản, tu bổ các sân bay hiện có và chỉ đạo Câu lạc bộ hàng không đào tạo lực lượng hậu bị cho không quân. Đại tá Đặng Tính được bổ nhiệm làm Cục trưởng, thượng tá Hoàng Thế Thiện làm Chính ủy, trung tá Hoàng Ngọc Diêu làm Tham mưu trưởng. Trong Phòng Kế hoạch (sau này là Phòng Tham mưu) của cơ quan Cục Không quân có Ban Dẫn đường. Đồng chí Lê Liên được bổ nhiệm làm Trưởng ban. Đây là tổ Chức dẫn đường trên không đầu tiên của Không quân nhân dân Việt Nam.

Ngày 22 tháng 4 năm 1959, Cục Không quân ra quyết định thành lập Đại đội bay (Quyết định số 049/KQ, ngày 22 tháng 4 năm 1959, Cục trưởng Cục Không quân Đặng Tính ký. Hồ sơ 17, phông 01, lưu trữ Quân chủng Phòng không-không quân.) gồm: Ban chỉ huy đại đội, 3 Chủ nhiệm Dẫn đường, Thông tin và Máy (kỹ thuật hàng không); 1 trung đội bay Il-14, 1 trung đội bay Li-2, 1 trung đội bay An-2 và 1 trung đội máy gồm tất cả nhân viên kỹ thuật trên không (cơ giới) và mặt đất của các loại máy bay. Đại đội này trực tiếp đặt dưới quyền chỉ huy về mọi mặt của Ban chỉ huy Trung đoàn không quân vận tải Gia Lâm. Đồng chí Lương Nhật Nguyễn được bổ nhiệm làm Chủ nhiệm Dẫn đường đầu tiên của đại đội.

Ngày 1 tháng 5 năm 1959, sau lễ ra mắt của lực lượng Không quân vận tải Việt Nam tại sân bay Gia Lâm, hai tổ bay Il-14 và Li-2 của ta đã thực hiện 4 chuyến bay chở các vị lãnh đạo cao cấp và quan khách đi thăm quan trên vùng trời Hà Nội. Riêng tổ bay II- 14: lái chính Hoàng Ngọc Trung và dẫn đường trên không Hoàng Cần còn thực hiện một chuyến biểu diễn bay bằng một động cơ thông qua đường băng Gia Lâm ở độ cao thấp.

Ngày 20 tháng 8 năm 1959, Bộ Quốc phòng ra nghị định (Nghị định số 427/NĐ, Thứ trưởng BỘ Quốc phòng Nguyễn Vãn Vịnh ký. Hồ sơ số 17, phông 01, lưu trữ Quân chủng Phòng không-không quân) thành lập Trung đoàn không quân vận tải 919 và Trường Huấn luyện hàng không (Trường Hàng không, Trung đoàn không quân 910). Trong cơ cấu tổ chức của trung đoàn và nhà trường đều có hệ thống Chủ nhiệm Dẫn đường.

Cuối năm 1961, Tiểu đoàn không quân trực thăng 94 được thành lập trực thuộc Trường Hàng không, đóng quân tại sân bay Cát Bi. Với 5 chiếc Mi-4 và 5 chiếc Mi-1, tiểu đoàn vừa làm nhiệm vụ huấn luyện bay và vừa làm nhiệm vụ vận tải, chỉ thị mục tiêu, hiệu chỉnh điểm nổ cho pháo binh... Đồng chí Thạch Quang Nhung được bổ nhiệm làm Tham mưu trưởng tiểu đoàn, đồng chí Hoàng Cần giữ chức Chủ nhiệm Dẫn đường tiểu đoàn. Năm 1962, Tiểu đoàn 94 tách khỏi Trường Hàng không.

Như vậy, Ban Dẫn đường Cục Không quân và hệ thống Chủ nhiệm Dẫn đường trong Trung đoàn 919 và Trường Hàng không chính là những tổ chức tiền thân của ngành Dẫn đường Không quân.


*
* *

 

Estonque

Xe điện
Biển số
OF-27090
Ngày cấp bằng
7/1/09
Số km
3,122
Động cơ
517,199 Mã lực
Nơi ở
Nhà BVC
Về đội ngũ dẫn đường sở chỉ huy (chuyên dẫn đường tại các sở chỉ huy, đài ra-đa... Ở mặt đất), để đáp ứng yêu cầu dẫn máy bay tiêm kích, ngày 1 tháng 5 năm 1960, sáu cán bộ đã làm công tác điều phái (quản lý-điều hành bay) và một chiến sĩ được triệu tập về Trường Văn hóa quân đội ở Lạng Sơn để ôn văn hóa và học tiếng Trung Quốc. Tháng 9 năm 1960, đoàn lên đường sang Trường Hàng không cao cấp Nam Uyển ở Bắc Kinh (Trung Quốc). Sáu học viên được đào tạo dẫn đường sở chỉ huy với thời gian 13 tháng, gồm: .Nguyễn Văn Chuyên, Trần Quang Kính, Bùi Quang Liên, Đào Ngọc Ngư, Trần Hán Thức và Trần Kim Tuấn. Một học viên được đào tạo tiêu đồ gần (đánh dấu đường bay trên bàn dẫn đường tại sở chỉ huy) là Lê Thành Chơn với thời gian sáu tháng. Đây là khóa đào tạo dẫn đường sở chỉ huy và tiêu đồ gần đầu tiên cho Không quân nhân dân Việt Nam tại Trung Quốc.

Đồng chí Lê Thành Chơn, sau khi đi thực tập tại Sư đoàn Không quân số 5 ở sân bay Hàng Châu, tỉnh Triết Giang (Trung Quốc), về nước tháng 6 năm 1961. Còn sáu học viên dẫn đường tốt nghiệp và về nước vào tháng 10 năm 1961. Sau này, hai đồng chí Trần Hán Thức và Trần Kim Tuấn được điều quay trở lại làm công tác điều phái.

Đầu năm 1962, đồng chí Bùi Quang Liên được cử sang sân bay Cao Mật, tỉnh Sơn Đông (Trung Quốc) tham gia huấn luyện dẫn đường cùng với đoàn học viên bay tiêm kích thứ nhất của Không quân nhân dân Việt Nam đang chuyển loại MIG-17.

Tháng 9 năm 1962, Cục Không quân cử Đoàn cán bộ, gồm đủ các thành phần: chỉ huy, tác chiến, quân báo, dẫn đường, thông tin, trạm trưởng, đài trưởng và trắc thủ ra-đa do đại úy Nguyễn Hào Hiệp làm Đoàn trưởng, thượng úy Lê Văn Nhã làm Phó Đoàn trưởng sang học tập thực tế tại Sư đoàn không quân số 7 anh hùng ở sân bay Dương Thôn, tỉnh Thiên Tân (Trung Quốc). Trong đoàn có bốn sĩ quan dẫn đường sở chỉ huy là: Phạm Minh Cậy, Nguyễn Văn Chuyên, Trần Quang Kính và Đào Ngọc Ngư.

Sau sáu tháng học tập, ta chủ động đề nghị và bạn đã đồng ý cho dẫn đường của không quân ta được phép tham gia dẫn thực binh. Đồng chí Trần Quang Kính dẫn trên bàn dẫn đường (còn gọi là bàn tiêu đồ, bàn tròn...) tại sở chỉ huy và đóng chí Đào Ngọc Ngư dẫn trên hiện sóng (màn hình, hiện hình...) tại đài ra-đa dẫn đường. Do chuẩn bị tỉ mỉ, hiệp đồng chặt chẽ và thực hiện dẫn chính xác phi công đánh chặn của bạn đã nhanh chóng phát hiện mục tiêu. Cuộc dẫn thực binh đầu tiên và cũng là duy nhất trên đất Trung Quốc đã thành công. Kíp dẫn đường sở chỉ huy Trần Quang Kính - Đào Ngọc Ngư đã được bạn khen ngợi và đánh giá tốt.

Đội ngũ dẫn đường sở chỉ huy đầu tiên của Không quân nhân dân Việt Nam.được hình thành và cũng được đào tạo cơ bản, chính quy ở nước ngoài, tuy số lượng ít và chưa có điều kiện bước vào làm nhiệm vụ như đội ngũ dẫn đường trên không vì lực lượng không quân tiêm kích của ta còn chưa về nước, nhưng cũng luôn sẵn sàng nhận nhiệm vụ.

II. ĐỘI NGŨ DẪN ĐƯỜNG TRÊN KHÔNG BƯỚC VÀO LÀM NHIỆM VỤ

Để chi viện cho miền Nam, ngày 6 tháng 5 năm 1959, Tổng Quân ủy triệu tập hội nghị liên tịch bàn kế hoạch xây dựng tuyến đường vận chuyển Bắc Nam và quyết định cuối tháng 7 năm 1959 phải đưa đoạn đường ô tô từ Đường 1 (nam Quảng Bình) lên Vít Thù Lù (tây-tây nam Lệ Thủy 23km) vào hoạt động. Nhưng trong tháng 7, một trận lũ lớn phá hỏng hầu hết nền đường, cầu cống của đoạn đường huyết mạch này.

Trung đoàn không quân 919 được Bộ Tổng Tham mưu giao nhiệm vụ khẩn cấp thả hàng tiếp tế cho đồng bào và bộ đội mở đường chiến lược Trường Sơn tại khu vực Vít Thù Lù. Bãi thả hàng tại Vít Thù Lù rất nhỏ, bốn bề là núi cao bao bọc. Trung đoàn 919 dùng IL-14 thả thử chuyến hàng không dù đầu tiên ở độ cao 800m, nhưng do hướng gió và tốc độ gió trong thung lũng thay đổi đột ngột, nên các kiện hàng đều rơi tản mạn, không vào được bãi. Trung đoàn quyết định chuyển ngay sang sử dụng An-2. Ngày 15 tháng 9 năm 1959, 3 tổ bay và 2 máy bay cơ động vào Đồng Hới. Trong tổ bay thứ nhất: lái chính Lê Văn Quyền, lái chính Nguyên Xuân Lịch ngồi ghế lái phụ, dẫn đường trên không Đinh Huy Cận; tổ bay thứ hai: lái chính Lê Năng, dẫn đường trên không Lê Thế Hưng và tổ bay thứ ba: lái chính Nguyễn Xuân Tình, dẫn đường trên không Phạm Thanh Tâm.

Lái chính Phan Như Cẩn chịu trách nhiệm chung, sẵn sàng thay thế các lái chính khác khi cần thiết và bay thử chuyến đầu tiên vào ngày 16 tháng 9 năm 1959. Phương án dẫn bay được đưa ra là: trên hướng tiến nhập vào bãi, qua đỉnh núi thấp nhất, có độ cao 500m, thu hết tay ga, rồi giảm thật nhanh độ cao xuống 100m (thấp nhất không dưới 50m), đến đúng cự ly dự tính, các kiện hàng sẽ được đẩy xuống. Phải bay từ ba đến bốn vòng mới có thể thả hết hàng, vừa tốn thời gian và nhiên liệu, lại rất nguy hiểm và dễ gây tai nạn. Nhờ có sáng kiến cải tiến kỹ thuật, thiết kế thành công giá thả hàng, không cần người đẩy chỉ cần rút chốt là các kiện hàng sẽ thả hết một cách nhanh chóng. Sau hai tuần bay liên tục, 60 tấn hàng gồm các dụng cụ, phương tiện máy móc, lương thực, kể cả thực phẩm tươi sống và rau xanh đã được thả chính xác xuống bãi Vít Thù Lù. Các đơn vị mở đường Trường Sơn nhận được sự chi viện kịp thời, phấn khởi, hăng hái, tiếp tục mở đường chi viện cho tiền tuyến lớn. Trong chiến dịch này, dẫn đường trên không đã hiệp đồng chặt chẽ với các thành phần trong tổ bay, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Đội bay An-2 được Chủ tịch Hồ Chí Minh ký lệnh tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Ba.

Cuối năm 1959, trong chiến dịch tiễu phỉ ở vùng biên giới Tây Bắc, dẫn đường trên không đã dẫn bay An-2 trinh sát bằng mắt, phát hiện sào huyệt quân phỉ, thả truyền đơn và gọi loa kêu gọi những kẻ lầm đường lạc lối ra hàng. Các tổ bay hoàn thành tốt nhiệm vụ, mang lại cuộc sống bình yên cho nhân dân vùng cao biên giới của Tổ quốc.​
Những tháng cuối năm 1960, tình hình Lào có nhiều diễn biến phức tạp. Theo yêu cầu của Mặt trận Lào yêu nước, một bộ phận quân tình nguyện Việt Nam được cử sang phối hợp chiến đấu với quân và dân nước bạn. Trung đoàn không quân 919 được giao nhiệm vụ hiệp đồng chặt chẽ với Lữ đoàn không quân vận tải hỗn hợp của Liên Xô và các đơn vị trong lực lượng vũ trang của bạn và quân tình nguyện Việt Nam, sử dụng các loại máy bay vận tải và trực thăng, thực hiện vận chuyển bộ đội, súng đạn, lương thực, thực phẩm lên tuyến trước, đón thương binh về tuyến sau và sẵn sàng làm các nhiệm vụ khác được giao.

Để tiến hành nhiệm vụ trên, cầu hàng không Liên Xô - Việt Nam - Lào được thiết lập. Tháng 10 năm 1960, các tổ bay giàu kinh nghiệm, cùng với 14 chiếc Il-14, 20 chiếc Li-2, 10 trực thăng Mi-1 và Mi-4 của Lữ đoàn không quân vận tải hỗn hợp của Liên Xô đến Việt Nam (sau khi hoàn thành nhiệm vụ, Liên Xô đã bàn giao toàn bộ số máy bay và trực thăng này cho Không quân ta). Ngay sau đó, công tác huấn luyện bay bổ sung lập tức được triển khai. Tại Cát Bi, chuyên gia Liên Xô giúp đỡ các tổ bay Li-2 và Mi-4 của ta, còn tại Chũ (sau đó chuyển sang Kép), chuyên gia Trung Quốc đảm nhiệm những tổ bay Li-2 khác của ta. Đầu tháng 12 năm 1960, toàn bộ lực lượng không quân vận tải Liên Xô và Việt Nam tham gia chiến dịch vận chuyển đường không lớn nhất khu vực Đông Nam Á lúc đó vào vị trí sẵn sàng cất cánh.

Ngày 11 tháng 12 năm 1960, tổ bay Li-2: lái chính Nguyễn Đức Hiền, lái chính Nguyễn Doạt ngồi ghế lái phụ, dẫn đường trên không Hoàng Cần thực hiện thành công chuyến bay mở đường đầu tiên, hạ cánh an toàn xuống sân bay Sầm Nưa đầy nguy hiểm. Ngay ngày hôm sau, đội ngũ dẫn đường trên không trong các tổ bay Li-2 của Liên Xô và Việt Nam đã thực hiện dẫn liên tiếp các chuyến bay vận chuyển từ Gia Lâm lên Điện Biên và từ đây đội ngũ dẫn đường trên không trong các tổ bay Li-2 và An-2 chịu trách nhiệm dẫn bay vận chuyển sang Sầm Nưa. Với 184 chuyến bay an toàn, nhiệm vụ vận chuyển đường không đưa Sư đoàn bộ binh 316, quân tình nguyện Việt Nam sang Thượng Lào tham gia chiến đấu và vận chuyển súng đạn, lương thực, thực phẩm đã được hoàn thành đúng thời hạn quy định. Cũng trong thời gian trên, dẫn đường trên không trong các tổ bay Il-14 và An-2 đã hoàn thành tốt nhiệm vụ thả dù hàng và thả hàng không dù xuống các khu vực Buôn Hồng, Văng Viêng, Mường Pồn, Sa La Phu Khan...

Sau khi nhận được tin một đơn vị quân tình nguyện Việt Nam đang hoạt động ở phía tây Sầm Nưa bị mất liên lạc với Bộ chỉ huy mặt trận, cấp trên quyết định sử dụng An-2 thả một tổ trinh sát xuống sân bay Hứa Mường (tây Sầm Nưa 30km) để nối lại liên lạc. Tổ bay An-2: lái chính Phan Như Cẩn, lái chính Nguyễn Xuân Tình ngồi ghế lái phụ, dẫn đường trên không Hoàng Cần đã kịp thời thực hiện thành công chuyến bay thả dù người đầu tiên trong điều kiện thời tiết không thuận lợi, trên địa hình rừng núi phức tạp, nhưng đúng địa điểm quy định và an toàn.​
Ngày 15 tháng 12 năm 1960, Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trực tiếp giao nhiệm vụ cho Cục trưởng Cục Không quân và tổ bay Mi-4 đi đón khách đặc biệt ở Sen Sủn, cách Văng Viêng 25km, giáp biên giới Lào - Thái về Hà Nội. Trung đoàn không quân 919 điều ngay 1 Il-14 sang Sầm Nưa, mang theo xăng dầu để bảo đảm cho Mi-4, còn tổ bay Mi-4: lái chính Phạm Đình Cường-lái chính Hoàng Trọng Khai ngồi ghế lái phụ-dẫn đường trên không Lương Nhật Nguyễn-cơ giới trên không Lê Văn Lạo sẵn sàng chờ lệnh.

Do thời tiết xấu, 11 giờ 30 phút ngày 16 tháng 12 năm 1960, Mi-4 mới cất cánh từ Gia Lâm và đến Sầm Nưa lúc 14 giờ 30 phút. Sau khi kiểm tra và nạp dầu, Mi-4 bay tiếp theo kế hoạch. Do gió trên cao thay đổi, lại gặp trời mù trong thời gian dài, dẫn đường trên không không phát hiện được sai lệch, nên đã bị lạc đường và tổ bay phải hạ cánh bắt buộc xuống một vùng đất lạ. Trong tình huống hết sức khó khăn, tổ bay đã quyết định thiêu hủy trực thăng và tổ chức thành một đơn vị chiến đấu, tìm đường trở về.

Sau khi mất liên lạc với Mi-4, Cục Không quân quyết định sử dụng An-2 tiếp tục làm nhiệm vụ. Ngày 21 tháng 12 năm 1960, tổ bay An-2: lái chính Phan Như Cẩn-dẫn đường trên không Hoàng Cần-cơ giới trên không Trần Văn Nam-thông tin trên không Hồ A cất cánh. Tại điểm cuối của đường bay, tổ bay phải vòng đi vòng lại nhiều lần mới xác định được điểm hạ cánh và đón được khách đặc biệt, trong đó có ngài Ki-nim Phôn-sê-na (sau này là Bộ trưởng Ngoại giao trong chính phủ hòa hợp dân tộc ba phái do hoàng thân Xu-pha-na Phu-ma làm Thủ tướng) và đồng chí Chu Huy Mân - Đoàn trưởng Đoàn chuyên gia quân sự Việt Nam tại Lào. Tổ bay An-2 trở về Gia Lâm an toàn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

Sau 17 ngày đêm, tổ bay Mi-4 tuy không hoàn thành nhiệm vụ bay đón khách nhưng đã trở về đơn vị, mặc dù bị kẻ địch truy lùng và một người trong đoàn đã anh dũng hy sinh. Sau này, cả hai tổ bay An-2 và Mi-4 được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Ba, được Đại tướng Võ Nguyên Giáp tặng hoa và chụp ảnh lưu niệm.

Đến ngày 1 tháng 1 năm 1961, lực lượng vũ trang cách mạng Lào và quân tình nguyện Việt Nam nhanh chóng phát triển tiến công, lần lượt giải phóng Noọng Hét, thị xã Phong Xa Lỳ, Nậm Bạc, Bản Ban, Văng Viêng, Mường Hiềm, Pa Thí và làm chủ sân bay Cánh Đồng Chum. Tại đây ta thu được 1 chiếc C-47 còn nguyên vẹn. Sau một thời gian ngắn nghiên cứu và huấn luyện chuyển loại, ta đã đưa chiếc C-47 này vào sử dụng.

Quý I năm 1961, theo sự thỏa thuận giữa hai nước Lào - Việt, một bộ phận quân tình nguyện Việt Nam tiếp tục sang tham gia chiến dịch tiến công địch ở khu vực Đường 9-Nam Lào. Đội ngũ dẫn đường trên không cùng các tổ bay Il-14, Li-2, An-2 và Mi-4 lại lên đường phục vụ chiến dịch và tham gia lập chân hàng cho Đoàn 559 để chuyển tiếp vào miền Nam. Nhiệm vụ lần này rất khẩn trương, khu vực hoạt động cách xa căn cứ, địa hình phức tạp, thời tiết thay đổi thất thường, hỏa lực phòng không của địch có thể uy hiếp là những khó khăn mới, đòi hỏi đội ngũ dẫn đường trên không phải thận trọng tính toán, linh hoạt đối phó trong quá trình dẫn bay.​
Cuối tháng 4 năm 1961, liên quân Lào - Việt đập tan tuyến phòng thủ của địch trên đường 9, giải phóng một địa bàn chiến lược rộng lớn ở Nam Lào, trong đó có 2 thị trấn quan trọng là Mường Phìn và Sê Pôn. Sân bay Sê Pôn được gấp rút sửa chữa. Các tổ bay của Trung đoàn 919 khẩn trương thực hiện vận chuyển trường không đến Sê Pôn, đồng thời thả dù hàng xuống Mường Phìn. Hàng chục tấn vũ khí bộ binh, súng cối, ĐKZ, sơn pháo 75mm, máy thong tin và nhiều mặt hàng quan trọng khác, đặc biệt có cả các thiết bị của Đài Phát thanh Giải phóng đã được không quân ta chuyển đến đúng vị trí. Bộ đội vận tải Đoàn 559 tiếp nhận hàng và vận chuyển bằng đường bộ vào chiến trường miền Nam.

Tháng 5 năm 1961, tổ bay Mi-4: lái chính Trần Ngọc Bích, dẫn đường trên không Đinh Huy Cận làm nhiệm vụ đón thương binh từ Mường Ngát về nước. Chuyến bay thứ nhất, tuy bị hỏa lực bộ binh địch uy hiếp, nhưng tổ bay đã kịp thời đối phó và đưa thương binh về Vinh an toàn. Đến chuyến hai, do thời tiết diễn biến bất thường, gặp gió xoáy trực thăng bị tụt độ cao, quyệt vào ngọn cây và rơi xuống, nhưng thương binh và tổ bay an toàn.

Ngày 3 tháng 5 năm 1961, chiến dịch ở khu vực Đường 9 - Nam Lào kết thúc thắng lợi. Bộ đội tình nguyện Việt Nam, trong đó có các tổ bay vận tải và trực thăng tham gia đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của chiến dịch, góp phần thắt chặt tình đoàn kết hữu nghị keo sơn giữa nhân dân và cách mạng hai nước Việt - Lào.

Như vậy, trong vòng 1 năm (từ cuối năm 1960 đến cuối năm 1961) qua hai chiến dịch đội ngũ dẫn đường trên không đã góp sức cho Trung đoàn không quân 919 hoàn thành 2.752 chuyến bay với 5.000 giờ bay an toàn, vận chuyển được 427 tấn hàng, đổ bộ 7.762 lượt quân tình nguyện hạ cánh xuống 10 sân bay, thả 3.227 chiếc dù hàng và kiện hàng không dù xuống 20 điểm khác nhau trong vùng mới giải phóng của nước bạn Lào.

Đến giữa tháng 3 năm 1962, việc đàm phán chính trị giữa các phái ở Lào phải đình lại do thái độ thiếu thiện chí của các phe nhóm *********. Việc thành lập chính phủ liên hiệp không thực hiện được. Theo đề nghị của bạn, ngày 7 tháng 4 năm 1962, Bộ Tổng Tham​
mưu quyết định thành lập Bộ Chỉ huy chiến dịch Nậm Thà, quyết tâm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, giải phóng khu vực Nậm Thà - Mường Sinh, phá vỡ thế uy hiếp của địch ở Thượng Lào, tạo điều kiện thuận lợi mở thông biên giới Lào - Trung.

 

Estonque

Xe điện
Biển số
OF-27090
Ngày cấp bằng
7/1/09
Số km
3,122
Động cơ
517,199 Mã lực
Nơi ở
Nhà BVC
Ngoài việc tổ chức tuyến vận tải đường bộ từ Tây Bắc sang, Bộ Tổng Tham mưu chủ trương tổ chức một đợt vận chuyển đường không tập trung cho chiến dịch, lấy Gia Lâm là căn cứ tập kết tuyến sau và Điện Biên là điểm tập kết tuyến trước. Lực lượng Il-14 vận chuyển từ Gia Lâm lên Điện Biên, Li-2 từ Điện Biên sang Mường Sài, còn An-2 từ Điện Biên và Mường Sài đến các sân bay tiền duyên là: Mường Hai, Buôn Nưa, Nậm Thà, Mường Sinh. Mi-4 trực tại Mường Sài phục vụ Bộ Chỉ huy chiến dịch, đồng thời làm nhiệm vụ trinh sát, đón thương binh và chỉ thị mục tiêu cho pháo binh.

Hai tổ bay An-2 tham gia chiến dịch này gồm: lái chính Lê Năng và dẫn đường trên không Lê Thế Hưng, lái chính Nguyễn Xuân Tình và dẫn đường trên không Phạm Thanh Tâm. Dẫn đường trên không Đinh Huy Cận sẵn sàng thay thế trong mọi trường hợp.

Ngày 3 tháng 5 năm 1962, chiến dịch bắt đầu. Chỉ trong một ngày, dẫn đường trên không đã cùng với các thành phần trong tổ bay Li-2 và An-2 thực hiện hàng chục chuyến bay đổ bộ đường không đưa 2 tiểu đoàn bộ binh từ Điện Biên, Nà Sản sang Mường Sài và thả dù hàng xuống Na Mo, Ta Gá kịp thời bảo đảm súng đạn, lương thực, thực phẩm cho các đơn vị quân tình nguyện Việt Nam và bộ đội Pa-thét Lào phát triển tiến công.

Trong thời gian chiến dịch, tổ bay Mi-4: lái chính Hoàng Trọng Khai-lái chính Nguyễn Ngọc Bích ngồi ghế lái phụ-dẫn đường trên không Hoàng Cần-cơ giới trên không Trương Quân Tạo ở Mường Sài, đã thực hiện 120 chuyến bay, đón hàng trăm thương binh về tuyến sau, vận chuyển súng đạn, lương thực, thực phẩm lên tuyến trước và chỉ thị mục tiêu cho pháo binh.

Ngày 12 tháng 5 năm 1962, chiến dịch Nậm Thà kết thúc. Quân dân Lào-việt đã loại khỏi vòng chiến đấu 1.791 tên địch, giải phóng 8.000km2 đất và 7,6 vạn dân, giành thêm được một địa bàn chiến lược vô cùng quan trọng.

Tại Hội nghị tổng kết chiến dịch Nậm Thà, Thượng tướng Văn Tiến Dũng - Tổng tham mưu trưởng đã chuyển lời khen của Trung ương ****, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng đến các đơn vị quân tình nguyện Việt Nam. Đồng chí nói: "Không quân vận tải của quân đội ta tuy mới ra đời, lực lượng còn non trẻ nhưng rất mưu trí, dũng cảm, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ phục vụ chiến trường, góp phần quan trọng tạo nên thắng lợi chung của chiến dịch" (Lịch sử Không quân nhân dân Việt Nam 1955-1977, Nxb Quân đội nhân dân; Hà Nội.1993, tr.65, 66) .

Một trong những nhiệm vụ quan trọng của Trung đoàn không quân 919 là thực hiện bay chuyên cơ phục vụ đưa đón Bác Hồ và các vị lãnh đạo ****, Quốc hội và Chính phủ đi công tác. Với nhiệm vụ dẫn bay chuyên cơ, đội ngũ dẫn đường trên không đã thể hiện tinh thần trách nhiệm cao, đặc biệt là khi được cấp trên cho phép tự đảm nhiệm dẫn bay từng chuyến. Ngay từ cuối năm 1959, hai tổ bay, trong đó có lái chính Nguyễn ái Đồng và dẫn đường trên không Hoàng Cần, lái chính Nguyễn Khắc Nhâm và dẫn đường trên không Nguyễn Cảnh Phiên được cử sang sân bay quốc tế Đông Giao (Trung Quốc) học tập. Sau một thời gian ngắn, cả hai tổ bay của ta đều được phép bay trên các tuyến nội địa của bạn và tuyến quốc tế Bắc Kinh - Hà Nội.

Tháng 2 năm 1960, tổ bay Li-2: lái chính Nguyễn Đức Hiền lái chính Trần Liêm Khê ngồi ghế lái phụ-dẫn đường trên không Lương Nhật Nguyễn-cơ giới trên không Phạm Ngột-thông tin trên không Trần Văn Đông đón Bác đi thăm Lạng Sơn về Hà Nội, Bác đã ghé thăm cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 919. Bác căn dặn: "Yêu cầu bay của đất nước rất cao, còn ta mới thành lập, lực lượng và cơ sở vật chất còn non trẻ, lãnh đạo cần quan tâm đến đời sông của anh em".

Trong một lần khác, tổ bay Mi-4: lái chính và cơ giới của Liên Xô, dẫn đường trên không Hoàng Cần đưa Bác đi thăm Móng Cái. Khi về Gia Lâm, Bác đã tới thăm và nói chuyện với hội nghị mừng công của Cục Không quân. Bác khen ngợi tinh thần quyết tâm bảo đảm an toàn tuyệt đối cho các chuyến bay, tinh thần học tập, rèn luyện làm chủ khoa học kỹ thuật, phương tiện hiện đại của các cán bộ, chiến sĩ không quân. Đồng thời, Bác căn dặn cán bộ chiến sĩ phải luôn luôn khiêm tốn, không tự mãn. Đất nước ta còn nghèo, trang bị máy móc, xăng dầu còn thiếu, vì thế phải biết giữ gìn thật tốt và tiết kiệm. Đó chính là lòng yêu nước, thương dân. Bác căn dặn cán bộ lãnh đạo, chỉ huy cần quan tâm đến các chiến sĩ' lái máy bay, vì họ là những người lao động đặc biệt nặng nhọc. Họ không phải chỉ cầm súng, cầm lái, đấu tranh với địch, với thiên nhiên và kỹ thuật, mà còn phải làm công việc đó trên trời cao, đòi hỏi tiêu hao nhiều sinh lực. Muốn lái máy bay tốt, an toàn, phải có máy móc tốt, nghĩa là các chiến sĩ thợ máy phải làm việc giỏi, lại phải có chỉ huy tài, vạch đường chỉ hướng đúng đắn, có người báo tin tức, thông báo thời tiết chính xác, lại phải có sân bay sạch sẽ, đường băng quang quẻ, vững chắc... Vậy là tất cả các Cô Các Chú phải biết đoàn kết, thương yêu nhau, cùng nhau đồng lòng, góp sức làm tốt mọi nhiệm vụ.

Tháng 10 năm 1961, trong lần thứ hai Bác về thăm quê, tổ bay IL-14 chở Bác từ Gia Lâm vào vinh. Còn tổ bay Mi-4: lái chính và cơ giới trên không của Liên Xô, dẫn đường trên không Hoàng Cần, đang trực tại Cánh Đồng Chum phục vụ hội nghị "Ba ông Hoàng”, được lệnh về Vinh làm nhiệm vụ chuyên cơ. Sau khi về thăm quê bằng ô tô, tổ bay Mi-4 đã đưa Bác từ Vinh đi thăm Nông trường Tây Hiếu (Nghệ An), thăm tỉnh Thanh Hóa và hợp tác xã Yên Thành (Thanh Hóa).

Đầu năm 1960, những cánh rừng thông ở hai tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An đang xanh tươi, đột nhiên bị nạn sâu ăn trụi lá. Tốc độ tàn phá quá nhanh mà diện tích rừng lại quá lớn, vì vậy mọi phương tiện hiện có của ngành Nông Lâm không có khả năng cứu được rừng. Trung đoàn không quân 919 đã được giao nhiệm vụ sử dụng hai tổ bay An-2: lái chính Phan Như Cẩn-dẫn đường trên không Đinh Huy Cận và lái chính Lê Năng-dẫn đường trên không Phạm Thanh Tâm để phun thuốc trừ sâu. Dẫn đường trên không của hai tổ bay đã dẫn chính xác đáp ứng đúng yêu cầu phun thuốc trừ sâu, bay thấp sát ngọn thông để cơ giới trên không điều khiển giàn phun. Chỉ sau ít ngày, nạn sâu đã được diệt trừ, trả lại màu xanh cho 720 héc-ta rừng thông.

Mùa hè năm 1960, theo yêu cầu của Bộ Nông nghiệp, không quân ta đã phối hợp với Nha Khí tượng, sử dụng An-2 bay gây mưa nhân tạo, chống hạn cứu lúa. Dưới nắng hè oi bức. các tổ bay An-2 chờ dưới cánh máy bay, sẵn sàng nhận lệnh cất cánh. Máy bay sẽ được dẫn đến những đám mây có nhiều khả năng gây mưa, rồi phun bụi hóa chất vào chúng để thúc đẩy nhanh quá trình tạo ra các cơn mưa rào. Bay gây mưa nhân tạo dễ gặp nguy hiểm vì trong những đám mây này thường có dòng đối lưu rất mạnh, độ tích điện cao, dễ phá hỏng máy bay. Nhưng với lòng dũng cảm, tin tưởng vào trình độ của chính mình, các tổ bay An-2 đã góp sức đẩy lùi hạn hán, cứu sống hang ngàn héc-ta lúa tại tỉnh Hải Dương.

Trong mùa mưa bão 1960, các tổ bay An-2 tiếp tục hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bay báo bão cho ngư dân đang đánh cá xa bờ trên các vùng biển trong vịnh Bắc Bộ. Trước khi bão đổ bộ, các tổ bay An-2 được dẫn đến những khu vực có thể có ngư dân đang hoạt động, tiến hành gọi loa thông báo hoặc thả phao có sơn dòng chữ "Có bão, về ngay". Ngư dân một số địa phương thuộc Khu 4 đã gửi thư bày tỏ tình cảm của mình với các tổ bay An-2 "tuy bay trên trời cao mà rất gần dân". Đội ngũ dẫn đường trong các tổ bay An-2, trong đó có đồng chí Lê Thế Hưng đã làm việc hết mình, góp phần tạo nên danh hiệu "Chim báo bão" cho máy bay An-2.

Ngoài những chuyến bay trên, đội ngũ dẫn đường trên không An-2 còn tham gia dẫn bay chụp ảnh địa hình, thăm dò địa chất trên khắp các vùng trọng điểm của miền Bắc.

Một trong những nhiệm vụ rất quan trọng của không quân ta là nhanh chóng xử lý các tình huống trên không. Sau khi nhận được thông báo máy bay hàng không của Vương quốc Lào trong quá trình bay đến Gia Lâm bị lạc, do hỏng thiết bị dẫn đường trên không và kết quả xác định vị trí máy bay bị lạc của Đại đội 2 ra-đa cảnh giới ở Hà Cối và Đại đội 7 ra-đa cảnh giới ở Đồ Sơn thuộc Trung đoàn ra-đa 291, Đài chỉ huy đường dài Gia Lâm đã kịp thời ra lệnh cho máy bay bị lạc vòng tại chỗ, giữ độ cao 2.100m, chờ máy bay Việt Nam lên dẫn về hạ cánh.

Tổ bay Li-2: lái chính Lê Văn Nha, dẫn đường trên không Đinh Huy Cận nhanh chóng cất cánh từ Gia Lâm, lên độ cao 2.500m, bay thẳng đến khu vực Hoành Bồ và tiến hành tìm kiếm. Sau khi phát hiện được máy bay bị lạc tổ bay của ta đã liên lạc, chỉ huy và dẫn tổ bay của Vương quốc Lào về Gia Lâm hạ cánh an toàn.

Đây là một trong những tình huống phức tạp, có một không hai vào thời gian đó mà đồng chí Đinh Huy Cận đã góp công cùng đồng đội xử lý rất hoàn hảo.
*

* *​

Ngay từ khi được thành lập, giữa Trường Hàng không và Trung đoàn không quân 919 luôn có mối quan hệ rất gàn bó mật thiết về công tác đào tạo các thành phần bay ở trong nước, trong đó có dẫn đường trên không. Những cán bộ giỏi về dẫn đường trên không ở trung đoàn thường được điều về nhà trường tham gia đào tạo và đội ngũ giáo viên dẫn đường trên không của nhà trường, khi có lệnh, lập tức lên đường làm nhiệm vụ trong đội hình chiến đấu và phục vụ chiến đấu của trung đoàn. Nhờ đó, công tác đào tạo dẫn đường trên không luôn đạt hiệu quả cao và trở thành truyền thống tốt đẹp của nhà trường trong suốt quá trình đào tạo sau này.

Ngày 15 tháng 1 năm 1960, khi khóa 2 đào tạo phi công kết thúc học lý thuyết để chuyển sang bay thực hành, sáu học viên bay: Nguyễn Xuân Hồng, Đỗ Thanh Hồng, Trần Hợp, Hà Ngọc Lẫm, Lê Tính và Nguyễn Trung Việt được chuyển sang đào tạo dẫn đường trên không khóa đầu tiên ở trong nước trên máy bay IL-14. Giáo viên lý thuyết và thực hành là đồng chí Hoàng Cần.

Cuối năm 1960, Trường Hàng không được Bộ Quốc phòng giao nhiệm vụ đào tạo 5 tổ bay vận tải An-2 cho lực lượng không quân Pa-thét Lào, trong đó có cả dẫn đường trên không. Thiếu úy Phan Phi Phụng là giáo viên lý thuyết và thực hành dẫn bay.

Xuất phát từ nhu cầu phục vụ chiến đấu ngày càng lớn của Trung đoàn 919 vào thời gian đầu những năm 1960, Cục Không quân quyết định thành lập bộ phận huấn luyện máy bay vận tải Li-2 trực thuộc Trường Hàng không (Quyết định số. 63/TM-QL ngày 27 tháng 2 năm 1961, trung tá Nguyên Văn Tiên ký. Hồ sơ số 17, phông 01, lưu trữ Quân chủng Phòng không-không quân). Từ ngày 1 tháng 3 năm 1961, 28 học viên dẫn đường trên không: Phạm Minh Cậy, Ngô Phượng Châu, Đoàn Minh Hội, Trần Đình Lợi, Đặng Văn Lự, Vũ Mạnh, Trần Anh Phới, Nguyễn Viết Quyền... bước vào học dẫn bay thực hành. Giáo viên dẫn bay thực hành là Gen-phan – chuyên gia Liên Xô và Phan Phi Phụng.


Tháng 5 năm 1961, Đoàn học bay trực thăng đi Liên Xô, trong đó có năm học viên dẫn đường trên không là: Lê Xuân Kịch, Phạm Xuân Quý, Nguyễn Văn Thi, Trương Xuân Tuyết và Bùi Đình Vận. Đến năm 1963, Đoàn trực thăng trở về nước.

Tháng 11 năm 1961, Đoàn học máy bay ném bom IL-28 sang Liên Xô. Trong đoàn có chín học viên dẫn đường trẽn không: Thân Xuân Hạnh, Nguyễn Quốc Hiền, Trần Đình Hồng, Nguyễn Quốc Khánh, Nguyễn Văn Mận, Nguyễn Đình Nhẫn, Đỗ Tuấn (Đỗ Văn Tuấn), Lê Bạch Vân và Phạm Văn Vượng. Đoàn Il-28 về nước vào ngày 30 tháng 10 năm 1964.

Ngày 28 tháng 2 năm 1962, theo quyết định của Cục Không quân, 16 đồng chí: Trần Đức Biên, Võ Thế Đức, Phan Như Hoàng, Lê Công Lộc, Trần Nhiên, Lê Văn Nông, Lê Đình Oa, Nguyễn Văn Phong, Nguyễn Văn Quốc (tức Bôn), Nguyễn Thành Sỹ, Nguyễn Văn Tam, Phạm Ngọc Thao, Nguyễn Viết Thái, Trần Hữu Thọ, Lê Truyền và Lê Côn Sơn, từ Tiểu đoàn 95 (dự khoá) được điều về Đại đội 9 thuộc Trường Hàng không để học dẫn đường trên không. Đồng chí Phan Phi Phụng là Đại đội trưởng, bốn giáo viên dẫn đường trên không là: Trần Minh Giao, Nguyễn Đình Hồi, Phạm Hải Hiệp và Trần Đình Lợi. Khóa này khai giảng ngày 12 tháng 3 năm 1962, kết thúc học lý thuyết ngày 24 tháng 10 năm 1962 và bước sang học dẫn bay thực hành ngay.

Căn cứ vào nhiệm vụ xây dựng không quân năm 1962, Cục Không quân quyết định thành lập Đội huấn luyện Li-2 và An-2 trực thuộc Trường Hàng không với nhiệm vụ đào tạo lái phụ và dẫn đường trên không. Đội huấn luyện tổ chức huấn luyện tại Kép, với ba trung đội: bay (phi công), dẫn đường trên không và cơ vụ (máy). Trung đội dẫn đường trên không có 18 học viên. Giáo viên dẫn đường trên không do năm đồng chí chuyên gia Trung Quốc và đồng chí Lê Thế Hưng đảm nhiệm. Đại đội An-2 của Trung đoàn 919 chuyển về Cát Bi để huấn luyện cho 10 học viên bay tốt nghiệp Yak-18 ở trong nước và hai học viên bay tốt nghiệp Yak-18 ở Trung Quốc (Mệnh lệnh số 13/G9KQ. Hồ sơ số 17, phông 01, lưu trữ Quân chủng Phòng không-không quân).

Việc đào tạo dẫn đường trên không ở trong nước thành công, đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc, khẳng định khả năng và trình độ của đội ngũ giáo viên dẫn đường trên không của Không quân nhân dân Việt Nam. Trong suốt quá trình Trường Hàng không tiến hành đào tạo phi công bay sơ cấp, đội ngũ giáo viên dạy lý thuyết dẫn bay tuy ít người, nhưng luôn bảo đảm đủ giờ lên lớp và tận tình truyền đạt kiến thức dẫn bay đáp ứng yêu cầu đối với từng khoá.

[FONT=&quot]Tháng 8 năm 1962, Đoàn cán bộ tham mưu, hậu cần, dẫn đường không quân được cử đi đào tạo tại Học viện Tham mưu - chỉ huy không quân Liên Xô. Đồng chí Hoàng Cần là học viên dẫn đường đầu tiên được tham gia khóa đào tạo này.

Ngày 18 tháng 1 năm 1963, Bộ Tổng Tham mưu ra chỉ thị về việc bảo đảm an toàn cho các cơ sở vật chất kỹ thuật của không quân, đề phòng biệt kích phá hoại, sẵn sang chiến đấu chống tập kích đường không; sẵn sàng làm nhiệm vụ bí mật vận chuyển đường không tiếp tế cho chiến trường; sẵn sàng sử dụng không quân trong tình huống xảy ra chiến tranh ở Quân khu 4; tăng cường huấn luyện chiến đấu và phục vụ các nhiệm vụ chính trị, quân sự và kinh tế.


Bộ Tổng Tham mưu yêu cầu Cục Không quân chuẩn bị tốt lực lượng để thực hiện đổ bộ đường không cho bộ đội dù, chuẩn bị đưa không quân tiêm kích về nước tham gia chiến đấu tăng cường huấn luyện bay có sử dụng vũ khí và thả dù trong đêm, sẵn sàng chi viện cho các chiến trường.


[/FONT]
 

Estonque

Xe điện
Biển số
OF-27090
Ngày cấp bằng
7/1/09
Số km
3,122
Động cơ
517,199 Mã lực
Nơi ở
Nhà BVC
Ngày 7 tháng 1 năm 1963, Tham mưu trưởng Cục Không quân, trung tá Nguyễn Văn Tiên ra lệnh cho Trung đoàn không quân 919 tham gia diễn tập thực binh. Các tổ bay Li-2 và An-2 của trung đoàn có nhiệm vụ phối hợp chặt chẽ với Tiểu đoàn trinh sát 74 và Lữ đoàn dù 305 thực hiện đổ bộ đường không chiến thuật xuống các vị trí theo yêu cầu của người chỉ huy "quân đỏ".

Đến 16 giờ ngày 9 tháng 1 năm 1963, công tác chuẩn bị cho diễn tập đã được hoàn tất. Sáng ngày 10 tháng 1, cuộc diễn tập đổ bộ đường không bắt đầu. 1 chiếc Li-2 thực hiện thả 1 tốp trinh sát xuống bãi chuẩn bị đổ bộ. Ngày 12, 1 Li-2 thả tiếp 2 tổ trinh sát nữa và ngày 17, 2 An-2 thực hiện 3 lần chuyến thả 3 tổ trinh sát cũng xuống bãi nằm trên địa phận thôn Hàng Gi, xã Đức Long, huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang. Các chuyến bay thả dù được thực hiện đúng kế hoạch và bảo đảm an toàn tuyệt đối. Đây là cuộc diễn tập thực binh đầu tiên với các đơn vị chủ lực mà đội ngũ dẫn đường trên không trong các tổ bay Li-2 và An-2 của Trung đoàn 919 đã dẫn bay chính xác, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đề ra.

Để sẵn sàng đánh trả bước phiêu lưu quân sự mới của đế quốc Mỹ đối với miền Bắc, ngày 22 tháng 10 năm 1963, Bộ Quốc phòng ra quyết định hợp nhất Bộ Tư lệnh Phòng không và Cục Không quân thành Quân chủng Phòng không-không quân. Đại tá Phùng Thế Tài - nguyên Tư lệnh Bộ Tư lệnh Phòng không, được bổ nhiệm làm Tư lệnh Quân chủng, đại tá Đặng Tính - Cục trưởng Cục Không quân, làm Chính ủy, đồng chí Nguyễn Quang Bích – Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Phòng không được bổ nhiệm làm Tham mưu trưởng Quân chủng. Trong Cục Tham mưu Quân chủng có Phòng Tác chiến do đồng chí Khúc Đình Bính làm Trưởng phòng. Ban Dẫn đường nằm trong Phòng Tác chiến. Đồng chí Lê Liên, dẫn đường trên không, giữ chức Trưởng ban và có 4 trợ lý dẫn đường sở chỉ huy là các đồng chí: Phạm Minh Cậy, Nguyễn Văn Chuyên, Trần Quang Kính và Đào Ngọc Ngư.

Như vậy, Ban Dẫn đường Quân chủng bao gồm cả thành phần dẫn đường trên không và dẫn đường sở chỉ huy; hệ thống Chủ nhiệm Dẫn đường trong Trung đoàn không quân 919 và Trường Huấn luyện Hàng không tiếp tục được kiện toàn; đội ngũ dẫn đường trên không và dẫn đường sở chỉ huy được hợp thành một khối thống nhất.

Đây là bước phát triển vô cùng quan trọng, tạo ra sức mạnh tổng hợp cho ngành Dẫn đường Không quân bước tiếp vào giai đoạn cách mạng mới.
 

Estonque

Xe điện
Biển số
OF-27090
Ngày cấp bằng
7/1/09
Số km
3,122
Động cơ
517,199 Mã lực
Nơi ở
Nhà BVC
Chương II

NGÀNH DẪN ĐƯỜNG TRONG CUỘC CHỐNG
CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI CỦA ĐẾ QUỐC MỸ
ĐỐI VỚI MIỀN BẮC VÀ CHUẨN BỊ GIẢI PHÓNG MIỀN NAM
(196
4 - 1974)

I - NGÀNH DẪN ĐƯỜNG TRONG CUỘC CHỐNG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI LẨN THỨ NHẤT CỦA ĐẾ QUỐC MỸ ĐỐI VỚI MIỀN BẮC
(1964-1968) VÀ NHỮNG NĂM 1969-1971


1. Công tác dẫn đường trong thực hiện các nhiệm vụ bay.


Cuối năm 1963, được đế quốc Mỹ hậu thuẫn, nguy Sài Gòn bắt đầu gia tăng các hoạt động khiêu khích, phá hoại đối với miền Bắc. Chúng cho máy bay vào trinh sát, thả biệt kích, rải truyền đơn... tại nhiều nơi thuộc địa bàn các tỉnh Khu 4 và đưa tàu chiến vào sâu trong cửa vịnh Bắc Bộ. Trước tình hình đó, hàng loạt các nội dung công tác rất quan trọng đã được các cơ quan, đơn vị gấp rút triển khai nhằm thực hiện bằng được chủ trương của Thường vụ **** ủy và Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân là sử dụng không quân đánh máy bay địch. Ta có cách đánh của ta, địch không thể lường trước được.

Tháng 10 năm 1963, Phòng Máy bay và Xưởng Bạch Mai bắt đầu từng bước tìm hiểu, nghiên cứu và phục hồi máy bay T-28 (Chiếc T-28 này do một phi công - hàng binh của Không quân Hoàng gia Lào lái và đã hạ cánh xuống sân bay Bạch Mai vào tháng 9 năm 1963). Với trí tuệ và tay nghề giỏi, đội ngũ kỹ thuật hàng không đã tận tâm làm việc, khắc phục mọi khó khăn và đến cuối năm 1963, chiếc T-28 này đã được đưa vào hệ thống trang bị của Không quân nhân dân Việt Nam và mang số hiệu 963. Máy bay T-28-963 có đủ khả năng đánh mục tiêu trên không bằng 2 khẩu súng 12,7mm với 200 viên đạn, hệ thống máy ngắm đáp ứng yêu cầu xạ kích bằng mắt ban đêm, la bàn điện bị hỏng đã được thay bằng hệ thống la bàn mới (GIK) của máy bay An-2...


Thượng úy Nguyễn Văn Ba và trung úy Lê Tiến Phước, hai phi công - giáo viên bay IaK-18 của Trường Hàng không được Quân chủng điều về trực tiếp bay T-28. Công tác huấn luyện chuyển loại được tiến hành rất khẩn trương với cường độ cao: từ học lý thuyết trên thực hành các bài bay cơ bản và ứng dụng chiến đấu, bay ngày xong lại chuyển sang bay đêm ngay. Gắn liền với công tác huấn luyện chuyển loại cho phi công, hai sĩ quan dẫn đường sở chỉ huy là Trần Quang Kính và Đào Ngọc Ngư đã cần cù học tập tính năng kỹ-chiến thuật của máy bay T-28, cách sử dụng đài ra-đa dẫn đường; 402 (đài 402), theo dõi các hoạt động bay của địch, miệt mài tính toán các số liệu dẫn bay và luyện tập thành thạo cách dẫn phối hợp giữa dẫn trên bàn dẫn đường tại sở chỉ huy và dẫn trên hiện sóng tại đại đội ra-đa dẫn đường, đồng thời lien tục thực hành dẫn tất cả các chuyến bay chuyển loại và ứng dụng chiến đấu cho hai phi công Nguyễn Văn Ba và Lê Tiến Phước.


Căn cứ vào ý định tác chiến và quán triệt sâu sắc tư tưởng chỉ đạo: Tích cực, mạnh dạn, xây dựng kế hoạch cụ thể và tổ chức thực hiện từng bước vững chắc của Quân chủng, phương án dẫn T-28 đánh máy bay địch thả biệt kích xuống các khu vực gần biên giới Việt - Lào thuộc các tỉnh Thanh Hóa, Hòa Bình trong thời tiết đêm giản đơn, có trăng đã được Trưởng ban Dẫn đường Quân chủng Lê Liên cùng với các trợ lý chuẩn bị chu đáo và tỉ mỉ.

Tháng 1 năm 1964, sau khi kiểm tra kỹ lưỡng toàn bộ công tác chuẩn bị, Bộ Tư lệnh Quân chủng quyết định đưa T-28 vào trực chiến. Lần xuất kích đầu tiên, không phát hiện được mục tiêu. Những lần tiếp theo, cũng không suôn sẻ có lần phát hiện được địch, nhưng không bám theo kịp; có lần tiếp cận tốt, lại bắn không trúng... Hiện tượng ra-đa dẫn đường bắt (ta và địch) không liên tục, bị ngắt quãng, tuy không nghiêm trọng nhưng thường xuyên xảy ra. Trong khi đó, máy bay ta tốt, gối không chỉ huy-dẫn đường thông suốt, khí thế đánh địch không hề suy giảm, còn dịch vẫn ngang nhiên quấy rối. Đây là thách thức đầu tiên và cũng là lớn nhất đối với đội ngữ phi công và dẫn đường. Sau nhiều lần tổ chức rút kinh nghiệm, phương án dẫn đường được bổ sung tỉ mỉ hơn, hiệp đồng dẫn đường được thực hiện chặt chẽ hơn và giải pháp "dẫn mò" (dẫn theo suy đoán của dẫn đường sở chỉ huy khi ra-đa bắt ta Và địch không liên tục) cũng được chuẩn bị kỹ càng hơn. Tất cả đều tập trung cao độ cho nhiệm vụ.


23 giờ 30 phút, ngày 15 tháng 2 năm 1964 (Đoàn bay 919 - 45 năm xây dưng và trưởng thành, Nxb Chính trị quốc gia; H.2004, tr.84, ghi: năm 1965), ra-đa vòng ngoài của ta phát hiện có địch. Ít phút sau, đường bay địch bắt đầu được đánh dấu bằng chì xanh trên mạng B1 (mạng ra-đa cảnh giới quốc gia), dọc theo phía đông của dãy Trường Sơn. Sở chỉ huy Quân chủng và tổ bay vào cấp 1.


Sau đó Bộ Tư lệnh Quân chủng nhận được điện báo từ huyện đội Con Cuồng: Có tiếng máy bay địch bay qua vùng trời địa phương, chúng bay đến khu vực Hồi Xuân- Lang Chánh thì chuyển hướng lên Tây bắc. Vậy là địch vào tương đối sát với dự tính của ta. Tại SỞ chỉ huy Quân chủng, trực ban dẫn đường Trần Quang Kính vừa theo dõi địch trên mạng B1 vừa đối chiếu xuống bàn dẫn đường.


Trên hiện sóng của đài 402 tại Đại đội ra-đa dẫn Đường 28 (C-28) ở Hà Đông
(Lịch sử Bộ Tham mưu Phòng không - Không quân (1963-2003), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.2003, tr.77), trực ban dẫn đường Đào Ngọc Ngư căng mắt bám theo từng vòng quét. Khi phát hiện mục tiêu trắc thủ ra-đa đã đọc ngay tình báo về Sở chỉ huy Quân chủng cho nhân viên tiêu đồ gần Lê Thành Chơn.

Tại Gia Lâm, tổ bay T-28-963: Nguyễn Văn Ba - Lê Tiến Phước sẵn sàng chờ lệnh.


1 giờ 07 phút ngày 16 tháng 2 năm 1964, Tư lệnh Quân chủng quyết định cho T-28 cất cánh. Trực ban dẫn đường Trần Quang Kính dẫn T-28 bay đúng phương án đã được bổ sung. Phi công Lê Tiến Phước ngồi buồng lái sau, tập trung giữ tốt các số liệu dẫn bay. Sở chỉ huy thông báo đều đặn vị trí ta-địch, mục tiêu bên trái, cự ly 30, 20, 15... km, rồi mục tiêu ở phía trước. Phi công Nguyễn Văn Ba ngồi buồng lái trước, tập trung quan sát. Dưới ánh trăng mờ đầu tháng (ngày 4 tháng Giêng âm lịch), trên nền mây trắng xám, mục tiêu hiện lên, anh báo cáo và quyết định tăng tốc độ tiếp cận. Sở chỉ huy Quân chủng nhắc, không được để mất mục tiêu. Khi còn cách khoảng 500m, phi công Nguyễn Văn Ba thấy rõ hình thù chiếc máy bay vận tải 2 động cơ của địch. Anh ấn nút lên đạn, chiếm vị trí có lợi xin vào công kích và bắn hai loạt. Máy bay địch phụt lửa. Anh bắn tiếp loạt thứ ba thì súng bị tắc đạn (Theo tư liệu của đồng chí Đào Ngọc Ngư: Bắn hết 163/200 viên). Trực ban dẫn đường Đào Ngọc Ngư cho lệnh thoát ly.

Máy bay địch tròng trành, rồi nghiêng hẳn về bên trái và giảm độ cao rất nhanh. Nó rơi xuống một khu rừng gần biên giới Việt - Lào. Sở chỉ huy dẫn T-28 về sân bay Gia Lâm hạ cánh an toàn. Sau này, một tên biệt kích bị ta bắt đã khai: toàn bộ phi hành đoàn trên máy bay vận tải C-123 của "Không lực Việt Nam Cộng hòa" và toán biệt kích đều đã tử nạn.


Đây là chiến thắng đầu tiên bằng phương tiện chiến đấu trên không, diệt kẻ địch trên không trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta. Ngành Dẫn đường vô cùng tự hào, ngày 16 tháng 2 năm 1964 là mốc son sang chói, lần đầu tiên trong lịch sử của Không quân nhân dân Việt Nam, ta đã dẫn chặn kích đêm đánh đúng đối tượng, bắn rơi máy bay địch. Đây là nguồn cổ vũ động viên mạnh mẽ cán bộ, chiến sĩ toàn ngành tiếp tục vươn lên, quyết tâm vượt qua những thử thách còn đang ở phía trước của mặt trận trên không sắp mở.


Sau này, do điều kiện khí tài thay thế gặp nhiều khó khăn, T-28-963 phải tạm ngừng hoạt động. Đến tháng 10 năm 1965 không quân ta lại khôi phục kỹ thuật cho T-28- 963, hồi phục bay đêm cho phi công và đưa vào trực chiến (Mệnh lệnh tác chiến của Quân chủng, số. 587/B1 ngày 25 tháng 9 năm 1965).


Chấp hành mệnh lệnh của Bộ Tư lệnh Quân chủng
(Mệnh lệnh chuyển trường của Bộ Tư lệnh Quân chủng, ngày 01 tháng 7 năm 1964) về Việc chuyển trường (chuyển sân) 32 chiếc máy bay chiến đấu MIG-17A (MIG-17 không có hệ thống tăng lực) và 4 chiếc máy bay huấn luyện UMIG-15 từ sân bay Mông Tự (Trung Quốc) về sân bay Nội Bài và căn cứ vào yêu cầu soạn thảo các văn kiện tổ chức thực hiện nhiệm vụ chuyển sân của Trung đoàn không quân 921, Ban Dẫn đường Quân chủng cùng với Tiểu ban Dẫn đường trung đoàn đã tập trung sức lực vừa tham gia soạn thảo kế hoạch chuyển sân vừa chuẩn bị chỉ thị dẫn đường chuyển sân của trung đoàn.

Nội dung của chỉ thị được thể hiện cụ thể trong 8 mục lớn, từ đặc điểm địa hình và thời tiết, hàng tuyến (đường bay) chính thức và dự bị, phương pháp dẫn đường trên không và dẫn đường sở chỉ huy…. đến các yêu cầu cần phải làm. Kèm theo chỉ thị còn có 6 phụ lục chi tiết, như tập hợp, giải tán hạ cánh, quy định mật hiệu (mật danh) các sân bay, số liệu các sân bay dự bị... Một khối lượng công việc rất lớn, chỉ sau mười ngày đã được hai sĩ quan dẫn đường sở chỉ huy: Trần Quang Kính, Bùi Quang Liên và Chủ nhiệm Dẫn đường Phạm Ngọc Lan hoàn tất. Ngay sau khi kế hoạch chuyển sân của Trung đoàn 921 được Trung đoàn trưởng, trung tá Đào Đình Luyện và Chính ủy trung tá Đỗ Long đồng ký ngày 11 tháng 7 năm 1964, thì chỉ thị dẫn đường chuyển sân cũng được Tham mưu trưởng trung đoàn, thiếu tá Lê Văn Thọ ký cùng ngày.

Tinh thần trách nhiệm và trình độ dẫn đường hòa quyện vào nhau. Mọi người không chỉ ý thức được tầm quan trọng của nhiệm vụ là tổ chức dẫn các máy bay chiến đấu và huấn luyện chuyển sân từ nước bạn, lần đầu tiên trở về Tổ quốc để tham gia chiến đấu, mà còn chú trọng đến từng chi tiết, như lấy và đối thời gian chuẩn (so giờ) không được sai lệch quá 2 giây, mỗi đoạn bay đều chỉ rõ các điểm kiểm tra, độ cao an toàn thấp nhất và cách giao nhận chỉ huy - dẫn đường...


Ngày 5 tháng 8 năm 1964, sau khi dựng lên cái gọi là "sự kiện vịnh Bắc Bộ", đế quốc Mỹ đã mở đầu cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc nước ta bằng cuộc tiến công "Mũi tên xuyên", với 64 lần chiếc máy bay của lực lượng hải quân Mỹ đánh vào một số mục tiêu của ta. Bộ đội phòng không và hải quân đã giáng trả, bắn rơi 8 máy bay địch và bắn bị thương nhiều chiếc khác. Để tăng cường thêm lực lượng và nâng cao sức mạnh chiến đấu cho Quân chủng, ta đã gấp rút đưa Trung đoàn 921 về nước tham gia chiến đấu Kế hoạch mang mật danh X1 được quyết định thực hiện vào ngay ngày hôm sau.


Trưa ngày 6 tháng 8 năm 1964, tại sân bay Mông Tự, phương án chuyển sân chính thức theo đường bay chính thức được tiến hành đúng kế hoạch. Tại Sở chỉ huy Quân chủng: Trực ban dẫn đường Trần Quang Kính chịu trách nhiệm dẫn chính và tiêu đồ gần Lê Thành Chơn đánh dấu đường bay, tại sở chỉ huy trung đoàn: các trực ban dẫn đường Đào Ngọc Ngư và Bùi Quang Liên đảm nhiệm dẫn bổ trợ. Biên đội đầu tiên của Trung đoàn do Trung đoàn trưởng Đào Đình Luyện chỉ huy, bay số 1, Chủ nhiệm Dẫn đường Trung đoàn Phạm Ngọc Lan - số 2, phi công Tào Song Minh - số 3 và phi công Lâm Văn Lích - số 4 cất cánh.


20 phút sau, biên đội thứ hai lên đường và tiếp sau đó, với gián cách thời gian 5 phút, lại có một biên đội chỉnh tề trở về Tổ quốc. Thật là vinh dự, khi về đến Nội Bài, theo thứ tự giải tán đội hình, Chủ nhiệm Dẫn đường Phạm Ngọc Lan là người vào hạ cánh đầu tiên và sau khi hạ cánh 2 giờ 35 phút, chính anh là một trong những người vào trực chiến đầu tiên của trung đoàn.


[FONT=&quot]

[/FONT]
 
Chỉnh sửa cuối:

Estonque

Xe điện
Biển số
OF-27090
Ngày cấp bằng
7/1/09
Số km
3,122
Động cơ
517,199 Mã lực
Nơi ở
Nhà BVC
Sau khi biên đội thứ sáu của đợt một chuyển sân xong, 12 phi công đã tham gia đợt một, được bố trí thành 3 biên đội, nhanh chóng lên máy bay vận tải đang chờ sẵn để quay lại đất bạn. Đợt hai tiếp tục, tiếng động cơ vang lên như đồng thanh gửi lời cảm ơn bạn và chào tạm biệt. Ba biên đội MIG-17 rời đường băng Mông Tự, sau đó hạ cánh an toàn tại Nội Bài. Nhiệm vụ chuyển sân của Trung đoàn 921 kết thúc tốt đẹp. Toàn thể đội ngũ dẫn đường sở chỉ huy, những người đã được đào tạo cơ bản, chính quy ở nước bạn vô cùng vui mừng phấn khởi vì từ giờ phút này sẽ được trực tiếp dẫn máy bay tiêm kích của ta hoạt động ngay trên đất nước mình.

Sau khi Trung đoàn 921 đóng quân ổn định tại căn cứ Nội Bài, Quân chúng tiến hành ngay công tác tổ chức chuẩn bị mở mặt trận trên không đánh trả không quân nhà nghề của quân đội Mỹ. Bộ Tư lệnh Quân chủng ra mệnh lệnh tác chiến (Mệnh lệnh tác chiến của Bộ tư lệnh, số 724, ngày 18 tháng 8 năm 1964), các cơ quan làm phương án tác chiến và các dự án bảo đảm. Dự án dẫn đường (kế hoạch bảo đảm dẫn đường) của Quân chủng (Dự án dẫn đường, số 2754/B7, ngày 31 tháng năm 1964 - Trong tài liệu lưu trữ không ghi tháng nào, Ban Biên soạn cho là tháng 8 ) đã thể hiện cao độ tính định hướng hành động cho đội ngũ phi công và dẫn đường: Sở chỉ huy Quân chủng chịu trách nhiệm ra lệnh chuyển cấp cất cánh, cho hướng xuất kích, dẫn vào tiếp địch, cho lệnh thoát ly và dẫn về. Sở chỉ huy trung đoàn đảm nhiệm điều hành cất, hạ cánh, tham gia xử lý một số tình huống theo yêu cầu của Sở chỉ huy Quân chủng. Tổ chức dẫn trên bàn dẫn đường tại sở chỉ huy ]à chính, dẫn trên hiện song tại đại đội ra-đa dẫn đường là phụ. Sử dụng hai đài chính là đài 402 và đài đo cao 843 để đưa tình báo về sở chỉ huy, dùng các đài phụ là 0, 10 và 13 (các đài ra-đa 406, P-10 và 513K) để lấy tình báo tham khảo. Phi công và dẫn đường phải nắm vững giọng nói của nhau. Nếu cất cánh 4 chiếc thì sau 2 phút, còn cất cánh 2 chiếc thì sau 1 phút, đội trưởng tự ra lệnh cho các số trong biên đội hoặc đôi bay chuyển đối không sang R3 (rãnh đối không chiến đấu), Sở chỉ huy Quân chủng chờ sẵn trên R3 để chỉ huy chiến đấu. Trong khẩu lệnh vòng không nói độ nghiêng chỉ hô: "Vòng trái", có nghĩa vòng trái với độ nghiêng 45 độ hoặc "Vòng phải, động tác nhanh", có nghĩa vòng phải với độ nghiêng 60 độ. Thời gian từ khi dẫn đường ra khẩu lệnh, đến khi phi công hoàn thành động tác là 5 giây. Lượng dầu còn lại khi bay về: nếu cách sân bay 70km phải còn 550 lít, 100km-650 lít và 120km-750 lít.

Nội dung hiệp đồng đầu ngày giữa dẫn đường sở chỉ huy với phi công trực chiến gồm 7 điểm, trong đó có: tình hình thời tiết tại khu chiến và tại sân bay, tình hình địch hôm trước, dự kiến địch hoạt động trong ngày và nhiệm vụ của phân đội trực chiến, đối thời gian chuẩn... Nội dung hiệp đồng giữa dẫn đường tại sở chỉ huy với dẫn đường hiện sóng gồm 5 điểm và giữa dẫn đường hiện sóng với đài trưởng ra-đa và tiêu đồ gần gồm 8 điểm... Tất cả đều rất rõ ràng và cụ thể. Dự án dẫn đường của Quân chủng đã được Phó Tham mưu trưởng, trung tá Hoàng Ngọc Diêu ký thay Tham mưu trưởng Quân chủng.​
Một trong những yếu tố đòn bẩy tạo ra các kết quả cụ thể, đó là tổ chức thực hiện quân sự dân chủ: đặt ra hết mọi khó khăn, mọi tình huống phức tạp; cùng nhau thảo luận, hiến kế và từng bước quy tụ vào một số giải pháp chung nhất. Song điều quan trọng hơn là thường xuyên đưa từng giải pháp ra luyện tập, cho đến khi mọi người đều cảm thấy thuần thục và hài lòng. Chính nhờ có quân sự dân chủ và luyện tập thường xuyên mà quy định: "Mỗi tuần, phi công và dẫn đường gặp nhau một lần vào cuối tuần nhằm rút kinh nghiệm chiến đấu và huấn luyện, đồng thời bổ sung vào nội dung hiệp đồng cũ (Dự án dẫn đường, mục thứ sáu: Chế độ hiệp đồng) đã thực sự góp một phần không nhỏ nâng cao hiệu quả của mỗi chuyến bay huấn luyện, mỗi lần diễn tập và mỗi trận đánh sau này.

Ngày 1 tháng 4 năm 1965, tổng thống Giôn-xơn quyết định tăng quân Mỹ vào chiến trường miền Nam và mở rộng cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân Mỹ đối với miền Bắc ra ngoài vĩ tuyến 20. Ngày 2 tháng 4 năm 1965, Thường vụ **** ủy và Bộ Tư lệnh Quân chủng kiểm tra công tác chuẩn bị trực tiếp cho chiến đấu của không quân, quyết định sử dụng lực lượng, khu chiến (khu vực đánh địch), thời cơ cất cánh, biện pháp hiệp đồng với pháo cao xạ và các mặt bảo đảm khác...

Sáng sớm ngày 3 tháng 4 năm 1965, công tác chuẩn bị trực tiếp cho chiến đấu của Trung đoàn 921 đã được hoàn thành theo đúng yêu cầu của Quân chủng. Biên đội đánh chính (chủ công): Phạm Ngọc Lan - số 1, Phan Văn Túc - số 2, Hồ Văn Quỳ - số 3 và Trần Minh Phương - số 4. Đôi bay nghi binh - yểm hộ: Trần Hanh - Phạm Dấy. Kíp trực ban dẫn đường Quân chủng: Trần Quang Kính dẫn trên bàn dẫn đường tại sở chỉ huy, Đào Ngọc Ngư dẫn trên hiện song của đài 402 tại C-29A ở Bạch Mai (Lịch sử Bộ Tham mưu Phòng Không - Không quân. Sđd, tr.94); kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 921: Bùi Quang Liên và Phạm Minh Cậy tại sở chỉ huy. Vào lúc 7 giờ, thời tiết tại sân còn xấu, nhưng tại khu chiến Hàm Rồng có tốt hơn. Địch vào trinh sát thời tiết và một số mục tiêu của ta. Sau đó, chúng ngừng hoạt động. Mọi người đều căng thẳng suy tính: Khả năng gì sẽ diễn ra, địch có tập trung lực lượng đánh Hàm Rồng không, nếu không, chúng sẽ đánh vào đâu...

Đến 9 giờ 40 phút, địch vào đánh các cầu Hàm Rồng, câu Tào và Đò Lèn. 5 phút sau, cả hai phân đội trực chiến đều vào cấp 1 và mở máy. 9 giờ 47 phút, đôi bay nghi binh - yểm hộ cất cánh và nhanh chóng lấy độ cao vào khu vực Ninh Bình, rồi tiếp tục hoạt động ở độ cao 6.000m. Một phút sau biên đội đánh chính cất cánh, bay theo phương án đã được chuẩn bị. Khi biên đội đánh chính qua khỏi Ninh Bình thì đột nhiên ra-đa dẫn đường mất tín hiệu ta. Trực ban dẫn đường Trần Quang Kính áp dụng ngay giải pháp "dẫn mò" mà anh đã tích lũy được trong nhiều lần dẫn T-28 và tiếp tục đưa tốp đánh chính bay vào khu chiến.​
Khi gần đến Thanh Hóa, sở chỉ huy cho biên đội tăng độ cao và vào tiếp địch với góc 90 độ và liên tiếp thông báo vị trí mục tiêu. Số 4 phát hiện địch đầu tiên và báo cáo F-8, 18km, rồi cả biên đội đều thấy rõ chúng đang triển khai đội hình, chuẩn bị vào ném bom cầu Hàm Rồng. "Thế đánh có lợi", số 1 nghĩ. Sở chỉ huy Quân chủng cho biên đội vứt thùng dầu phụ và tăng tốc độ tiếp cận. Từ phút này số 1 chịu trách nhiệm chỉ huy biên đội vào đánh địch. Ta tách thành hai đôi bay và cơ động tạo thế. Thấy số 2 yểm hộ chắc chắn ở phía sau, số 1 quyết định cắt bán kính đón đầu một tốp địch ở phía trước đám mây Cu (Cumulus - Một loại mây được hình thành ở độ cao thấp, từng đám riêng biệt, có đường viền rõ ràng, phát triển theo chiều thắng đứng. Phần định mây hình đồi núi nhấp nhô, màu trắng phần đáy mây bằng phẳng, màu tối hoặc đen), sau đó cho một chiếc vào vòng ngắm. Với trình độ đã từng lập nhiều kỷ lục xạ kích của trung đoàn trong huấn luyện ứng dụng chiến đấu, phi công Phạm Ngọc Lan chờ đến đứng cự ly bắn có hiệu quả và nổ súng. Máy bay địch trúng đạn, bốc cháy dữ dội và cắm thẳng xuống đất. Đó là chiếc F-8U, máy bay cường kích phản lực của không quân thuộc hải quân Mỹ đầu tiên bị MIG-17 của Không quân nhân dân Việt Nam bắn rơi tại chỗ.

Cùng lúc đó, số 3, được số 4 yểm hộ, bám theo 2 chiếc khác và nổ súng, do bắn ở cự ly xa, nên địch chạy thoát. Vài phút sau, khi số 1 đã nổ súng, số 2 báo cáo phát hiện địch ở bên phải. Số 1 ra lệnh: "Bám theo, vào công kích! Tôi yểm hộ". Là một phi công có tinh thần kỷ luật và quyết tâm chiến đấu rất cao, tự biết rõ trình độ kỹ thuật bay của mình, phi công Phan Văn Túc bình tĩnh, giữ tốt điểm ngắm, vào gần và bắn liền ba loạt. Máy bay địch đảo cánh, rồi bốc cháy. Chiếc F-8U thứ hai bị xoá sổ.

10 giờ 17 phút, Sở chỉ huy Quân chủng lệnh cho cả 2 tốp thoát ly khỏi khu chiến Hàm Rồng và khu nghi binh- yểm hộ Ninh Bình. Các số 2, 3 và 4 đều chủ động dẫn bay bằng địa tiêu, kết hợp với dẫn bổ trợ của sở chỉ huy và sau đó lần lượt vào hạ cánh an toàn xuống sân bay Nội Bài.

Chỉ riêng số 1 do máy bay hết dầu, tuy được phép nhảy dù, nhưng anh đã cố gắng hạ cánh bắt buộc thành công xuống một dải cát dài ven sông Đuống.

MIG-17 đánh trận đầu, thắng giòn giã, nức lòng người. MIG-17, bằng loạt đạn đầu trong lần công kích đầu tiên, bắn rơi 2 F-8U. MIG-17 đã lập chiến công đầu cực kỳ quan trọng cho mặt trận trên không vừa được mở. Đội ngũ dẫn đường sở chỉ huy hân hoan đón mừng trận không chiến đầu tiên của MIG-17 đã được dẫn thành công.

Ngày 3 tháng 4 năm 1965 trở thành ngày truyền thống đánh thắng trận đầu của Không quân nhân dân việt Nam. Chính trong ngày này, ngành Dẫn đường đã có cơ hội đặt bước tiến đầu tiên cho sự nghiệp xây dựng truyền thống dẫn đánh thắng trận đầu, dẫn đánh đúng đối tượng, dẫn bắn rơi tại chỗ.​
Tối 3 tháng 4 năm 1965, sau khi tổ chức rút kinh nghiệm chiến đấu, công tác chuẩn bị dẫn đường cho trận đánh tiếp theo đã được bắt đầu ngay. Trưởng ban Dẫn đường Lê Liên quyết định kíp dẫn đường Trần Quang Kính và Đào Ngọc Ngư tiếp tục trực và thống nhất cách dẫn bí mật, bất ngờ cho trận thứ hai.

Sáng 4 tháng 4 năm 1965, sau khi trinh sát khu vực Thanh Hóa, địch đánh ngay cầu Hàm Rồng và nhà máy điện. Sự khác biệt đầu tiên về địch so với trận đầu đã được bộc lộ. 10 giờ 20 phút, biên đội nghi binh - yểm hộ. Lê Trọng Long - Phan Văn Túc - Hồ Văn Quỳ - Trần Minh Phương cất cánh, giữ hướng bay 110 độ, lên độ cao và tiếp tục bay thẳng; đến ngang Phả Lại, mới vòng phải vào khu vực Phủ Lý và bay ở độ cao 8.500m.

10 giờ 22 phút, biên đội đánh chính: Trần Hanh - số 1, Phạm Dấy - số 2, Lê Minh Huân - số 3 và Trần Nguyên Năm - số 4 cất cánh. Sau khi ổn định đội hình, biên đội đánh chính được Sở chỉ huy Quân chủng cho tăng dần độ cao, bay tiếp về hướng đông, rồi vòng phải và sau khi cải ra gần như ở thẳng phía dưới biên đội nghi binh - yểm hộ, độ cao dưới 4.000m và bay vào khu chiến. Số 1 hiểu ngay ý định dẫn "chồng tốp" nhằm đánh lừa địch của trực ban dẫn đường Trần Quang Kính.

Gần đến khu chiến, theo lệnh của sở chỉ huy, biên đội kéo lên, chiếm ưu thế về độ cao và nhận ngay được các thông báo về vị trí mục tiêu. 10 giờ 30 phút, số 2 báo cáo phát hiện 4 F-105, bên phải 13km và ngay sau đó các số còn lại trong biên đội đều lần lượt báo cáo phát hiện địch. Chúng đang kéo lên sau động tác ném bom bổ nhào. Thời cơ vào trận hơi bị muộn, cường kích địch đã đánh. Theo lệnh của số 1, tất cả vứt thùng dầu phụ và tăng ngay tốc độ tiếp cận. Số 1 và số 2 bám theo một tốp địch. Chờ cự ly bắn vào đến 400m, phi công Trần Hanh mới nổ súng. Luồng đạn của anh quật chiếc máy bay địch lật úp xuống biển. Đây là chiếc máy bay cường kích phản lực "thần sấm" F-105D của không quân Mỹ đầu tiên bị MIG-17 của Không quân nhân dân Việt Nam bắn rơi tại chỗ, ngay từ loạt đạn đầu. Bị đánh bất ngờ, địch tăng thêm máy bay tiêm kích vào hỗ trợ cho máy bay cường kích của chúng. Chính sự khác biệt này so với trận đầu đã làm cho trận đánh thứ hai trở nên rất quyết liệt. Phi công Lê Minh Huân được đồng đội yểm hộ, trong khi quần nhau nhiều vòng với địch ở phía bắc cầu Hàm Rồng đã hạ được chiếc F- 105D thứ hai. Nhưng tiêm kích địch đông, chúng dùng nhiều tên lửa không đối không bắn vào ta, nên các số 2, 3 và 4 đã anh dũng hy sinh. Còn số 1, sau khi phải cơ động liên tục với quá tải lớn cả về hướng và độ cao để đối phó với tiêm kích địch ở phía nam cầu Hàm Rồng, đã mất liên lạc với Sở chỉ huy Quân chủng và không xác định chính xác vị trí của mình. Do lượng nhiên liệu còn lại quá ít, số 1 quyết định tìm vị trí thuận lợi để hạ cánh bắt buộc, và biên đội trưởng Trần Hanh đã hạ cánh thành công tại một thung lũng thuộc bản Kẻ Tằm, phía tây Nghệ An.​
 

Estonque

Xe điện
Biển số
OF-27090
Ngày cấp bằng
7/1/09
Số km
3,122
Động cơ
517,199 Mã lực
Nơi ở
Nhà BVC
Trận đánh thứ hai, ngày 4 tháng 4 năm 1965, mặc dù MIG-17 đã gặp tổn thất rất nặng cả về phi công và máy bay, nhưng chiến công bắn rơi 2 máy bay F-105D, loại cường kích phản lực hiện đại nhất của không quân Mỹ lúc bấy giờ vẫn còn vang mãi. Một lần nữa ta dẫn MIG-17 không chiến thắng lợi.

Qua hai trận đánh liên tiếp của MiG-17, được sự chỉ đạo của cấp trên, để không quân mau chóng trưởng thành, xứng đáng là lực lượng quan trọng của cuộc chiến tranh nhân dân trong chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ đối với miền Bắc và càng đánh, càng mạnh, đội ngũ dẫn đường sở chỉ huy đã tập trung cao về tâm trí và sức lực cho việc nghiên cứu cách tính toán cất cánh đúng thời cơ và cách dẫn máy bay ta đánh đúng đối tượng. Các đồng chí đều ý thức sâu sắc rằng: Địch tăng dần số lượng máy bay tiêm kích, mà mỗi chiếc lại mang nhiều tên lửa không đối không vào trận, trong khi máy bay ta chỉ có pháo 37mm và 23mm với 200 viên đạn là một thách thức, không chỉ đối với phi công và người chỉ huy, mà còn cả đối với chính mình.

Từ tháng 4 đến tháng 6 năm 1965, không quân địch tiến hành đánh phá nhiều nơi trên miền Bắc, chúng tập trung vào các đường giao thông huyết mạch của ta ở hướng tây-nam và đông-bắc Hà Nội, vào các khu vực quan trọng ở Việt Trì, Vĩnh Yên, Phả Lại, Bắc Giang... Không quân ta tăng cường chuẩn bị cho những trận đánh mới. Ban Dẫn đường tập trung xây dựng các phương án. Nhiều giả thiết về các thủ đoạn hoạt động của cường kích và tiêm kích địch đã được đưa ra thảo luận, nhiều cách dẫn đã được đề xuất như đánh cường kích khi có tiêm kích yểm hộ, đánh tiêm kích làm nhiệm vụ yểm hộ trong đội hình và tại khu vực. Đội ngũ trợ lý của ban liên tục thay nhau trực chiến và sẵn sàng vào cuộc.

Sáng sớm ngày 4 tháng 6 năm 1965, máy bay cường kích địch vào đánh Đường 15 tại khu vực Quan Hóa-bá Thước. Chúng chia thành nhiều tốp, hoạt động trong phạm vi rộng từ Suối Rút đến Thiệu Yên đã gây khó khăn cho ta khi lựa chọn tốp cần phải đánh. 5 giờ 55 phút, sau khi biên đội Lâm Văn Lích - số 1, Nguyễn Nhật Chiêu - số 2, Hồ Văn Quỳ - số 3 và Trần Minh Phương - số 4 cất cánh từ Nội Bài, đạt đủ độ cao an toàn, trực ban dẫn đường Trần Quang Kính cho hướng xuất kích xuống Nho Quan. 6 giờ 02 phút, thấy có nhiều tốp địch hoạt động ở Hòa Bình, trực ban dẫn đường Trần Quang Kính cho biên đội vòng phải gấp, hướng bay 340 độ. Ta mới bay được 2 phút thì địch vòng trái từ Hòa Bình xuống Quan Hóa, sở chỉ huy cho biên đội vòng trái, bay thẳng về bến phà Hồi Xuân (đông Quan Hóa 4km) để chặn đầu. 6 giờ 11 phút, số 1 phát hiện địch phía trước 8km, đang từ phải qua trái. Cả biên đội vòng trái bám theo. Tốp địch thấy có MIG, lập tức cơ động hình chữ "S" xuôi theo Đường 15. 2 phút sau, phi công Hồ Văn Quỳ chớp được thời cơ công kích, bắn rơi ngay 1 F-105 ở đông Thọ Xuân 15km. Biên đội phân thành 2 tốp, thoát ly về sân bay Nội Bài hạ cánh. Lần đầu tiên ta đã dẫn thành công MIG-17 chặn kích và bắn rơi được máy bay cường kích địch.​
Ngày 17 tháng 6 năm 1965, biên đội Lâm Văn Lích - số 1, Cao Thanh Tịnh - số 2, Lê Trọng Long - số 3 và Nguyễn Nhật Chiêu - số 4 được trực ban dẫn đường Trần Quang Kính tại sở chỉ huy dẫn vào đánh một tốp lớn, 20 chiếc cường kích trên Đường 12A, nhưng bất ngờ gặp phải tốp máy bay tiêm kích địch tại khu vực Nho Quan. Trên hiện sóng, trực ban dẫn đường Nguyễn Văn Chuyên thấy rõ ta dịch và dẫn tiếp biên đội bám theo. Số 1 phát hiện F-4, 6km. Không chiến quyết liệt diễn ra chỉ trong khoảng 2 phút. Các phi công Lâm Văn Lích và Lê Trọng Long, mỗi người bắn rơi 1 chiếc F-4. Số 2 và số 4 bị trúng tên lửa của F-4, nhưng nhảy dù an toàn, số 3 hy sinh, do bị đâm vào núi trong quá trình cơ động phản kích ở độ cao thấp. Số 1 được sở chỉ huy dẫn về hạ cánh an toàn tại Nội Bài. Đây là trận "tao ngộ chiến" đầu tiên giữa MiG-17 và F-4. Các phi công của ta không hề nao núng, quyết đánh và bắn rơi địch, mặc dù phải chịu tổn thất. Đây còn là trận đầu tiên dẫn đường hiện sóng đã trực tiếp dẫn phi công phát hiện được địch.

Ngày 20 tháng 6 năm 1965, đôi bay: Mai Đức Toại - số 1 và Nguyễn Văn Lai - số 2 được dẫn chặn kích một tốp 6 chiếc cường kích AD-6, vào từ phía tây thị xã Thanh Hóa, dọc theo Đường 15, lên đánh lại các mục tiêu ở khu vực Quan Hóa - Bá Thước. Trên hướng xuất kích 230 độ, khi đến ngang Tân Lạc, thấy có khả năng bị xông trước, trực ban dẫn đường Trần Quang Kính cho đôi bay vừa giảm tốc độ vừa vòng xuống hướng 170 độ, rồi cắt vào bên phải đội hình của địch, nhưng cự ly quá gần, buộc phải tách sang bên trái. Trực ban dẫn đường Nguyễn Văn Chuyên tiếp tục phát huy khả năng xác định chính xác vị trí ta-địch trên hiện sóng và chỉ sau vài khẩu lệnh thông báo, số 1 phát hiện AD-6 bên phải, 2km. Số 1 vào công kích nhiều lẩn, nhưng chỉ bắn bị thương 1 chiếc. Phi công Nguyễn Văn Lai bắn rơi 2 AD-6 và trở thành phi công đầu tiên của Không quân nhân dân Việt Nam trong một trận bắn rơi 2 máy bay địch, nhưng sau đó đồng chí hy sinh do bị đâm vào núi. Thấy diễn biến trận đánh có chiều hướng phức tạp, Sở chỉ huy Quân chủng cho đôi bay Nguyễn Văn Bảy - số 1 và Đỗ Huy Hoàng - số 2 lên yểm hộ cho đồng đội về hạ cánh. MIG-17 của Không quân nhân dân Việt nam đã lập chiến công mới: lần đầu tiên bắn rơi máy bay cường kích cánh quạt AD-6 của không quân Mỹ.

Ngày 24 tháng 6 năm 1965, Sở chỉ huy Quân chủng dẫn đôi bay: Trần Huyền và Trần Ngọc Xíu (Trần Ngọc Síu) vào không chiến với F-4 ở độ cao 6.500m tại khu vực Bắc Giang - Bắc Ninh - Phả Lại. Ta bám được địch, nhưng bắn xa, không kết quả. Ngày 10 tháng 7, đôi bay: Phạm Thanh Nhạ và Nguyễn Cương cũng được dẫn vào không chiến với 8 chiếc F-4 ở độ cao 8.000m tại khu vực phía nam dãy Tam Đảo. Địch dùng một tốp 6 chiếc F-4 khác yểm hộ ở phía bắc dãy Tam Đảo. Sau hơn 2 phút không chiến, ta bắn rơi 1 F-4, địch bắn rơi 1 MIG-17 và 1 MIG-17 bị tai nạn. Cả hai phi công của ta đều hy sinh.​
[FONT=&quot][/FONT]
[FONT=&quot] [/FONT]​
 

Estonque

Xe điện
Biển số
OF-27090
Ngày cấp bằng
7/1/09
Số km
3,122
Động cơ
517,199 Mã lực
Nơi ở
Nhà BVC
Qua 5 trận trong vòng hơn một tháng, hiệu quả chiến đấu của không quân ta chưa đạt yêu cầu, tu,y bắn rơi được 6 chiếc, trong đó có 3 chiếc là F-4 tiêm kích, nhưng cũng bị tổn thất nặng cả về máy bay và phi công. Trong tổ chức một số trận đánh, còn có biểu hiện nôn nóng, chưa lường hết các thủ đoạn của không quân địch đối phó với MIG-17...

Để thực hiện được tư tưởng chỉ đạo tác chiến trong thời gian này là đánh để rèn luyện là chủ yếu, vừa đánh vừa rút kinh nghiệm, chỉ đánh khi chắc thắng, quyết tâm đánh đúng đối tượng. Từ quý III năm 1965, không quân ta giảm cường độ chiến đấu, tăng cường nghiên cứu địch, tìm tòi các cách đánh và cách dẫn thích hợp hơn, đồng thời tranh thủ tổ chức bay huấn luyện.

Giữa năm 1965, không quân ta có thêm 30 phi công chiến đấu được đào tạo từ Liên Xô và Trung Quốc về nước; đến tháng 8 năm 1965, không quân ta được trang bị thêm một số loại máy bay mới. Bộ Quốc phòng quyết định thành lập trung đoàn không quân tiêm kích thứ hai: Trung đoàn 923.

Ngay sau khi được thành lập, Trung đoàn 923 đã khẩn trương tổ chức tiếp nhận sân bay Kép làm căn cứ đóng quân. Ngày 7 tháng 9 năm 1965, những chiếc máy bay MiG-17 đầu tiên của trung đoàn đã được chuyển sân từ Nội Bài về Kép an toàn. Trung đoàn nhanh chóng ổn định tổ chức, tranh thủ bay huấn luyện và triển khai trực chiến ở cả hai sân bay Kép và Nội Bài. Để sẵn sàng tham gia đánh địch, về công tác dẫn đường, trung đoàn đã kế thừa những phương án dẫn MIG-17 của Trung đoàn 921, đồng thời bắt tay ngay vào xây dựng mới các phương án dẫn bay đánh địch bảo vệ vùng trời Đông Bắc của Hà Nội, trước tiên là phương án dẫn bay đánh cường kích bảo vệ Đường 1 bắc, đoạn Hà Nội - Lạng Sơn (Phương án tác chiến, quyển K19). Đội ngũ dẫn đường của trung đoàn vừa bảo đảm bay huấn luyện vừa tham gia trực chiến.

Trung đoàn 921, sau khi thực hiện chuyển một phần lực lượng của mình sang Trung đoàn 923, đã tổ chức tiếp nhận 12 chiếc máy bay tiêm kích MIG-21PFL đầu tiên và 12 chiếc máy bay Il-28 đầu tiên, trong đó có 8 chiếc ném bom, 2 chiếc trinh sát và 2 chiếc huấn luyện, đồng thời đẩy nhanh công tác huấn luyện chuyển loại MiG-21 và tiếp tục tổ chức đánh địch bằng MIG-17 trực chiến tại Nội Bài.

Tháng 9 năm 1965, địch tăng cường lực lượng đánh các tuyến giao thông đường bộ và đường sắt từ Hải Phòng, Lạng Sơn, Lào Cai về Hà Nội và từ Hà Nội vào Khu 4. Chúng rất chú trọng đối phó với tên lửa, pháo cao xạ và máy bay tiêm kích của ta.​
Ngày 20 tháng 9 năm 1965, Trung đoàn 921 vào trận bằng biên đội MiG-17: Phạm Ngọc Lan - số 1, Nguyễn Nhật Chiêu - số 2, Trần Văn Trì - số 3 và Nguyễn Ngọc Độ - số 4. Kíp trực Ban Dẫn đường Quân chủng: Nguyễn Văn Chuyên tại sở chỉ huy và Vũ Đức Bình trên hiện sóng của đài 402 tại C-29A ở Bạch Mai sẵn sàng chờ lệnh. Các tốp cường kích A-4 từ phía Hồng Gai bay qua dãy Yên Tử, hướng vào khu vực ga Bắc Lệ - cầu Sông Hóa, còn tiêm kích F-4 bay yểm hộ khu vực tại Nhã Nam. Biên đội của ta, sau khi cất cánh được sở chỉ huy dẫn vòng qua Phúc Yên, rồi bay lên hướng bắc. Khi ta đến ngang Chợ Mới, thấy tốp F-4 đã ra khỏi Nhã Nam, sở chỉ huy cho biên đội vòng phải sang hướng đông. Lúc này trên hiện sóng, phát hiện tốp địch vào Sông Hóa đột nhiên bị mất tín hiệu, trực ban dẫn đường Vũ Đức Bình báo cáo ngay về sở chỉ huy. Trực ban dẫn đường Nguyễn Văn Chuyên lập tức nhắc phi công chú ý cảnh giới bên phải, phía dưới và sau đó cho vòng gấp xuống hướng nam. Đột nhiên, số 2 báo cáo phát hiện F-4, 12km. Ta vào không chiến ở thế chủ động. Phi công Nguyễn Nhật Chiêu bám sát một chiếc, ngắm đúng yếu lĩnh, bắn 2 loạt, hạ ngay 1 F-4 tại chỗ. Thấy ta gặp phải tiêm kích địch, Sở chỉ huy Quân chủng cho đôi bay MiG-17: Bùi Đình Kình và Đào Công Xưởng cất cánh lên yểm hộ và sau đó cho biên đội Lan – Chiêu – Trì - Độ thoát ly. Khi biên đội vào hạ cánh, nhưng địch vẫn còn, Sở chỉ huy Quân chủng cho tiếp đôi bay MIG-17: Hồ Văn Quỳ và Nguyễn Biên cất cánh. Tại khu chiến, theo đúng kế hoạch hiệp đồng, khi tất cả các máy bay của ta vừa thoát ly xong, các đơn vị tên lửa và pháo cao xạ bảo vệ khu vực ga Bắc Lệ và cầu Sông Hóa đồng thời đánh địch và bắn rơi 2 A-4.

Một trận đánh đầy ý nghĩa. Địch lợi dụng dãy Yên Tử, bay thấp để che dấu lực lượng. Ta đổi hướng xuất kích, gây bất ngờ cho chúng. Khi ra-đa dẫn đường không bắt được địch từ cầu Sông Hóa đến Võ Nhai, dẫn đường xử lý đúng và phi công phát hiện nhanh, giành quyền chủ động vào không chiến. Cả 3 lực lượng không quân, tên lửa phòng không và pháo cao xạ đều bắn rơi địch trong chiến đấu hiệp đồng.

Việc trợ lý Nguyễn Văn Chuyên được chuyển từ dẫn trên hiện sóng sang dẫn tại sở chỉ huy và dẫn thành công ngay từ lần dẫn đầu tiên đã mở ra cho Ban Dẫn đường một hướng đi mới là hoàn toàn có thể phát huy hết mọi khả năng và trình độ của đội ngũ trợ lý dẫn đường để đưa vào trực ở bất kỳ vị trí nào khi nhiệm vụ cần đến. Từ thực tiễn này, ngành Dẫn đường Không quân đã tạo nên hình thức huấn luyện tại chức mới trong thời chiến cho đội ngũ dẫn đường sở chỉ huy là đồng hóa nghiệp vụ giữa hai vị trí trực ban chủ yếu là dẫn tại sở chỉ huy và dẫn trên hiện sóng. Cũng trong trận này, trợ lý Vũ Đức Bình, sau khi được phê chuẩn vào trực, đã hoàn thành tốt nhiệm vụ trong lần dẫn chiến đấu đầu tiên của mình.​
Ngày 6 tháng 11 năm 1965, biên đội MIG-17: Trần Hanh - số 1, Ngô Đoàn Nhung - số 2, Phạm Ngọc Lan - số 3 và Trần Minh Phương - số 4 của Trung đoàn 921 trực chiến tại Nội Bài. Kíp trực Ban Dẫn đường Quân chủng: Lê Thành Chơn tại sở chỉ huy và Đào Ngọc Ngư trên hiện sóng của đài 402 tại C-29A ở Bạch Mai được ban bố trí vào làm nhiệm vụ. Địch cho trực thăng vào tìm - cứu giặc lái trong khu vực Đường 12A và 21A thuộc tỉnh Hòa Bình. Sau khi cất cánh xong, MIG-17 được dẫn xuống Mỹ Đức. Nhờ có dẫn đường hiện sóng bám sát ta - địch liên tục, nên dẫn đường tại sở chỉ huy đã dẫn biên đội hai lần vào tiếp địch với góc cắt chéo gần 90 độ, nhưng phi công vẫn không phát hiện được mục tiêu. Đến lần thứ ba, trực ban dẫn đường Lê Thành Chơn cho biên đội vòng lại đối đầu. Sau một vài khẩu lệnh thông báo, phi công Ngô Đoàn Nhung đã phát hiện được địch ở cự ly 10km. Anh vận dụng thành thạo các động tác cơ động chiếm vị, xạ kích mục tiêu bay thấp, tốc độ nhỏ trên địa hình rừng núi và bắn rơi tại chỗ 1 CH-47 ở nam-tây nam Chợ Bến 10km. Đây là chiếc trực thăng của không quân Mỹ đầu tiên bị MiG-17 của Không quân nhân dân Việt Nam bắn rơi.

Với kết quả của trận này, cả Ban Dẫn đường đều vui mừng, vì một sáng tạo nữa là đã đào tạo tại chức một nhân viên tiêu đồ gần có năng lực, trở thành sĩ quan dẫn đường và đưa vào dẫn chiến đấu thành công trong lần dẫn đầu tiên. Đó là đồng chí Lê Thành Chơn.

*
* *​
 

Estonque

Xe điện
Biển số
OF-27090
Ngày cấp bằng
7/1/09
Số km
3,122
Động cơ
517,199 Mã lực
Nơi ở
Nhà BVC
Với cái gọi là "thiện chí hòa bình" hòng lừa bịp dư luận trong nước và quốc tế, tổng thống Mỹ L.Giôn-xơn đã tạm ngừng đánh phá miền Bắc Việt Nam từ ngày 24 tháng 12 năm 1965 đến ngày 31 tháng 1 năm 1966, để thực hiện một âm mưu mới là tiến hành phản công chiến lược ở miền Nam Việt Nam, tiếp tục mở rộng phạm vi và tăng nhanh cường độ đánh phá ra miền Bắc. Trước tình hình đó, nhiệm vụ của không quân là cùng với các lực lượng phòng không, chiến đấu bảo vệ hệ thống đường giao thông huyết mạch và các mục tiêu quan trọng được giao.

Từ cuối năm 1965 đến đầu năm 1966, Trung đoàn 921 được trang bị thêm 28 chiếc MIG-17PF (có ra-đa bắt mục tiêu trên không) và Trung đoàn 923 có thêm 26 chiếc MIG-17F. Hai loại MIG-17 này, tuy vẫn chỉ có pháo và có thể mang 2 thùng rốc-két, nhưng lại có hệ thống tăng lực mạnh. Mỗi trung đoàn không quân có một đại đội ra-đa dẫn đường phục vụ với đài ra-đa dẫn đường P-35 và đài ra-đa đo cao PRV-11. Vào thời gian đầu năm 1966, đội ngũ dẫn đường sở chỉ huy, nhất là ở hai trung đoàn 921 và 923 cũng đã được bổ sung khá đầy đủ về số lượng và được huấn luyện rất chu đáo. Cả hai tiểu ban Dẫn đường đều có khả năng trực tiếp tham gia dẫn MiG-17 đánh địch.​
Nhiệm vụ quan trọng của ngành Dẫn đường lúc này là tổ chức dẫn đường chiến đấu phân thành hai cấp quân chủng và trung đoàn không quân. Đối với cấp quân chủng, ngoài việc chịu trách nhiệm dẫn chính . Ban Dẫn đường còn phải nghiên cứu và xác định các điều kiện khi quyết định dẫn vượt cấp (can thiệp trực tiếp bất cứ lúc nào khi cấp trung đoàn không quân đang dẫn) và dẫn bổ trợ (dẫn từng phần khi cấp trung đoàn chịu trách nhiệm dẫn chính). Đối với cấp trung đoàn không quân, ngoài việc đảm nhiệm dẫn bổ trợ (dẫn từng phần theo sự phân công của cấp trên), các tiểu ban Dẫn đường sẽ phải tự tổ chức dẫn chính các trận đánh của trung đoàn mình. Khả năng dẫn đường từ mặt đất của Quân chủng được mở rộng. Cơ hội dẫn đánh địch ngày càng nhiều cho cả hai cấp và đặc biệt cho lớp dẫn đường mới, đang nóng lòng muốn được tham gia chiến đấu.

Mở màn cho năm 1966 là trận đánh không thể nào quên vào đêm 3 tháng 2. Từ chiều tối, ta phát hiện địch có triệu chứng sẽ tổ chức hoạt động trên hướng tây nam Hà Nội. Đến 19 giờ, ý đồ của địch vào đánh Đường 15A đoạn Suối Rút-quan Hóa, Đường 21A đoạn Hòa Bình-tân Lạc và đường 6 đoạn Hòa Bình-suối Rút trở nên rất rõ ràng. Các thủ trưởng trực chỉ huy Nguyễn Văn Tiên và Trần Hanh (Bản can và sơ đồ trận đánh) hạ quyết tâm cho MIG- I7PF xuất kích. Kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 921: Phạm Công Thành dẫn tại sở chỉ huy, Lê Thiết Hùng trên hiện sóng chịu trách nhiệm dẫn chính và kíp trực ban dẫn đường Quân chủng: Phạm Từ Tịnh tại sở chỉ huy và Nguyễn Văn Chuyên trên hiện sóng đảm nhiệm dẫn bổ trợ. Sau khi cất cánh, phi công Lâm Văn Lích được dẫn ra phía Hòa Bình và lên độ cao 3.000m. Ta bay qua Hòa Bình 1 phút, lên tiếp độ cao 4.500m và vòng trái để bám theo tốp cường kích địch thứ nhất đang hoạt động trên trục Tân Lạc - Suối Rút . Tại tây nam Tân Lạc địch vòng đi, vòng lại, ta rơi vào thế đối đầu. Khi chúng lên đến tây bắc Tân Lạc lại vòng đi, vòng lại lần thứ hai, ta từ thế ngang bằng trở thành xông trước. Lúc lên tới tây bắc Suối Rút 25km, địch vòng thêm một vòng để quay về Mai Châu thì ta hoàn toàn ở phía trước địch 12km.

Sở chỉ huy trung đoàn nhận định: Địch chưa phát hiện có MIG đang săn đuổi, Dẫn đường xin tiếp tục dẫn. Khi còn cách Mai Châu 10km, trực ban dẫn đường Phạm Công Thành cho phi công vòng trái 1 vòng. Ta lật ngược tình thế, bám vào phía sau tốp địch thứ nhất. Phi công Lâm Văn Lích bình tĩnh ngắm bắn, rồi thoát ly sang phải. Một chiếc bị trúng đạn. Cùng lúc đó, trực ban dẫn đường Lê Thiết Hùng thông báo có tốp cường kích thứ hai đang bay ở phía trước. Phi công Lâm Văn Lích lập tức phát hiện và tiếp tục ngắm bắn, chiếc thứ hai trúng đạn. Đây là hai chiếc A-6, cường kích phản lực của không quân thuộc hải quân Mỹ bị Không quân nhân dân Việt Nam lần đầu tiên bắn rơi trong đêm bằng MIG-17. Trên bàn dẫn đường: lúc 19 giờ 42 phút, tiêu đồ gần ngừng đánh dấu đường bay của hai tốp máy bay cường kích địch tại nam Mai Châu 5km và chỉ còn đi tiếp một tốp máy bay tiêm kích địch đang quần đảo ở trên cao. Sau khi dẫn phi công thoát ly về phía Hòa Bình, sở chỉ huy cho giảm dần độ cao xuống 1.000m và dẫn thẳng về sân bay Nội Bài. Tốp F-4 từ Suối Rút cũng bay theo hướng đó, trên độ cao 5.000m, có lúc xuống tới 3.000m và vào đến tận Hòa Lạc, nhưng không phát biện được ta, đành phải kéo cao, quay ra.​
So với trận dẫn đánh đêm lần đầu tiên cách đây gần hai năm, trong trận này, ta có điều kiện tập trung hai kíp trực ban dẫn đường ở cả 2 cấp quân chủng và trung đoàn. Trong đó, phạm Từ Tịnh, Phạm Công Thành và Lê Thiết Hùng là ba sĩ quan dẫn đường lần đầu tiên bước vào dẫn chiến đấu. Tất cả đều quyết tâm dẫn đánh đúng đối tượng, bình tĩnh phán đoán đúng động thái của địch trong trận đánh, kiên trì dẫn chuyển thế chiến thuật từ đối đầu sang bám vào phía sau mục tiêu để tạo điều kiện thuận lợi cho phi công bắn rơi tại chỗ và nắm vững độ cao địa hình dẫn thoát ly khỏi khu chiến khi có tiêm kích địch ở phía trên.

Chiều 4 tháng 3 năm 1966, vào lúc 15 giờ 14 phút, xuất hiện một tốp địch ở đông nam Sầm Nưa 40km, rồi bay qua biên giới, lên phía đông Mộc Châu và tây nam Yên Bái. Sau đó chúng vòng một vòng khá rộng ở phía tây Hạ Hoà, Thanh Ba và ra theo đường giữa Yên Bái và Nghĩa Lộ. Từ 15 giờ 23 phút đến 15 giờ 47 phút, có nhiều tốp địch hoạt động ở khu vực Hòa Bình-mộc Châu-quan Hóa. Có khả năng địch vào trinh sát và đánh các đoạn đường sắt từ Yên Bái đến Thanh Ba. Các thủ trưởng trực chỉ huy: Phùng Thế Tài, Đào Đình Luyện, Nguyễn Văn Tiên, Trần Mạnh và Đỗ Hữu Nghĩa đều nhất trí quyết định cho biên đội MiG-17: Phạm Thành Chung - số 1, Ngô Đức Mai - số 2, Trần Minh Phương - số 3 và Nguyễn Thế Hôn - số 4 của Trung đoàn không quân 923, đang trực chiến ở Nội Bài vào trận. Kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 921 Phạm Minh Cậy tại sở chỉ huy và Lê Thiết Hùng trên hiện sóng tại C-43 ở Tân Trại được giao nhiệm vụ dẫn chính. Tại Sowr chỉ huy Quân chủng, trực ban dẫn đường Trần Quang Kính dẫn bổ trợ. 15 giờ 42.phút, biên đội cất cánh, lấy hướng xuất kích ra Mộc Châu và lên dần độ cao đến 5.300m, sau đó vòng lên Phù Yên và giảm xuống 4.300m nhằm chặn đijch cả trên đường vào và đường ra của chúng. 15 giờ 55 phút, tốp địch 4 chiếc xuất hiện ở phía đông Vạn Yên 20km, độ cao 4.500m, đang lượn vòng cơ động lên hướng tây bắc, được sở chỉ huy Trung đoàn 921 bám rất sát. Chờ đúng thời cơ lượn vòng, trực ban dẫn đường Phạm Minh Cậy cho biên đội vòng phải vào tiếp địch, hướng bay 90 độ. Số 1 phát hiện ngay F-4, 12km và chỉ huy biên đội bám theo. Sau khi đuổi kịp 1 chiếc và bắn 2 loạt, nhưng địch cơ động mạnh và tránh được số 1 thấy số 2 đang ở vị trí có lợi đối với 1 chiếc khác, liền chuyển sang yểm hộ và chỉ huy số 2 vào công kích. Phi công Ngô Đức Mai bắn 3 loạt, hạ ngay 1 F-4. Trong lúc này trên bàn dẫn đường xuất hiện thêm một tốp 4 chiếc, độ cao 4. 500m ở tây nam Phú Thọ 20km, đang vòng phải, bám vào phía sau biên đội của ta. Số 3 và số 4 đã kịp thời nhận được thông báo, vừa yểm hộ chặt chẽ cho số 1 và số 2 vừa cơ động tránh tên lửa của địch. Sau bốn phút không chiến quyết liệt, số 1 quyết định thoát ly. Cả 4 chiếc của ta bám theo nhau, chủ động xuống độ cao thấp và bay lên hướng bắc, đến Thanh Ba mới kéo cao, rồi vòng sang hướng đông, qua sông Lô, men theo triền phía nam của dãy Tam Đảo, về hạ cánh tại Nội Bài.

Đây là trận đánh đầu tiên của Trung đoàn 923 kể từ khi được thành lập. Kíp trực ban dẫn đường đã lựa chọn khu chiến hợp lý, dẫn vòng vào tiếp địch từ phía tây, bảo đảm bí mật, bất ngờ; đã tiếp nối truyền thống dẫn đánh thắng trận đầu cho trung đoàn mới, góp công bắn rơi địch tại chỗ. Nhiệm vụ dẫn MiG-17 của Trung đoàn 923 xuất kích từ Nội Bài đã được kíp trực ban dẫn đường của Trung đoàn 921 hoàn thành xuất sắc, đồng thời còn mở ra một khả năng mới trong tổ chức dẫn đường chiến đấu cho các phân đội của hai trung đoàn không quân cùng trực chiến trên một sân bay.​
Ngày 23 tháng 4 năm 1966, thủ trưởng trực chỉ huy Trung đoàn 923 Nguyễn Phúc Trạch tổ chức đánh liên tiếp 3 trận. Trận thứ nhất, kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 921 chịu trách nhiệm dẫn chính: Phạm Công Thành tại sở chỉ huy ở Nội Bài, Trịnh Văn Tuất trên hiện sóng và kíp trực ban dẫn đường Quân chủng đảm nhiệm dẫn bổ trợ: Lê Thành Chơn và Trần Quang Kính tại sở chỉ huy. Biên đội MIG-17: Hồ Văn Quỳ, Lưu Huy Chao, Nguyễn Biên (Nguyễn Văn Biên) và Trần Văn Triêm cất cánh từ sân bay Nội Bài lúc 11 giờ 20 phút, vào đánh địch tại khu vực Vụ Bản - Cẩm Thủy (Những thông tin tiếp theo của trận này chưa được tìm thấy). Trận thứ hai, kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 923 dẫn chính: Hà Đăng Khoa tại sở chỉ huy ở Kép và Trần Xuân Dung trên hiện sóng tại C-43 ở Tân Trại, kíp trực ban dẫn đường Quân chủng tiếp tục dẫn bổ trợ. Biên đội MIG-17: Mai Đức Toại, Võ Văn Mẫn, Nguyễn Khắc Lộc và Đỗ Huy Hoàng xuất kích từ sân bay Kép (khoảng sau 13 giờ) vào đánh máy bay cường kích ở khu vực phía tây Bình Gia - Bắc Sơn 15km. Với góc vào 30 độ sau khi phát hiện F-105, 8km, có F-4 yểm hộ phía sau, phi công Nguyễn Khắc Lộc xin vào đánh và bắn rơi 1 F-4.

Khi thoát ly, tại Kép vẫn còn địch, biên đội được dẫn về sân bay Nội Bài hạ cánh. Trận thứ ba, kíp trực Ban Dẫn đường Quân chủng chuyển từ dẫn bổ trợ sang dẫn chính và phối hợp chặt chẽ với trực ban dẫn đường Bùi Hữu Hành tại sở chỉ huy ở Kiến An. Biên đội: Lê Quang Trung, Nguyễn Thế Hôn, Ngô Đức Mai và Dương Trung Tân cất cánh từ sân bay Kiến An lúc 13 giờ 17 phút, sau đó được dẫn xuống tận Nghĩa Hưng - Hải Hậu, nhưng địch quay ra và ta quay về Kiến An hạ cánh.

Việc tổ chức dẫn MIG-17 đánh địch từ ba sân bay trong ngày 23 tháng 4 đã tạo ra một tam giác dẫn đường chiến đấu từ mặt đất đầu tiên trên miền Bắc: Nội Bài – Kép - Kiến An, nhằm đáp ứng yêu cầu thường xuyên cơ động lực lượng không quân trực chiến trên các sân bay khác nhau để tạo thế trận đánh thắng địch. Trong tam giác đó, cách thức tổ chức dẫn đường chiến đấu phân thành hai cấp đã được thực hiện khá rõ nét. Đây là sự kiện đánh dấu một bước phát triển cực kỳ quan trọng trong công tác tổ chức dẫn đường đánh địch trên không của ngành Dẫn đường Không quân.

Chiều 26 tháng 4 năm 1966, địch vào đánh Đường 10, đoạn Bình Gia- Bắc Sơn và cho tiêm kích yểm hộ tại khu vực đông Chợ Mới 30km. Biên đội: Hồ Văn Quỳ - số 1, Lưu Huy Chao - số 2, Nguyễn Văn Bảy - số 3 và Trần Văn Triêm - số 4 xuất kích từ sân bay Kép. Kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 923: Nguyễn Chuẩn tại sở chỉ huy và Trần Xuân Dung trên hiện sóng đã cho biên đội đi độ cao 2.500m vào khu vực nam Bình Gia - Bắc Sơn 15km. Do địch cơ động đổi hướng liên tục nên ta lâm vào thế đối đầu nhưng nhờ có thông báo rất kịp thời của dẫn đường hiện sóng, số 1 đã nhanh chóng phát hiện F-4, 6km. Không chiến diễn ra trong 5 phút, các phi công Lưu Huy Chao và Nguyễn Văn Bảy, mỗi người hạ 1 F-4. Sau khi cho biên đội thoát ly, sở chỉ huy trung đoàn dẫn số 1 và 3, còn số 2 tự bay về hạ cánh tại sân bay Kép. Riêng số 4 phải nhảy dù, do bị bắn nhầm.​
[FONT=&quot][/FONT]
[FONT=&quot] [/FONT]
[FONT=&quot][/FONT]​
[FONT=&quot] [/FONT]
 

Estonque

Xe điện
Biển số
OF-27090
Ngày cấp bằng
7/1/09
Số km
3,122
Động cơ
517,199 Mã lực
Nơi ở
Nhà BVC
Cuối tháng 4 năm 1966 MIG-17 bị tổn thất trong một số trận đánh ở độ cao thấp. Một trong những nguyên nhân có liên quan là tình huống trên không diễn ra rất nhanh, phối hợp sử dụng đối không chỉ huy - dẫn đường từ mặt đất chưa nhịp nhàng, nói nhiều, nghe không tinh, dẫn tới tự gây nhiễu lẫn nhau và làm cho phi công dễ nhầm lẫn, chậm xử lý (Bản can trận đánh ngày 29 tháng 4 năm 1966). Đầu tháng 5, bám sát ý kiến chỉ đạo của Cục Tham mưu Quân chủng về cách đánh của MIG-17 là tiếp tục phát huy đánh gần, vòng cơ động ở độ cao thấp, lấy đội hình chiến thuật 4 chiếc làm chính, đồng thời mạnh dạn sử dụng đội hình chiến thuật 2 chiếc, ngành Dẫn đường đã tập trung nghiên cứu kỹ các thủ đoạn bay thấp của địch, dự tính các đường bay, đội hình của cường kích, các khu vực yểm hộ của tiêm kích địch và xây dựng cách dẫn MiG-17 tránh tiêm kích, đánh cường kích ở độ cao thấp, có tốp đánh chính, có tốp yểm hộ, tăng cường "dẫn mò", tìm cách bố trí và sử dụng các đài chỉ huy bổ trợ bằng mắt thật hợp lý... Do đó, trong tháng 6, sức mạnh chiến đấu của MIG-17 tiếp tục được phát huy.

Ngày 12 tháng 6 năm 1966, thủ trưởng trực chỉ huy Trung đoàn 923 Nguyễn Phúc Trạch quyết định sử dụng lần lượt từng đôi bay MiG-17 để đánh địch. 14 giờ 41 phút, địch vào từ phía đảo Cái Bầu ở độ cao 1.900m. Sau khi vượt qua dãy Yên Tử, chúng xuống thấp. 14 giờ 43 phút, sở chỉ huy cho đôi bay: Lê Quang Trung - số 1 và Võ Vàn Mẫn - số 2 cất cánh từ Kép. Đến phút 45, đột nhiên trên các bàn dẫn đường đều không thu được tình báo địch. Từ sở chỉ huy trung đoàn, trực ban dẫn đường Hà Đăng Khoa lập tức "dẫn mò" và cho ngay đôi MIG-17 vòng về phía tây và lên đỉnh Kép, giữ độ cao 1.000m, hướng bay 90 độ, rồi liên tiếp thông báo vị trí mục tiêu. Số 1 lập tức phát hiện 2 F-8 ở đông Lục Nam 10km. Ta vòng phải, khép bớt giãn cách để giữ thế đối đầu có lợi, rồi lật ngay sang trái. Sau hai vòng cơ động với độ nghiêng lớn và tăng lực mạnh ở độ cao thấp, phi công Lê Quang Trung bắn rơi 1 F-8. 14 giờ 53 phút, thủ trưởng Nguyên Phúc Trạch cho đôi bay: Phạm Thành Chung và Dương Trung Tân lên yểm hộ, vì trước đó xuất hiện thêm ba tốp địch từ phía Đường 18 bay lên. Đúng 15 giờ, đôi bay Trung - Mẫn hạ cánh và 3 phút sau, đôi bay Chung - Tân cũng hạ cánh xuống Kép. Đây là trận dẫn đánh nhanh - diệt gọn đầu tiên của Không quân nhân dân Việt Nam và lập kỷ lục: thời gian từ cất cánh đến hạ cánh chỉ mất 17 phút, bắn rơi 1 máy bay địch.

Chiều 21 tháng 6 năm 1966, thủ trưởng trực chỉ huy Trung đoàn 923 Trần Trọng Thuyết tổ chức đánh hiệp đồng giữa MIG-17 và cao xạ. Kíp trực ban dẫn đường: Bùi Hữu Hành tại sở chỉ huy và Hà Đăng Khoa trên hiện sóng đã dẫn biên đội: Phạm Thành Chung - số 1, Dương Trung Tân - số 2, Nguyễn Văn Bảy - số 3 và Phan Văn Túc - số 4 cất cánh từ Kép, bay thấp vào khu chiến Kép - Chũ. Mặc dù ra-đa dẫn đường bắt địch không tốt, nhưng dẫn đường sở chỉ huy xử lý dẫn mò chính xác. Biên đội vào tiếp địch với góc 60 độ số 2 phát hiện nhanh. Ta và địch đan vào nhau, không chiến trong 2 phút 20 giây. Phạm Thành Chung và Phan Văn Túc, mỗi phi công bắn rơi 1 F-8E, nhưng số 2 phải nhảy dù, do bị trúng tên lửa của địch. Đây là trận dẫn đánh nhanh - diệt gọn thứ hai: mất 18 phút, bắn rơi 2 máy bay địch.​
Trưa 29 tháng 6 năm 1966, địch tập trung lực lượng đánh kho xăng Đức Giang từ hướng bắc. Thủ trưởng trực chỉ huy Trung đoàn 923 Đỗ Hữu Nghĩa quyết định cho biên đội: Trần Huyền - số 1, Võ Văn Mẫn - số 2, Nguyễn Văn Bảy - số 3 và Phan Văn Túc - số 4, đang trực chiến tại Nội Bài, xuất kích. Kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn không quân 921: Phạm Công Thành tại sở chỉ huy, Lê Thiết Hùng trên hiện sóng và trực ban dẫn đường Quân chủng Nguyễn Văn Chuyên đã phối hợp chặt chẽ với nhau, cho biên đội giá độ cao 500m, vòng qua cầu Đa Phúc, men theo phía nam dãy Tam Đảo, rồi kéo cao vọt lên, vào tiếp địch ở giữa hai đỉnh 1591 và 1263. Với góc vào 60 độ, số 3 phát hiện địch xa 15km. Cách dẫn táo bạo này đã tạo điều kiện rất thuận lợi cho các phi công Nguyễn Văn Bảy và Phan Văn Túc hạ liên tiếp 2 F-105. Khi quay về Nội Bài, nhờ có các thông báo về địch của đài chỉ huy bổ trợ tại núi Am Lợn (điểm cao 462, bắc sân bay Nội Bài 10km) và đài chỉ huy bay tại sân Nội Bài, nên biên đội đã nhanh chóng chuyển hướng xuống Gia Lâm hạ cánh an toàn. Đây là trận dẫn đánh nhanh - diệt gọn phá kỷ lục: chỉ mất 15 phút, bắn rơi 2 máy bay địch, lại là cường kích. Trong trận này còn thể hiện được cách dẫn mới đi thấp - kéo cao - vào tiếp địch rất hiệu quả và lần đầu tiên sử dụng đài chỉ huy bổ trợ bằng mắt thông báo tình hình trên không cho phi công rất kịp thời.

Cũng trong tháng 6 năm 1966, đội ngũ dẫn đường sở chỉ huy của Trung đoàn 923 đã đưa một phần lực lượng của mình tham gia trực ban tại sở chỉ huy hỗn hợp ở Gia Lâm và sẵn sàng thực hiện các phương án dẫn MIG-17 xuất kích từ Gia Lâm. Đây là bước phát triển tiếp theo của tam giác dẫn đường chiến đấu Nội Bài – Kép - kiến An, góp phần rất quan trọng cho các tháng 7, 8, 9 là ba tháng triển hình dẫn MIG-17 phát huy sức mạnh, đạt hiệu quả chiến đấu cao.

Trong tháng 7 năm 1966, các kíp trực ban dẫn đường đã dẫn MiG-17 thực hiện đúng cách đánh do Cục Tham mưu đề ra, lựa chọn khu chiến phù hợp và đánh đúng đối tượng. Khi dẫn đánh ở độ cao thấp, ta đã kết hợp chặt chẽ giữa dẫn tại ở chỉ huy và dẫn trên hiện sóng ở cả hai cấp quân chủng và trung đoàn (ngày 14 tháng 7, đôi bay: Lê Quang Trung và Ngô Đức Mai hạ 2 A-4 ở độ cao 100 và 80m); các đài chỉ huy bổ trợ bằng mắt: từ thông báo tình hình địch, chuyển sang chỉ huy - dẫn đường cho phi công cơ động phát hiện, bám địch và phản kích khi bị địch uy hiếp (ngày 19 tháng 7, đài bổ trợ tại núi Am Lợn và tại sân Nội Bài, trong tầm mắt của mình đã giúp đôi bay: Nguyễn Biên và Võ Văn Mẫn cơ động phát hiện F-105, 4km, bám địch liên tục và mỗi phi công bắn rơi 1 F-105). Đội ngũ dẫn đường sở chỉ huy đã đóng góp vào chiến công chung của MiG-17 bắn rơi: 3 A-4 (phi công MiG-17 Phan Văn Na bắn rơi chiếc A-4 đầu tiên), 2 F-105, 1 C-47 đây là chiếc máy bay vận tải đầu tiên bị biên đội MiG-17: Hồ Văn Quỳ - Lưu Huy Chao - Nguyễn Biên - Trần Văn Triêm bắn rơi) và 1 F-8.​
Trong 2 tháng 8 và 9 năm 1966, ta tiếp tục dẫn MIG-17 đánh thắng địch ở độ cao thấp trên nhiều khu vực khác nhau như: đông nam Nghĩa Lộ 25km, Ninh Bình - Phủ Lý, Đông Triều - Phả Lại, nam Lục Nam 10km, Thái Nguyên, Việt Trì, cầu Đuống... Tác dụng chỉ huy-dẫn đường của các đài chỉ huy bổ trợ bằng mắt ngày càng tăng. Tháng 8, MiG-17 bắn rơi 3 F-105 và 1 A-4; tháng 9 bắn rơi 2 F-105, 3 F-4, 2 F-8 và 1 chiếc không người lái.

*​

* *​
 

Estonque

Xe điện
Biển số
OF-27090
Ngày cấp bằng
7/1/09
Số km
3,122
Động cơ
517,199 Mã lực
Nơi ở
Nhà BVC
Từ tháng 8 năm 1965, Trung đoàn không quân 921 được trang bị máy bay tiêm kích thế hệ mới MiG-21 (PFL-76), có tính năng kỹ-chiến thuật tốt và mang 2 quả tên lửa hoặc 2 thùng rốc-két và 1 khẩu pháo 23mm. Đội ngũ dẫn đường tham gia học tập chuyển loại, từng bước hoàn thiện kỹ năng gắn MiG-21 và xây dựng các phương án dẫn đường chiến đấu cho MIG- 21. Mọi người luôn mong mỏi phát huy truyền thống của trung đoàn đã đánh thắng địch bằng MIG-17 thì sẽ đánh thắng địch bằng MIG-21.

Đầu tháng 2 năm 1966, lực lượng MiG-21 bắt đầu vào trực chiến tại Nội Bài. Những phi công bay giỏi, có bản lĩnh; những sĩ quan dẫn đường có trình độ đã được luân phiên bố trí trực ban chiến đấu. Tất cả đều quán triệt tư tưởng chỉ đạo của **** ủy và Bộ Tư lệnh Quân chủng là trong những tháng đầu năm 1966, bộ đội không quân vừa đẩy mạnh các mặt xây dựng vừa tổ chức một số trận đánh bằng các loại máy bay mới để rút kinh nghiệm.

Trưa ngày 4 tháng 3 năm 1966, sau khi nhận được tin địch cho máy bay không người lái vào trinh sát miền Bắc, thủ trưởng trực chỉ huy Quân chủng Nguyễn Văn Tiên yêu cầu tổ chức theo dõi chặt chẽ trên bảng tiêu đồ xa và chỉ thị cho MiG-21 sẵn sàng xuất kích. 13 giờ 53 phút, xuất hiện một tốp trên biên giới (phía tây Quan Hóa), bay qua Suối Rút, rồi hướng lên Việt Trì, Bắc Cạn; độ cao 9.000m, rồi tăng dần lên đến 18.000m, tốc độ khoảng gần 800km/h, có thể là máy bay không người lái. 13 giờ 56 phút, xuất hiện thêm một tốp ở Vụ Bản, độ cao 5.000m, rồi bay qua phía đông Hà Nội, hướng lên Thái Nguyên. Từ sở chỉ huy Trung đoàn 921, trực ban dẫn đường Phạm Công Thành thông báo ngay tình hình cho trực ban dẫn đường hiện sóng Trịnh Văn Tuất, tại C-45. Mặc dù lúc đó ra-đa dẫn đường chưa bám sát được địch, nhưng căn cứ vào khả năng có thể dẫn ta đánh đúng đối tượng, trực ban dẫn đường Phạm Công Thành đề xuất cho phân đội trực chiến xuất kích. Thủ trưởng trực chỉ huy trung đoàn Đào Đình Luyện đồng ý.​
Dựa vào tình báo xa, 14 giờ 05 phút, sở chỉ huy cho phi công Nguyễn Hồng Nhị cất cánh, giữ hướng bay 285 độ và lên độ cao; 2 phút sau, thông báo: mục tiêu hướng bay 110 độ, độ cao 19.500m. Ta đến Việt Trì, sở chỉ huy cho hướng bay 320 độ, lên độ cao 6.000m, rồi 7.000m. Khi ngang Đoan Hùng, thấy khả năng bị lạc hậu và thấp hơn địch quá nhiều, dẫn đường cho phi công vừa vòng phải vừa tăng lực để tăng tốc độ lên M=1,3 (khoảng 1.400km/h) và tăng độ cao lên 13.000m, giữ hướng bay 90 độ, rồi tiếp tục tăng tốc độ lên M=1,6 (khoảng 1.700km/h) và độ cao lên 14.000m, nhưng ta vẫn lạc hậu và thấp hơn địch. Thủ trưởng Đào Đình Luyện chỉ thị: Kiểm tra và dẫn theo số liệu bay thực tế của phi công. Sau khi qua đông nam Bắc Sơn 15km, địch vòng phải và đến Lục Nam, lại vòng trái ra hướng đông và vẫn ở độ cao 19.500m. Ta vòng phải, hướng bay 150 độ, tăng tốc độ lên M=1,7 (khoảng 1.800km/h) và độ cao lên 17.000m, đuổi theo. Dẫn đường lần lượt thông báo độ cao, cự ly và vị trí mục tiêu, đồng thời bám sát số liệu bay thực tế của phi công. Sau khi ta vòng trái vào hướng 90 độ, địch còn ở phía trước 30km và cao hơn ta 2.500m. Phi công Nguyễn Hồng Nhị tập trung quan sát, sau đó phát hiện mục tiêu, ngắm bằng ra-đa trên máy bay và phóng 2 quả tên lửa K-13, chiếc không người lái bốc cháy. Đây là chiếc BQM-34A, không người lái đầu tiên của không quân Mỹ bị Không quân nhân dân Việt Nam bắn rơi. Trận đầu ra quân, MiG-21 đã đánh thắng. Ta về hạ cánh an toàn.

Dẫn đánh trận này còn là một sự kiện quan trọng đối với công tác dẫn đường sở chỉ huy, lần đầu tiên ta đã sử dụng tốc độ vượt âm thanh để dẫn chặn kích ở độ cao cao. Từ thực tiễn trận đánh cho thấy, kỹ thuật dẫn bay khi sử dụng tốc độ vượt âm thanh ở độ cao cao trong quá trình lấy độ cao, tăng tốc độ, cho lượn vòng vào tiếp địch và bám đuổi mục tiêu đối với MiG-21 rất khác khi sử dụng tốc độ dưới âm thanh ở độ cao trung bình. Chính vì thế, cần phải có trình độ dẫn bay chuyên sâu và rất thuần thục mới mang lại hiệu quả chiến đấu cao.

Từ cuối tháng 4 đến đầu tháng 11 năm 1966, ta tổ chức dẫn MiG-21 đánh nhiều trận. Tham gia trực ban dẫn đường ở Quân chủng và Trung đoàn không quân 921 đều là những gương mặt quen thuộc, có nhiều kinh nghiệm dẫn MIG-17 đánh đạt hiệu quả cao. Còn trong quá trình dẫn MIG-21, tuy ta đã triệt để áp đụng cách đánh và cách dẫn của MiG-17, thời cơ xuất kích được lựa chọn phù hợp, khu chiến quen thuộc, ra-đa dẫn đường bắt ta-địch tốt, thời tiết giản đơn, phi công phát hiện sớm, nhưng phóng tên lửa và rốc két lại gặp nhiều khó khăn, hiệu quả chiến đấu thấp hơn MIG-17.

Nếu chỉ tính những trận ta đánh cường kích và tiêm kích địch, theo góc vào, có 3 trận dẫn MiG-21 vào đối đầu có giãn cách, ta đều thắng (bắn rơi địch, ta an toàn); 3 trận dẫn vào tiếp địch với góc lớn (trên 90 độ), ta thắng 1, không thành công 2 (không bắn rơi địch, ta phải nhảy dù hoặc hy sinh và bắn rơi địch ít hơn, ta phải nhảy dù hoặc hy sinh); 1 trận dẫn vào tiếp địch với góc trung bình (60 độ), ta thắng có tổn thất (bắn rơi địch nhiều hơn, ta phải nhảy dù hoặc hy sinh); 1 trận dẫn vào tiếp địch với góc nhỏ (15 độ), ta thắng. Theo tốc độ chênh lệch (ΔV) khi tiếp địch, có 5 trận với ΔV = +150, +100 và +50km/h, ta thắng 4 và thắng có tổn thất 1; 2 trận có ΔV = +400 và - 50km/h, ta đều không thành công.​
Về sử dụng tên lửa và rốc-két, trong các trận đánh từ cuối tháng 4 đến đầu tháng 11 năm 1966, ta bắn rơi 4 F-105, 3 F-4 và 3 chiếc không người lái, chủ yếu bằng tên lửa. Trong đó, Trần Ngọc Xíu là phi công MiG-21 đầu tiên bắn rơi F-105 (ngày 7 tháng 7) và Bùi Đình Kình là phi công MiG-21 đầu tiên bắn rơi F-4 (ngày 5 tháng 10) đều bằng tên lửa, Nguyễn Văn Minh là phi công MIG-21 đầu tiên trong 1 trận bắn rơi 2 máy bay địch (2 F-4), đồng thời là phi công MiG-21 đầu tiên bắn rơi địch bằng rốc-két (ngày 9 tháng 10). Nhưng còn có ít nhất 4 trận, ta phóng tên lửa, địch không rơi (vào F-105, ngày 17 tháng 8 và vào máy bay không người lái, ngày 23 tháng 9) và phóng tên lửa quả không đi, quả không trúng (vào EB-66, ngày 2 và ngày 3 tháng 11).

Qua phân tích từ nhiều góc độ khác nhau, vấn đề mấu chốt được đặt ra lúc này là dẫn đường phải tìm ra cách dẫn và phi công phải tìm ra cách điều khiển máy bay để sau khi vào tiếp địch, phi công có đầy đủ mọi điều kiện quy định về ngắm và phóng tên lửa vào các loại mục tiêu khác nhau. Căn cứ vào quyết tâm bắn rơi địch bằng tên lửa của tập thể lãnh đạo và chỉ huy Trung đoàn 921, phương án đánh địch được xây dựng lại và một đợt huấn luyện theo cách đánh mới được gấp rút tổ chức. Đội ngũ phi công và dẫn đường cùng nhau bàn đi tính lại, quyết tâm tập trung vào khâu quan trọng nhất là từ lúc dẫn vào tiếp địch, thông báo vị trí mục tiêu đến khi phi công phát hiện, cơ động bám địch và xạ kích bằng tên lửa.

Trưa ngày 2 tháng 12 năm 1966, địch tập trung đánh Nội Bài. Kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 921: Phạm Công Thành tại sở chỉ huy và Lê Thiết Hùng, Trịnh Văn Tuất trên hiện sóng chịu trách nhiệm dẫn chính 3 đôi bay MiG-21, trong đó có đôi bay: Lê Trọng Huyên và Trần Thiện Lương cất cánh từ Nội Bài, vào tiếp địch với góc 160 độ. Phi công Lê Trọng Huyên phát hiện F-105 ở cự ly 6km, lập tức cắt vào đúng cự ly phóng tên lửa thuận lợi và bắn rơi ngay 1 F-105 tại khu vực đỉnh sân.

Ngày 5 tháng 12 năm 1966, kíp trực ban dẫn đường Quân chủng dẫn đôi bay MIG-21: Nguyễn Đăng Kính và Bùi Đức Nhu cất cánh từ Nội Bài lúc 8 giờ 55 phút, đánh phối hợp, hiệp đồng với MiG-17 tại khu vực Lập Thạch. Phi công Nguyễn Đăng Kính bắn rơi 1 F-105. Ngay chiều hôm đó, kíp trực Ban Dẫn đường Quân chủng đã tham gia dẫn buổi sáng, tiếp tục dẫn 2 đôi bay MiG-21, trong đó có đôi bay: Vũ Ngọc Đỉnh và Nghiêm Đình Hiếu, cất cánh từ Nội Bài, vào đánh tại khu vực Vĩnh Yên-Đại Từ-Đoan Hùng. Phi công Vu Ngọc Đỉnh bắn rơi 1 F-105 với góc vào 100 độ và tốc độ chênh lệch khi tiếp địch là 100km/h.

Các trận thắng trên của MiG-21 đã củng cố niềm tin dẫn đánh bằng tên lửa, đồng thời tạo đà cho dẫn thành công liên tiếp nhiều trận đánh mới cũng trong tháng 12 năm 1966, nhưng với đội hình chiến thuật 4 chiếc MiG-21 và tiếp tục đánh đúng cường kích địch. Ngày 13, biên đội: Lê Trọng Huyên, Trần Thiện Lương, Nguyễn Đăng Kính và Nguyên Đức Thuận được dẫn vào tiếp địch đối đầu, có gián cách, phát hiện F-105, cự ly 6km. Phi công Nguyễn Đức Thuận bắn rơi 1 F-105 tại khu vực Tam Đảo. Đặc biệt ngày 14, biên đội: Nguyễn Nhật Chiêu, Đặng Ngọc Ngự, Đồng Văn Đe và Nguyễn Văn Cốc lại được dẫn vào khu vực Tam Đảo, với góc vào tiếp địch 60 độ, cũng phát hiện F-105, cự ly 10km. Phi công Đặng Ngọc Ngự bắn rơi 1 F-105; đặc biệt phi công Đồng Văn Đe bắn rơi 2 F-105 (Dẫn đường thông kê các trận đánh của Không quân, quyển L) và trở thành phi công MiG-21 đầu tiên trong một trận bắn rơi 2 máy bay địch bằng tên lửa, đồng thời ghi tên mình vào danh sách phi công MiG-21 trong một trận bắn rơi 2 máy bay địch. Ngày 19, biên đội Nguyễn Hồng Nhị-Nguyễn Đăng Kính-Vũ Ngọc Đỉnh-Nghiêm Đình Hiếu được dẫn vào tiếp địch với góc 50 độ, lại phát hiện F-105, cự ly 10km. Phi công Vũ Ngọc Đỉnh bắn rơi 1 F-105 tại khu vực Nội Bài.

Các kíp trực ban dẫn đường Quân chủng: Nguyên Văn Chuyên, Đào Ngọc Ngư, Lê Thành Chơn, Phạm Từ Tịnh, Vũ Đức Bình, Nguyễn Quang Sáng và Trung đoàn 921: Phạm Minh Cậy, Phạm Công Thành, Lê Thiết Hùng, Trịnh Văn Tuất, đã có công đóng góp rất lớn để tạo nên những trận dẫn MiG-21 đánh thắng vững chắc trong tháng 12 năm 1966.


*

* *​

 

Estonque

Xe điện
Biển số
OF-27090
Ngày cấp bằng
7/1/09
Số km
3,122
Động cơ
517,199 Mã lực
Nơi ở
Nhà BVC
Căn cứ vào hiệu quả chiến đấu cao của MIG-17 đánh ở độ cao thấp và khả năng đánh tốt của MiG-21 ở độ cao trung bình, **** ủy và Bộ Tư lệnh Quân chủng đã sớm có nghị quyết chỉ đạo tác chiến đối với bộ đội không quân: dùng lực lượng nhỏ và vừa đánh độc lập từng loại, từng bước rèn luyện tiến lên đánh hiệp đồng giữa hai loại MIG-17 và MiG-21 từ tháng 5 năm 1966 (Lịch sử Bộ Tham mưu Phòng không - Không quân, Sđd, tr.125). Để thực hiện nghị quyết trên, trong giai đoạn chuẩn bị trước Ban Dẫn đường Quân chủng và các tiểu ban Dẫn đường Trung đoàn 921 và Trung đoàn 923 đều đã làm rõ nhiệm vụ được giao, quán triệt yêu cầu phải dẫn được MIG-17 và MIG-21 vào trận theo một ý định tác chiến thống nhất, nghiên cứu kỹ cách thức tổ chức dẫn đánh phối hợp, hiệp đồng giữa hai loại máy bay của ta và tập trung giải quyết các trường hợp: Một loại đánh chính, một loại yểm hộ và hai loại cùng đánh khi cả hai cùng trực chiến trên một sân bay hoặc trực chiến trên hai sân bay khác nhau. Khâu hiệp đồng dẫn đường giữa các đầu mối trong hệ thống trực ban, trực chiến đã được thực hiện nghiêm túc và chặt chẽ.​
Chiều ngày 12 tháng 8 năm 1966, sau khi nhận được tin địch sẽ tổ chức đánh các mục tiêu xung quanh Hà Nội và Hải Phòng, thủ trưởng trực chỉ huy Quân chủng Nguyễn Văn Tiên đã chỉ thị cho MIG-17 và MIG-21 sẵn sàng xuất kích. Ý định tổ chức đánh phối hợp, hiệp đồng được nhanh chóng truyền đạt xuống sở chỉ huy Trung đoàn 923 và Trung đoàn 921. Quyết tâm đánh địch bay vào từ phía Yên Châu lên Yên Bái-Tuyên Quang của thủ trưởng trực chỉ huy Trung đoàn 923 Lê Oánh đã được Quân chủng đồng ý và trên cũng quyết định dùng MiG-21 làm nhiệm vụ yểm hộ. Kíp trực ban dẫn đường Quân chủng chịu trách nhiệm dẫn chính, còn các kíp trực ban dẫn đường của hai trung đoàn không quân đảm nhiệm dẫn bổ trợ.

16 giờ 37 phút, trên mạng B1 xuất hiện địch. Ban đầu chúng bay vào đúng theo dự tính của ta, nhưng sau đó lại lên Nghĩa Lộ. 16 giờ 39 phút, ra-đa dẫn đường phát hiện 1 tốp ở đông Phù Yên 25km, vừa vòng cơ động vừa chuyển dịch dần vị trí và cũng lên Nghĩa Lộ. Qua tính toán khái quát của trực ban dẫn đường Nguyễn Văn Chuyên, thủ trưởng Nguyễn Văn Tiên quyết định cho MiG-17, MiG-21 vào cấp 1 và yêu cầu dẫn đường điều chỉnh cách dẫn.

16 giờ 49 phút, đôi bay MiG-17 đánh chính: Phan Văn Túc-số 1 và Lưu Huy Chao-số 2 cất cánh từ Gia Lâm, bay theo sông Hồng, qua Sơn Tây, Thanh Sơn; đến đông Vạn Yên 25km vòng phải vào khu chiến đông nam Nghĩa Lộ 25km. 16 giờ 57 phút, đôi MiG-21 yểm hộ cất cánh từ Nội Bài, bay theo triền phía tây dãy Tam Đảo lên phía Sơn Dương. Tại khu chiến, trực ban dẫn đường Quân chủng Nguyễn Văn Chuyên dẫn đôi đánh chính vào phía sau địch với góc 30 độ, số 1 phát hiện F-105, 15km. Ta chủ động không chiến, phi công Lưu Huy Chao bắn rơi 1 F-105, sau đó tách tốp, xuống thấp và thoát ly theo hướng đông nam. Đúng lúc đó, 2 chiếc MiG-21 đã được dẫn từ Sơn Dương ra nam Yên Bái 15km và có mặt yểm hộ ngay trên hướng rút về của MIG-17. MIG-17 bay cắt qua sông Hồng, rồi xuôi theo phía bờ bắc về Gia Lâm. MiG-21 vòng trái qua khu chiến, bay xuống Thanh Sơn, rồi vòng ngược lên hướng bắc, cách Đoan Hùng 15km thì vòng phải về Nội Bài. Kíp trực ban dẫn đường Quân chủng đã dẫn chính thành công 1 tốp MiG-17 đánh chính và 1 tốp MiG-21 yểm hộ, từ hai sân bay khác nhau, hoạt động đúng ý định tác chiến của người chỉ huy, các kíp trực ban dẫn đường trung đoàn không quân đã cho cất cánh đúng yêu cầu và dẫn phi công về hạ cánh an toàn.

Ngày 20 tháng 9 năm 1966, căn cứ vào ý đồ của địch đánh vào các mục tiêu sát gần Hà Nội ở vòng cung phía bắc, các thủ trưởng trực chỉ huy Quân chủng và hai trung đoàn 923, 921 quyết tâm tổ chức đánh phối hợp, hiệp đồng giữa hai loại MIG-17 và MIG-21. Kíp trực Ban Dẫn đường Quân chủng chịu trách nhiệm dẫn chính: Đào Ngọc Ngư tại sở chỉ huy và Phạm Từ Tịnh trên hiện sóng. 15 giờ 30 phút, địch qua Yên Bái, bay lên phía bắc Tuyên Quang, ta cho biên đội MiG-17 đánh chính: Lê Quang Trung-số 1, Hoàng Văn Kỷ-số 2, Trần Minh Phương-số 3 và Lưu Đức Sỹ-số 4 cất cánh từ Nội Bài. Địch bay qua Định Hóa, Chợ Mới. Biên đội MIG-17 được dẫn men theo phía tây đường số 3, sát gần vòng hỏa lực của cao xạ bảo vệ Thái Nguyên, tốc độ 750km/h, độ cao 1.000m, rồi vòng phải, hướng bay 100 độ để chặn địch ở khu vực Võ Nhai. Sau 2 phút bay thẳng, biên đội được lệnh vòng trái vào tiếp địch. Số 1 phát hiện F-105 và F-4, cự ly 8km và chỉ huy vào không chiến. Được số 3 và số 4 yểm hộ chặt chẽ, trong 2 phút, phi công Lê Quang Trung bắn rơi 1 F-105 và bắn bị thương 1 chiếc khác, phi công Hoàng Văn Kỷ cũng bắn rơi 1 F-105. Sở chỉ huy cho thoát ly về phía Đại Từ, cắt ngang dãy Tam Đảo, rồi xuống phía tây Nội Bài. Lúc 15 giờ 40 phút, đôi bay MiG-21 yểm hộ: Lê Trọng Huyên và Trần Thiện Lương cất cánh cũng từ Nội Bài, bay qua Vĩnh Yên, theo triền phía tây Tam Đảo, sau đó vòng phải, vọt qua đỉnh 1591, qua Đại Từ, Thái Nguyên, rồi đan nhiều vòng từ Đa Phúc đến Phúc Yên để yểm hộ cho MIG-17 vào hạ cánh. Trong khi MiG-21 chuẩn bị vào hạ cánh, ở phía bắc Định Hóa vẫn còn địch, Sở chỉ huy Quân chủng yêu cầu Trung đoàn 923 cho ngay đôi bay MIG-17: Trần Huyền và Nguyễn Biên cất cánh từ Gia Lâm lên hoạt động tại đỉnh để sẵn sàng ứng phó.

Đây là trận dẫn đánh phối hợp, hiệp đồng đạt hiệu quả cao. Kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 923 tuy đảm nhiệm dẫn bổ trợ nhưng đã theo dõi sát toàn bộ tình hình trận đánh và khi có lệnh đã kịp thời dẫn đôi MiG-17 xuất kích đúng ý định.
[FONT=&quot]
[/FONT]​
 

Estonque

Xe điện
Biển số
OF-27090
Ngày cấp bằng
7/1/09
Số km
3,122
Động cơ
517,199 Mã lực
Nơi ở
Nhà BVC
Sáng ngày 21 tháng 9 năm 1966, địch từ phía biển vào qua dãy Yên Tử, đánh các mục tiêu ở khu vực Bắc Giang. Quân chủng tiếp tục cho đánh phối hợp, hiệp đồng. 8 giờ 58 phút (Bản can trận đánh), ta cho biên đội MiG-17: Nguyễn Văn Bảy-số 1, Đỗ Huy Hoàng-số 2, Lưu Huy Chao-số 3 và Võ Văn Mẫn-số 4 cất cánh từ Kiến An lên đánh. Từ sở chỉ huy, trực ban dẫn đường Quân chủng Nguyễn Văn Chuyên cho biên đội đi thấp, qua Kinh Môn, đến Đông Triều, vừa vòng trái vừa lên độ cao và vào tiếp địch. 9 giờ 05 phút, phi công phát hiện F-105, cự ly 10km và ở độ cao cao hơn còn có F-4. 9 giờ 09 phút, đôi bay MiG-21: Lê Trọng Huyên và Trần Thiện Lương cất cánh từ sân bay Nội Bài, vòng 1 vòng tại đỉnh và được dẫn vào khu chiến đông Lục Nam 30km. 9 giờ 20 phút, đôi MiG-21 phát hiện cả F-105 và F-4, đối đầu, cự ly 10km.

Biên đội MIG-17 bám theo tốp F-105, nhưng chưa kịp rút ngắn cự ly đã phải không chiến với tốp F-4 bay yểm hộ phía sau F-105, ở độ cao 1.000m. Sau 8 phút, phi công Võ Văn Mẫn bắn rơi 1 F-4, nhưng số 2 trong biên đội bị trúng tên lửa của địch, phải nhảy dù. Đôi MiG-21 bám kịp tốp F-105 khác ở độ cao 2.000m, phi công Lê Trọng Huyên bắn rơi 1 F-105. Sở chỉ huy Quân chủng cho MiG-17 thoát ly về Gia Lâm, còn MiG-21 về Nội Bài hạ cánh.

Khác với các trận trước, mặc dù ta có bị tổn thất, nhưng các kíp trực ban dẫn đường đã thực hiện dẫn thành công 2 tốp ta từ hai sân bay cách xa nhau gần 100km, cùng làm nhiệm vụ đánh địch trên 1 hướng, tại hai khu chiến cách nhau gần 25km, có chênh lệch độ cao 1.000m và gián cách thời gian 15 phút.

Ngày 5 tháng 12 năm 1966, ngay từ sáng địch đã cho trinh sát điện tử RB-66 (Bản can trận đánh) có tiêm kích yểm hộ từ Sầm Nưa vào hoạt động tại khu vực Chợ Đồn-nghĩa Lộ. Theo quy luật, cường kích của chúng sẽ bay theo đường Mộc Châu - Yên Bái - Tuyên Quang, rồi men theo triền phía tây Tam Đảo xuống đánh các mục tiêu phía bắc, sát Hà Nội. Thủ trưởng trực chỉ huy Quân chủng Nguyễn Văn Tiên quyết định cho MiG-21 đánh, đồng thời yêu cầu MIG-17 phải sẵn sàng. Kíp trực ban dẫn đường Quân chủng chịu trách nhiệm dẫn chính: Nguyễn Văn Chuyên, Phạm Từ Tịnh tại sở chỉ huy, Lê Thành Chơn trên hiện sóng. 8 giờ 55 phút địch gần đến Sơn Dương, sở chỉ huy cho đôi bay MiG-21: Nguyễn Đăng Kính và Bùi Đức Nhu cất cánh từ Nội Bài, hướng xuất kích 310 độ và lên độ cao 3.000m. Địch qua Sơn Dương, không vòng phải như ta dự tính mà vòng trái quay ra. 8 giờ 58 phút, chúng đột ngột vòng trái, quay xuống. Ta cho ngay MiG-21 vòng phải 2 lần 180 độ tại Lập Thạch. Khi địch bay xuống gần đến Lập Thạch thì MiG-21 được dẫn vào tiếp địch. 9 giờ 02 phút, phi công Nguyễn Đăng Kính phát hiện F-105, 5km và hạ ngay 1 chiếc với tốc độ chênh lệch khi phóng tên lửa lên tới 300km/h. Tốp cường kích vứt bom, vòng phải quay ra. MiG-21 vòng lên Sơn Dương đuổi theo, rồi mới thoát ly về. 8 giờ 58 phút, Sở chỉ huy Quân chủng cho biên đội MIG-17: Hồ Văn Quỳ, Nguyễn Thái Hôn, Nguyễn Văn Bảy và Võ Văn Mẫn cũng cất cánh từ Nội Bài và được dẫn vào khu vực Vĩnh Yên - Phúc Yên, độ cao 1.000m, sẵn sàng đánh địch xuống thấp, nhưng bị MiG-21 đánh, chúng đã quay ra hết.​
Đây cũng là trận đánh mà các kíp trực ban dẫn đường đã thực hiện dẫn thành công 2 tốp cùng làm nhiệm vụ đánh địch trên một hướng, tại 2 khu chiến cách nhau 20km, chênh lệch độ cao 2.000m và gián cánh thời gian chỉ khoảng 2 phút.

Trong tố chức dẫn đánh phối hợp, hiệp đồng giữa MIG-17 và MiG-21, kíp trực ban dẫn đường Quân chủng chịu trách nhiệm dẫn chính, còn các kíp trực ban dẫn đường trung đoàn không quân chỉ đảm nhiệm dẫn bổ trợ là hoàn toàn phù hợp. Khi dẫn có tốp đánh chính và có tốp yểm hộ, trực ban dẫn đường tại sở chỉ huy đã nắm chắc kết quả chuyển hóa tình thế của tốp đánh chính để đưa tốp yểm hộ vào đúng khu vực, thời gian cần thiết và khi dẫn 2 loại cùng đánh đã phán đoán chính xác mối quan hệ giữa các tốp địch, đặc biệt là lắng nghe đối không, nắm thực trạng tình hình địch-ta của tốp đánh trước để dẫn tốp đánh sau vào thế có lợi. Kết quả dẫn đánh phối hợp, hiệp đồng giữa MiG-17 và MiG-21, một lần nữa khẳng định các giải pháp đã được lựa chọn trong tổ chức dẫn đường chiến đấu 2 cấp của ngành Dẫn đường là rất thiết thực, trực tiếp góp phần nâng cao hiệu quả đánh địch của không quân ta.

*​

* *​
 

Estonque

Xe điện
Biển số
OF-27090
Ngày cấp bằng
7/1/09
Số km
3,122
Động cơ
517,199 Mã lực
Nơi ở
Nhà BVC
Đầu năm 1966, bên cạnh nhiệm vụ thường xuyên là vận chuyển hàng quân sự và chuyên chở bộ đội ta bằng đường không trên các hướng của chiến trường miền Bắc, Trung đoàn không quân 919 còn khẩn trương tổ chức thực hiện một nhiệm vụ rất quan trọng được Quân chủng giao cho. ĐÓ là, tiến công đánh địch bằng các đòn tập kích đường không tiêu diệt các mục tiêu trên biển và trên đất liền. Các tiểu đoàn Il-14, Li-2 và An-2 sẽ trực tiếp tham gia chiến đấu. Các cơ quan Quân chủng và Trung đoàn không quân 919 đã kịp thời xây dựng các phương án chiến đấu và cải tiến lắp ráp vũ khí lên máy bay.

Giữa tháng 2 năm 1966, các máy bay cải tiến mang vũ khí đã được bay thử có sử dụng bom đạn thật tại các trường bắn Kép, Hòa Lạc đạt kết quả tốt và ngay sau đó, 14 chiếc IL-14 và 2 chiếc Li-2 được trang bị bom và đạn cối 120mm, 12 chiếc An-2 được trang bị rốc-két 57mm đạn cối 120mm và pháo sáng. Các tổ bay IL-14, Li-2 Và An-2 đều nhanh chóng hoàn thành các bài bay huấn luyện ứng dụng chiến đấu bổ sung theo các phương án chiến đấu và đạt chất lượng cao. Tất cả sẵn sàng chờ lệnh xuất kích tiến công địch.

Đầu tháng 3 năm 1966, Trung đoàn 919 được Bộ Tư lệnh Quân chủng giao nhiệm vụ sử dụng lực lượng An-2, tiến hành các đòn tập kích đường không ban đêm vào các tàu chiến của địch, hoạt động cách bờ biển Khu 4 từ 50km trở vào, nhằm tạo thuận lợi cho các tàu vận tải không số của ta tiếp tục thực hiện nhiệm vụ chi viện cho miền Nam (Đoàn bay 919 - 45 năm xây dựng và trưởng thành, Nxb Chính trị quốc gia; H.2004, tr.68). Căn cứ vào phương án dẫn bay chiến đấu cơ bản đã được thông qua, đội ngũ dẫn đường trên không trong các tổ bay An-2 lập tức tập trung nghiên cứu chi tiết địa hình dọc tuyến Gia Lâm - Thanh Hóa, lựa chọn các đường bay cụ thể và bổ sung các điểm kiểm tra khi bay đêm giản đơn và phức tạp; nghiên cứu cách lợi dụng ánh trăng phản chiếu trên sóng biển để quan sát, nhận dạng và xác định vị trí tàu địch; chọn hướng công kích, tính toán chi tiết các số liệu phóng rốc-két, ném đạn cối và thả pháo sáng; thứ tự hiệp đồng giữa máy bay thả pháo sáng-chỉ thị mục tiêu và máy bay vào công kích, bổ sung thêm các biện pháp cơ động phòng tránh, khắc phục hỏa lực phòng không trên tàu của địch bắn lên và tiêm kích địch bám đuổi...

Đêm 7 tháng 3 năm 1966, sau khi nhận được tin có tàu địch vào hoạt động ở ngoài khơi Sầm Sơn, Sở chỉ huy Quân chủng quyết định cho An-2 thực hiện đúng phương án tác chiến đã được chuẩn bị. 23 giờ 18 phút, An-2 vào cấp 1 và 23 giờ 35 phút, cất cánh khỏi Gia Lâm. Tổ bay An-2 (số hiệu 670) làm nhiệm vụ đánh chính do lái chính Phan Như Cẩn, chỉ huy tập kích, dẫn đường trên không Phạm Thanh Tâm và các đồng chí Trần Sĩ Tiêu, Loan Thế Linh, còn tổ bay An-2 chỉ thị mục tiêu do lái chính Đào Hữu Ngoan phụ trách thả pháo sáng. Hai chiếc An-2 bay trong thời tiết phức tạp, lần lượt vào đường bay, lên độ cao và giữ đúng cự ly dự tính. Kíp trực ban dẫn đường Quân chủng: Nguyễn Văn Chuyên tại sở chỉ huy, tập trung theo dõi tình hình trên không và sẵn sàng dẫn bổ trợ, còn Vũ Đức Bình tại C-19 ở Quảng Xương, vừa bám sát các máy bay ta vừa phối hợp chặt chẽ với lực lượng hải quân, nắm chắc hoạt động của các tàu địch.

Máy bay ta giữ im lặng tuyệt đối và được hai dẫn đường trên không dẫn bay chính xác, đến đúng khu vực có mục tiêu. Nhờ có ánh trăng, sau khi phát hiện tàu địch, lái chính Phan Như Cẩn quyết định không thả pháo sáng và lệnh cho lái chính Đào Hữu Ngoan bay vòng ở phía ngoài, hỗ trợ khi cần thiết, còn mình vào công kích ngay và thoát ly về phía đất liền. Bằng 32 quả rốc-két 57mm, 1 chiếc tàu chiến của địch bốc cháy và chìm dần, những chiếc khác hoảng hốt bỏ chạy. Đây là chiến công đầu tiên của Không quân nhân dân Việt nam tiến công đánh địch bằng đòn tập kích đường không vào mục tiêu trên biển. Chiến công này còn là sự kiện lịch sử quan trọng đối với ngành Dẫn đường Không quân, đánh dấu khả năng dẫn đường trên không trong thực hiện các đòn tập kích được giao.

Chiếc máy bay đánh chính vào đến bờ, do bị hỏa lực phòng không mặt đất của dân quân bắn nhầm, lái chính Phan Như Cẩn, mặc dù bị thương, nhưng anh đã hạ cánh bắt buộc thành công xuống bãi biển Sầm Sơn (Đoàn bay 919'45 năm xây dựng và trưởng thành. Sđd, tr.69). Các thành viên trong tổ bay đánh chính đều an toàn. Tổ bay chỉ thị mục tiêu, sau khi rời khỏi khu chiến, bay về theo kế hoạch và hạ cánh tại Gia Lâm lúc 2 giờ 38 phút ngày 8 tháng 3 năm 1966 (Dẫn đường thông kê các trận đánh của Không quân quyển L). Ngay ngày hôm sau trung đoàn đã cử lực lượng vào Sầm Sơn kiểm tra chiếc An-2-670 và nhanh chóng chuyển sân ra Gia Lâm.

Phát huy thành tích trận đầu, 0 giờ 04 phút ngày 13 tháng 4 năm 1966, sở chỉ huy Trung đoàn không quân 919 cho 2 tổ bay An-2 cất cánh từ Gia Lâm, bay dưới mây. Tại khu vực mục tiêu, trời tối, tổ bay do đồng chí Tấu lái chính phụ trách, thả 3 quả pháo sáng, tổ bay do đồng chí Huân lái chính chỉ huy, phát hiện nhanh, vào phóng rốc- két ngay và với 11 quả, cháy 1 tàu địch ở đông nam Hòn Mê 9km. Dẫn đường trên không của 2 tổ bay đã dẫn chính xác, an toàn và cùng với các thành viên trong tổ bay giành thắng lợi trong trận tập kích thứ hai. Đây là trận đầu tiên ta thực hiện thành công tập kích mục tiêu trên biển ban đêm có sử dụng pháo sáng. 3 giờ 23 phút, 2 chiếc máy bay của ta về đến Gia Lâm.

22 giờ 15 phút ngày 13 tháng 6 năm 1966, 2 tổ bay An-2 cất cánh từ Gia Lâm, trên đường vào bay trong thời tiết phức tạp, đến khu vực có tàu địch xuống dưới mây. Tổ bay do lái chính Phan Như Cẩn phụ trách, vào thả 4 quả pháo sáng và tổ bay do đồng chí Chúc lái chính chỉ huy, vào công kích. Ta tiêu hao 27 quả rốc-két, địch bị chìm 1 tàu ở đông Sầm Sơn 7km. Trận tập kích có sử dụng pháo sáng thứ hai đã đạt hiệu quả chiến đấu cao hơn. 0 giờ 53 phút ngày 14 tháng 6 năm 1966, ta hạ cánh tại Gia Lâm (Dẫn đường thông kê các trận đánh của Không quân, quyển L).

Tuy nhiên, tiến hành tập kích tàu địch nhiều lần trên một vùng biển, ta cũng phải đối mặt với không ít khó khăn. 21 giờ 34 phút đêm 29 tháng 6 năm 1966, tổ bay An-2 đánh chính do lái chính Phan Như Cẩn chỉ huy và tổ bay An-2 do đồng chí Thảo lái chính phụ trách chỉ thị mục tiêu nhận lệnh cất cánh từ Gia Lâm, bay trong thời tiết giản đơn. Tại khu vực đông nam Sầm Sơn có ánh trăng, không phải thả pháo sáng. Sau khi phát hiện tàu địch, tổ bay đánh chính vào công kích, nhưng khi ngắm do trên biển có mù, nên phóng 2 lần, mất 32 quả rốc-két, đều không trúng. Tổ bay chỉ thị mục tiêu được lệnh vào công kích, nhưng xử lý lúng túng. Lúc này, địch đã triển khai đội hình để đối phó, nên ta phải thoát ly. Đêm 19 tháng 12 năm 1966, tổ bay An-2: Tạ Văn Chén - Nguyễn Minh Lý - Lê Côn Sơn - Nguyễn Kim Tiến, trong khi làm nhiệm vụ đã bị tiêm kích địch bắn rơi cách bờ biển Thanh Hóa 40km. Còn tổ bay của lái chính Đào Hữu Ngoan cũng bị tiêm kích địch săn đuổi, nhưng đã kịp thời cơ động vòng tránh ở độ cao cực thấp, thoát ly vào bờ và về hạ cánh an toàn.

Với bản lĩnh và trình độ của mình, đội ngũ dẫn đường trên không An-2 đã cùng với đội ngũ lái chính, lái phụ, cơ giới và thông tin trên không, những người đồng đội, trong thành phần tổ bay bắn chìm và bắn cháy nhiều tàu chiến địch, đã góp phần đưa An-2, loại máy bay vận tải hạng nhẹ do bạn sản xuất và được ta cải tiến mang vũ khí, hoàn thành xuất sắc nhiều đòn tập kích đường không như một loại máy bay chuyên dùng để tiến công địch.

Gắn liền với An-2 thực hiện các đòn tập kích tàu địch trong năm 1966, đội ngũ dẫn đường sở chỉ huy, ngoài việc phải tập trung cao độ cho nhiệm vụ dẫn MiG-17 và MiG-21 đánh địch trên không, đã có mặt đúng lúc trên các vị trí trực ban trọng điểm tại sở chỉ huy và các đại đội ra-đa để sẵn sàng dẫn hỗ trợ, như các đồng chí: Nguyễn Văn Chuyên, Vũ Đức Bình, Đào Công Thạnh...


*

* *​
 

Estonque

Xe điện
Biển số
OF-27090
Ngày cấp bằng
7/1/09
Số km
3,122
Động cơ
517,199 Mã lực
Nơi ở
Nhà BVC
Bám sát các hoạt động của không quân địch trong thời gian từ cuối năm 1966 đến đầu năm 1967, ta thấy số lượng tiêm kích yểm hộ trong đội hình cường kích tăng đáng kể, số khu vực tiêm kích ngăn chặn hướng xuất kích của ta ngày càng nhiều; đội hình cường kích địch tập trung hơn, đánh ồ ạt trong thời gian ngắn và thoát ly nhanh khỏi khu vực mục tiêu. Một điều đáng lưu tâm là chúng tăng cường gây nhiễu; mưu đồ tiêu diệt MIG và đánh đường băng, sân đỗ của ta rất rõ ràng.

Trong những ngày cuối tháng 12 năm 1966, với đội hình chiến đấu 4 chiếc, MiG-21 đã giành thắng lợi lớn, bắn rơi 5 chiếc cường kích F-105 và 1 chiếc không người lái 147J. Bước sang năm 1967, ta tiếp tục trực chiến từng biên đội và đều mang tên lửa. Trưa 2 tháng 1 năm 1967, địch tăng cường hoạt động ở phía Sầm Nưa và nhiều tốp đã hướng về Phú Thọ. Có thể chúng sẽ vào đánh Hà Nội theo các đường bay như mấy ngày đầu tháng 12 năm ngoái. Địch qua Phù Yên, Trung đoàn 921 xin đánh. 13 giờ 56 phút, biên đội thứ nhất: Vũ Ngọc Đỉnh, Nguyễn Đức Thuận, Nguyễn Đăng Kính và Bùi Đức Nhu rời đất và xuyên lên trên mây. Các trực ban dẫn đường: Nguyễn Văn Chuyên, Đào Ngọc Ngư tại Sở chỉ huy Quân chủng và Tạ Quốc Hưng tại sở chỉ huy Trung đoàn 921 thực hiện dẫn phối hợp (Dẫn đường thống kê các trận đánh của Không quân, quyển L). Biên đội thứ nhất đến Phù Ninh thì gặp 4 F- 4 từ Phú Thọ vào. Ta đuổi địch về đến phía tây của sân bay Nội Bài lại gặp 4 F-4 nữa. Trong tình thế rất khó khăn, cả 4 chiếc của ta đều bị địch bắn và phải nhảy dù. Đúng lúc đó biên đội thứ hai: Nguyễn Ngọc Độ-số 1, Đặng Ngọc Ngự-số 2, Đồng Văn Đe-số 3 và Nguyễn Văn Cốc-số 4 cất cánh. Vừa lên khỏi mây, biên đội thứ hai được dẫn vào tiếp địch với góc 120 độ. Số 1 phát hiện cả F-4 và F- 105, cự ly 8km. Sau đó hai bên quần nhau, số 1 bị địch bắn, nhưng nhảy dù an toàn (Dẫn đường thống kê các trận đánh của Không quân, quyển L), các số còn lại tách tốp thoát ly về hạ cánh.

Ngày 6 tháng 1 năm 1967, kíp trực ban dẫn đường Quân chủng: Nguyễn Văn Chuyên dẫn tại sở chỉ huy, Phạm Từ Tịnh trên hiện sóng và Trung đoàn 921: Phạm Minh Cậy, Trần Đức Tụ dẫn tại sở chỉ huy. Biên đội Trần Hanh-số 1, Mai Cương (Mai Văn Cương)-số 2, Đồng Văn Đe-số 3 và Nguyễn Văn Cốc-số 4 được dẫn tiếp địch với góc vào 20 độ tại khu vực Việt Trì-phú Thọ. Số 1 phát hiện 2 F-4, 9km, nhưng bị nhiều tốp địch khác bám theo. Số 2 và số 3 đều bị địch bắn, nhưng số 2 nhảy dù an toàn, còn số 3 hy sinh.

Như vậy, chỉ trong hai ngày, MiG-21 bị tổn thất quá lớn, Quân chủng quyết định Trung đoàn 921 tạm ngừng xuất kích để rút kinh nghiệm. Những nguyên nhân chủ yếu là: Đã không phát hiện được thủ đoạn của địch là cho tiêm kích giả làm cường kích để nhử không quân ta lên đánh và dùng lực lượng tiêm kích đánh chính của chúng phục kích tại khu vực để bám theo máy bay ta khi xuyên lên trên mây. Ta chưa lường hết ảnh hưởng của điều kiện thời tiết và khả năng đánh địch bằng đội hình 4 chiếc của MiG-21. Dẫn đường cho biên đội Đỉnh-Thuận-Kính-Nhu cất cánh muộn, chỉ huy có tư tưởng nóng vội. Bộ Tư lệnh Binh chủng Không quân (được thành lập ngày 24 tháng 3 năm 1967) chỉ đạo cho các cơ quan và Trung đoàn 921 tập trung nghiên cứu, xây dựng cách đánh và cách dẫn đôi bay MiG-21 để tiếp tục đánh địch. Các trận đánh trong 2 ngày 28 và 30 tháng 4 năm 1967, MiG-21 đã giành lại chiến thắng.

Ngày 28 tháng 4 năm 1967, địch tổ chức đánh Hà Nội. Thủ trưởng trực chỉ huy Quân chủng Phùng Thế Tài quyết định sử dụng MiG-21 đánh các tốp địch từ hướng Tuyên Quang, xuôi theo dãy Tam Đảo xuống Hà Nội; còn MiG-17 đánh các tốp địch từ hướng Suối Rút, Hòa Bình vào Hà Nội. Qua theo dõi địch, lúc 15 giờ 17 phút, thủ trưởng trực chỉ huy Trung đoàn 921 Trần Mạnh nhận lệnh của Binh chủng, cho đôi bay thứ nhất: Lê Trọng Huyên và Đồng Văn Song, trực chiến tại Nội Bài, vào cấp 1, cất cánh ngay, đánh hướng Tuyên Quang. Kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 921 dẫn chính: Phạm Minh Cậy, Tạ Quốc Hưng tại sở chỉ huy, Lê Thiết Hùng trên hiện sóng tại C-43 ở Tân Trại và trực ban dẫn đường Phạm Từ Tịnh tại sở chỉ huy Binh chủng dẫn bổ trợ. Đôi thứ nhất được dẫn theo triền phía đông của dãy Tam Đảo, vòng qua Hàm Yên, xuống Đoan Hùng, lên Tuyên Quang - Chiêm Hóa, không gặp địch. 15 giờ 54 phút, bất ngờ xuất hiện một tốp địch ở nam Sơn Dương 10km, đi ngược lên Tuyên Quang, rồi vòng trái 1 vòng. Dẫn đường cho đôi thứ nhất quay xuống, nhưng phi công chỉ phát hiện được địch mà không có điều kiện vào công kích. Thủ trưởng yêu cầu quay về.

15 giờ 34 phút, đôi bay thứ hai: Đặng Ngọc Ngự-số 1 và Mai Cương-số 2 cất cánh, bay theo triền phía tây của dãy Tam Đảo, đến bắc Sơn Dương 15km, dẫn đường cho vòng trái xuống Vạn Yên, rồi lên bắc Nghĩa Lộ để chặn đánh địch trên đường bay ra. Địch bị bất ngờ, khi ta chặn trên đoạn từ Yên Bái đến đông bắc Bắc Yên 30km. Với góc vào 30 độ, số 1 phát hiện bên trái, 4km, rồi rút ngắn cự ly, phóng tên lửa, nhưng không trúng. Phi công Mai Cương, không bỏ lỡ thời cơ, bắn rơi ngay 1 F-105. Trong trận này ta sử dụng đài P-35 chuyên bắt địch và đài P-30 chuyên bắt ta, tuy có sai lệch, nhất là khi dẫn đôi thứ nhất, nhưng dẫn đường đã ước lượng bù trừ kịp thời để dẫn đôi thứ hai tốt hơn.

Chiều 30 tháng 4 năm 1967, ta tổ chức đánh hai trận cách nhau khoảng một giờ, đều chặn địch trên đường vào. Trận thứ nhất, sau khi nắm các triệu chứng địch qua Sầm Nưa, các thủ trưởng trực chỉ huy Binh chủng Nguyễn Văn Tiên và Trung đoàn 921 Trần Mạnh cho đôi bay MiG-21: Nguyễn Ngọc Độ và Nguyễn Văn Cốc cất cánh. Sở chỉ huy Binh chủng cho MiG-21 ra phía Mộc Châu. Do chưa chọn được tốp địch thích hợp, nên qua Sơn Tây khoảng 40km, đôi bay vòng trái xuống phía tây Suối Rút và Mai Châu.

Mấy phút sau, dẫn đường hiện sóng Lê Thiết Hùng bám sát được tốp địch qua Cò Nòi-Tạ Khoa, đôi bay được dẫn vòng phải lên Yên Châu, chặn địch trên đoạn Bắc Yên- Phù Yên-Yên Lập. Với góc vào 30 độ rất thuận lợi, phi công Nguyễn Ngọc Độ phát hiện F-105, 5km, nhanh chóng rút ngắn cự ly, bắn rơi ngay 1 F-105 và 2 phút sau phi công Nguyên Văn Cốc bắn rơi tiếp 1 F-105 nữa. Cả đội hình địch hoảng hốt, vứt bom quay ra.

Trận thứ hai, đôi bay: Lê Trọng Huyên-số 1 và Vũ Ngọc Đỉnh-số 2 đánh ở khu vực Thanh Sơn, được dẫn vào với góc 60 độ. Số 1 phát hiện cả F-105 và F-4 ở cự ly 14km. Mỗi phi công đều bắn rơi 1 F-105. Các kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 921 dẫn chính và Binh chủng dẫn bổ trợ đã góp sức nâng hiệu quả chiến đấu của MiG-21 đánh trong một ngày lên cao chưa từng thấy.

Như vậy, đội hình chiến đấu 2 chiếc MiG-21 đã thể hiện tốt khả năng đánh địch. Các kíp trực ban dẫn đường đã kết hợp theo dõi địch bằng các nguồn tin tình báo kỹ thuật, tình báo xa và tình báo gần để dự đoán các đường bay vào và bay ra của địch; tính toán đúng thời cơ cất cánh cho các đôi bay của ta; lựa chọn khu chiến phù hợp, nhưng dẫn đánh đúng cường kích địch vẫn là bài toán cực kỳ khó khăn. Hơn nữa, trong lúc dẫn vào bám địch, nếu phi công phát hiện chỉ có tiêm kích hoặc có cả tiêm kích và cường kích, thì trận đánh thường diễn ra rất quyết liệt. Đường bay ta-địch đan xen lẫn nhau như một mớ bòng bong, "dẫn đường căng thẳng một, phi công căng thẳng mười".

Điều đó được thể hiện rõ qua kết quả một số trận: Trong tháng 5 và đầu tháng 6 năm 1967, ta tổ chức dẫn ít nhất 9 trận, trong đó chỉ có 3 trận gặp đúng cường kích, bắn rơi 2 F-105, ta an toàn; 1 trận gặp cả tiêm kích và cường kích, bắn rơi 1 F-105, ta nhảy dù 1; còn 3 trận, gặp phải tiêm kích, bắn rơi 3 F-4, ta nhảy dù 2 và hy sinh 1 phi công...

Trong tháng 7 năm 1967, ta đã nỗ lực khắc phục khó khăn, tổ chức dẫn MiG-21 đánh rất thành công một số trận và luôn giữ được an toàn. Sáng ngày 11 tháng 7 năm 1967, đôi bay: Lê Trọng Huyên và Đồng Văn Song được dẫn đánh trên hướng đông nam. Phi công Lê Trọng Huyên bắn rơi 1 A-4. Đây là chiếc A-4 đầu tiên bị MiG-21 bắn rơi.

Sáng ngày 17 tháng 7 năm 1967, địch đánh khu vực Cẩm Thủy-Lang Chánh-Quan Hóa. Các thủ trưởng trực chỉ huy Binh chủng Đào Đình Luyện và Đỗ Long đồng ý cho Trung đoàn 921 vào đánh. Đôi bay: Nguyễn Nhật Chiêu-số 1 và Nguyễn Văn Lý-số 2 cất cánh từ Nội Bài. Các kíp trực Ban Dẫn đường Binh chủng: Đào Ngọc Ngư, Vũ Đức Bình tại sở chỉ huy và trung đoàn: Phạm Công Thành, Tạ Quốc Hưng cũng tại sở chỉ huy thực hiện dẫn phối hợp. MiG-21 cất cánh xong, đến Phúc Yên, sở chỉ huy Binh chủng cho vòng trái, hướng bay 180 độ, tốc độ 850km/h, lên độ cao 4.000m. Khi ta đến ngang Phủ Lý, sở chỉ huy trung đoàn bắt đầu dẫn, cho tăng dần tốc độ lên 900 km/h, vòng phải hướng bay 250 độ, rồi 950km/h, 270 độ MiG-21 đến sông Mã, đổi hướng bay 210 độ, liên tục nhận thông báo vị trí mục tiêu. Với góc vào tiếp địch 80 độ, số 1 phát hiện F-8, từ 8 đến 10km. Ta chủ động không chiến trong 3 phút tại nam Lang Chánh 30km, trời mù, tầm nhìn kém. Số 1 và số 2 thay nhau công kích-yểm hộ. Phi công Nguyễn Văn Lý bắn rơi 1 F-8. Đây là chiếc F-8 đầu tiên bị MiG-21 bắn rơi. 7 giờ 55 phút, lệnh rút khỏi khu chiến, ta tách tốp và thoát ly theo hướng bắc.

Từ cuối tháng 7 đến đầu tháng 8 năm 1967, một số khó khăn mới lại nảy sinh. Ngày 10 tháng 8 năm 1967, địch vào đánh Phủ Lý. Đôi bay: Bùi Đình Kình-số 1 và Đồng Văn Song-số 2 do kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 921 dẫn chính: Tạ Quốc Hưng tại sở chỉ huy và Lê Thiết Hùng trên hiện sóng và trực ban dẫn đường tại sở chỉ huy Binh chủng: Đào Ngọc Ngư dẫn bổ trợ. MiG-21 xuất kích về phía Hòa Bình, vòng xuống Cẩm Thủy, rồi vòng ngược lên định đánh cường kích địch vào Phủ Lý, thì đột nhiên gặp tiêm kích địch ở khu vực Lạc Thủy xông ra. Ta buộc phải đối phó. Số 1 phát hiện F-4 đối đầu, cự ly 10km và giãn cách 5km, nhưng xung quanh còn nhiều chiếc khác và tốc độ của ta lúc đó quá lớn. Không chiến diễn ra ở độ cao 4.000m tại khu vực Vụ Bản, mới được 2 phút 30 giây, cả hai phi công của ta đều bị địch bắn, số 1 hy sinh, số 2 nhảy dù an toàn. Đây là một trong những trận gần MiG-21 bị tổn thất nghiêm trọng trong năm 1967.

Sau trận đánh, bài học được rút ra: Trong khu chiến, dẫn đường và phi công phải tìm mọi cách giám sát chặt chẽ mọi hành động của từng tốp địch, nhất là khi gặp cả cường kích và tiêm kích hoặc chỉ gặp tiêm kích, thì mới tạo ra khả năng giành được phần thắng và hạn chế được tổn thất. Do đó, dẫn đường sở chỉ huy đã tăng cường luyện tập dẫn chặn kích địch trên đoạn bay ngắn, có lợi nhất vì qua thực tế chiến đấu, đoạn bay này chỉ khoảng từ 3 đến 4 phút bay của mục tiêu và dẫn đường trên hiện sóng đã tập trung luyện tập cách dẫn ta bám theo mục tiêu cơ động; tiếp tục phát huy cách thu tình báo gần tập trung về một bàn dẫn đường và phân công dẫn đường hiện sóng chuyên trách đã được thực hiện thành công từ cuối tháng 3, đầu tháng 4 năm 1967; nâng cao trình độ đánh dấu đường bay cho tiêu đồ gần, hiệp đồng tỉ mỉ cách dùng thước, dùng chì trên bàn dẫn đường... Còn phi công tập trung nghiên cứu cách quan sát phát hiện toàn bộ đội hình địch và kiểm soát tình hình trên không trong khu chiến.

Ngày 23 tháng 8 năm 1967, đôi bay: Nguyễn Nhật Chiêu và Nguyễn Văn Cốc đánh địch tại khu vực Tuyên Quang. Dẫn đường nắm chắc 3 tốp địch, phi công kiểm soát tốt tình hình trên không. Ta bắn rơi 3 chiếc.

Trong thời gian từ ngày 31 tháng 8 đến ngày 31 tháng 12 năm 1967, ta đã dẫn MiG-21 vươn lên đánh thắng giòn giã, không chỉ trong những trận gặp cả cường kích và tiêm kích hoặc chỉ gặp tiêm kích mà cả trong những trận gặp trinh sát vũ trang RF-101, RF-4, trinh sát điện tử EB-66 của địch và không chỉ sử dụng sân bay Nội Bài mà còn sử dụng cả các sân bay khác như: Gia Lâm, Kiến An, Kép. Trải qua chặng đường gian nan vất vả, cách dẫn đôi bay MiG-21 chặn kích trên đường bay, với góc vào tiếp địch thích hợp, phát huy khả năng tăng nhanh tốc độ và sử dụng tên lửa đúng tầm hiệu quả đã có chỗ đứng vững chắc. Và hơn thế, nó đã trở thành cách dẫn truyền thống đánh địch của MiG-21, góp phần lập nên những chiến công rực rỡ của Không quân nhân dân Việt Nam.

Đội ngũ dẫn đường sở chỉ huy đã tổ chức dẫn thành công nhiều đôi bay MiG-21 đánh đạt hiệu quả chiến đấu cao: phi công phóng 45 quả tên lửa, diệt 28 máy bay địch; dẫn 8 trận diệt 2 máy bay địch và 12 trận diệt 1 máy bay địch; còn MiG-21 chịu tổn thất 3 máy bay và hy sinh 1 phi công (Dẫn đường thông kê các trận đánh của Không quân, quyển L). Trong đó, có một số trận đánh nổi bật.

Sáng ngày 31 tháng 8 năm 1967, kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 921 dẫn chính: Phạm Minh Cậy tại sở chỉ huy và Lê Thiết Hùng trên hiện sóng, kíp trực ban dẫn đường Binh chủng dẫn bổ trợ: Vũ Đức Bình, Lê Thành Chơn tại sở chỉ huy. Đôi bay: Nguyễn Hồng Nhị và Nguyễn Đăng Kính cất cánh từ Nội Bài, đánh tại khu vực Thanh Sơn, góc vào tiếp địch 60 độ, phát hiện địch bên phải, 14km. Phi công Nguyễn Hồng Nhị phóng 2 quả tên lửa , rơi tại chỗ 1 RF-101. Đây là chiếc trinh sát vũ trang RF-101 đầu tiên bị Không quân nhân dân Việt Nam bắn rơi. Trận đánh diễn ra chỉ trong 21 phút.

[FONT=&quot]
[/FONT]
 

Estonque

Xe điện
Biển số
OF-27090
Ngày cấp bằng
7/1/09
Số km
3,122
Động cơ
517,199 Mã lực
Nơi ở
Nhà BVC
Sáng ngày 10 tháng 9 năm 1967, các kíp trực ban dẫn đường Binh chủng: Nguyễn Văn Chuyên tại sở chỉ huy, Phạm Văn Khả trên hiện sóng và Trung đoàn 921: Tạ Quốc Hưng tại sở chỉ huy, Hoàng Kế Thiện trên hiện sóng, thực hiện dẫn phối hợp. Đôi bay: Nguyễn Hồng Nhị và Nguyễn Đăng Kính cất cánh từ Nội Bài, vào đánh tại khu vực phía đông Vạn Yên và đông Mộc Châu 15km, góc vào tiếp địch 30 độ. Dẫn đường hiện sóng giúp phi công phát hiện mục tiêu bên trái, 18km. Phi công Nguyễn Hồng Nhị phóng 1 quả tên lửa, rơi ngay 1 RF-4. Đây là chiếc trinh sát vũ trang RF-4 đầu tiên bị không quân ta bắn rơi.

Sáng ngày 7 tháng 10 năm 1967, các kíp trực ban dẫn đường Binh chủng dẫn chính: Phạm Từ Tịnh, Lưu Văn Cộng tại sở chỉ huy, Phạm Văn Khả trên hiện sóng và Trung đoàn 921 dẫn bổ trợ: Phạm Công Thành tại sở chỉ huy, Trịnh Văn Tuất trên hiện sóng. Đôi bay: Phạm Thanh Ngân và Mai Cương cất cánh từ Nội Bài, vào đánh tại khu vực nam Thanh Sơn 10km. Mỗi phi công chỉ phóng 1 quả tên lửa và đôi bay MiG-21 tiêu diệt 2 F-4. Tổng thời gian trận đánh là 22 phút. Đến chiều, cũng các kíp trực ban dẫn đường trên đã thực hiện dẫn phối hợp cho đôi bay: Nguyễn Nhật Chiêu và Nguyễn Văn Cốc cũng cất cánh từ Nội Bài, vào đánh tại khu vực núi Yên Tử (1068), góc vào tiếp địch 130 độ, phát hiện mục tiêu ở cự ly 10km. Đôi bay hạ gục 2 F-105 bằng 2 quả tên lửa. Đây là một trong những ngày dẫn đánh đạt hiệu quả cao nhất của mặt trận trên không năm 1967.


Chiều ngày 7 tháng 11 năm 1967, kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 921 dẫn chính: Tạ Quốc Hưng tại sở chỉ huy, Trịnh Văn Tuất và Nguyễn Đức Thủy trên hiện sóng, trực ban dẫn đường Binh chủng Nguyễn Văn Chuyên tại sở chỉ huy dẫn bổ trợ. Đôi bay: Nguyễn Hồng Nhị và Nguyễn Đăng Kính cất cánh từ đường lăn của Nội Bài, vào đánh tại khu vực Vạn Yên-Phù Yên-đèo Lũng Lô, góc vào tiếp địch 65 độ, phát hiện F-105 và F-4, bên phải, 15km. Đôi bay phóng 3 quả tên lửa, phi công Nguyễn Hồng Nhị tiêu diệt 1 F-105 và phi công Nguyễn Đăng Kính hạ gục 1 F-4. Sở chỉ huy dẫn về Kiến An hạ cánh
(Bản can trận đánh).

Các kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 921 chịu trách nhiệm dẫn chính: Trần Đức Tụ, Phạm Công Thành tại sở chỉ huy và Trịnh Văn Tuất, Hoàng Kế Thiện, Lê Thiết Hùng trên hiện sóng, các kíp trực ban dẫn đường Binh chủng đảm nhiệm dẫn bổ trợ: Lê Thành Chơn, Nguyễn Văn Chuyên, Vũ Đức Bình tại sở chỉ huy và Phạm Từ Tịnh trên hiện sóng, liên tục làm nhiệm vụ trong 3 ngày. Ngày 8 tháng 11 năm 1967, đôi bay: Đặng Ngọc Ngư và Nguyễn Văn Lý cũng cất cánh từ đường lăn của sân bay Nội Bài, đánh tại khu vực từ Phù Yên đến nam Yên Bái 15km, cũng góc vào tiếp địch 65 độ, cũng phát hiện cả F-4 và F- 105, 15km, nhưng ở bên trái. Bằng 2 quả tên lửa, đôi bay tiêu diệt 2 F-4 và về Gia Lâm hạ cánh. Ngày 18 và 20 tháng 11 năm 1967, đôi bay: Phạm Thanh Ngân-số 1 và Nguyễn Văn Cốc-số 2, đánh 2 trận, đều cất cánh từ Nội Bài, đều đánh tại khu vực Hạ Hoà, với góc vào tiếp địch 60 và 40 độ, vẫn số 1 phát hiện F-105 và F-4, đều ở cự ly 10km. Ta bắn rơi 4 F-105 và đều về Kép hạ cánh.
Tuy nhiên, trong thời gian này, có một số trận dẫn MiG-21 đánh không thành công. Nguyên nhân chủ yếu là nắm không chắc các diễn biến cụ thể về tình hình địch ta trong khu chiến.

Chiều ngày 24 tháng 10 năm 1967, địch vào từ phía Nà Sản và Yên Châu, rồi hợp tốp tại tây bắc Phù Yên 15km, bay lên Đoan Hùng, sau đó xuôi theo triền phía đông Tam Đảo xuống đánh Hà Nội. Kíp trực Ban Dẫn đường Binh chủng dẫn chính: Đào Ngọc Ngư, Vũ Đức Bình tại sở chỉ huy và trực ban dẫn đường Trung đoàn 921 Tạ Quốc Hưng tại sở chỉ huy dẫn bổ trợ được lệnh cho đôi bay: Nguyễn Đăng Kính-số 1 và Đồng Văn Song-số 2 xuất kích. Dựa vào tình báo B1, 14 giờ 50 phút, đôi bay vào cấp 1, 14 giờ 54 phút 30 giây cất cánh từ Nội Bài. MiG-21 đến tây bắc Hòa Bình 15km, sở chỉ huy cho vòng phải, hướng bay 280 độ; đến đông bắc Mộc Châu 15km, cho vòng phải tiếp, hướng bay 350 độ. Ta đến ngang Phù Yên, sở chỉ huy cho vòng phải vào tiếp địch với góc 15 độ. Sau khi phát hiện F-105 và F-4, 6km, phi công xin vứt thùng dầu phụ, nhưng ngay sau đó, báo cáo có F-4 đối đầu Ra-đa dẫn đường không bắt được tốp này. Cùng lúc đó ra-đa dẫn đường lại phát hiện ở phía đông có địch.Thấy tình thế bất lợi, sở chỉ huy cho ta thoát ly, hướng 160 độ. Sau khi thoát ly, số 1 không kiểm tra vị trí số 2 và ra-đa cũng bỏ sót, nên số 1 về đến Suối Rút thì số 2 vẫn còn đang phản kích trong khu chiến. Khi ra-đa bắt được số 2 và sở chỉ huy dẫn thoát ly thì đã quá muộn, số 2 bị trúng tên lửa địch, phải nhảy dù.


Sáng ngày 16 tháng 11 năm 1967, các kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 921 dẫn chính: Phạm Công Thành tại sở chỉ huy, Trịnh Văn Tuất trên hiện sóng và Binh chủng dẫn bổ trợ: Phạm Từ Tịnh tại sở chỉ huy đã thực hiện dẫn đôi bay: Phạm Thanh Ngân-số 1 và Nguyễn Văn Lý-số 2 cất cánh từ Nội Bài, đánh tại khu vực Thanh Sơn - Yên Lập, góc vào tiếp địch 120 độ, số 1 phát hiện cả F-105 và F-4, 17km. Đôi MiG-21 phóng 3 quả tên lửa, không trúng. F-105 vứt bom quay ra, còn F-4 quần nhau với ta. Khi cho thoát ly, sở chỉ huy không nắm được số 1 vẫn đang bị địch bám và số 2 không giữ được đội hình. Số 1 chủ động lệnh cho số 2 dùng tốc độ lớn, thoát ra hướng đông bắc và sau đó sở chỉ huy dẫn đôi bay của ta sang hạ cánh tại sân bay Ninh Minh (Trung Quốc).


Đầu năm 1967, không quân địch thay đổi thủ đoạn hoạt động, gây nhiều khó khăn cho ta. MiG-21 gặp tổn thất lớn. Quân chủng quyết định không quân tạm dừng xuất kích để tổ chức rút kinh nghiệm. Trung đoàn không quân 923 đã tập trung phân tích các thủ đoạn hoạt động mới của địch ở độ cao thấp, nỗ lực tìm cách sớm phát hiện tiêm kích giả làm cường kích và đề ra các biện pháp xử lý khi gặp cường kích có tiêm kích yểm hộ với số lượng đông hoặc chỉ gặp tiêm kích. Tiểu ban Dẫn đường đã kịp thời tổng' hợp kết quả phát hiện địch ở độ cao thấp trên các hướng và đề xuất cách dẫn phối hợp giữa sở chỉ huy và đài chỉ huy bổ trợ đặt tại khu chiến. Tháng 2 năm 1967, trung đoàn chuyển toàn bộ lực lượng của mình xuống Gia Lâm đóng quân để đoàn Z sử dụng căn cứ Kép. Do đó, trong quý I trung đoàn chỉ tổ chức đánh 3 trận, bắn rơi 3 F-4, ta tổ thất 1 MiG-17 và 1 phi công hy sinh do bị địch bắn.
Trong 3 trận trên, điểm nổi bật là cách dẫn phối hợp giữa sở chỉ huy và đài chỉ huy bổ trợ đặt tại khu chiến đã có tác dụng tốt như: Sở chỉ huy Kép và đài chỉ huy bổ trợ ở Chũ trong trận ngày 21 tháng 1 năm 1967 và sở chỉ huy Gia Lâm và đài chỉ huy bổ trợ ở Hòa Lạc trong trận ngày 5 tháng 2 năm 1967 đều đã tạo điều kiện thuận lợi cho phi công bắn rơi địch. Đặc biệt, trận ngày 26 tháng 3 năm 1967, lần đầu tiên không quân ta tổ chức dẫn đánh địch từ căn cứ Hòa Lạc. Tuy hiệu quả dẫn MiG-17 trong trận này không cao (bắn rơi 1 F-4 và 1 phi công hy sinh), nhưng xét từ góc độ bố trí tạo thế trận thì lại có ý nghĩa rất lớn đối với ngành Dẫn đường Không quân vì khả năng dẫn đường sở chỉ huy bắt đầu được mở rộng ra phía tây của Hà Nội trên cơ sở những nỗ lực đã đạt được từ tam giác dẫn đường chiến đấu Nội Bài-Kép-kiến An. Sở chỉ huy Hòa Lạc trở thành một mắt xích vô cùng quan trọng trong mạng lưới chỉ huy-dẫn đường của không quân ta.

Với quyết tâm đánh địch rất cao, Trung đoàn không quân 923 đã xây dựng được nhiều phương án đánh địch mới. Trong thời gian từ 19 đến 30 tháng 4 năm 1967, cách đánh của MIG-17 trở nên rất phong phú như: đánh đồng thời, liên hoàn, trận nối trận (kế tiếp nhau về thời gian vào trận và địa điểm khu chiến), đánh có nghi binh (thu hút, nhử địch), yểm hộ khu vực, đồng thời chớp thời cơ chuyển nhanh các tốp từ yểm hộ sang đánh chính hoặc từ đánh chính sang nghi binh và đánh phục kích... Cách dẫn MIG-17 cũng đã kịp thời đáp ứng các yêu cầu của các cách đánh trên.


Đội ngũ dẫn đường sở chỉ huy phải căng sức ra làm việc, cơ động đến nhiều nơi, tiến hành hiệp đồng công tác với nhiều đầu mối, tổ chức thu tình báo gần tập trung trên bàn dẫn đường (tình báo của nhiều đài ra-đa cùng một lúc được đưa về một bàn dẫn đường) và phân công dẫn đường hiện sóng chuyên trách (dùng một đài ra-đa chuyên bám địch và một đài ra-đa khác chuyên dẫn ta). Cách thức tổ chức dẫn đường sở chỉ huy đã có bước phát triển mới về chiều sâu, hình thành một mạng lưới chỉ huy-dẫn đường, trực tiếp đáp ứng yêu cầu cơ động nhanh lực lượng không quân, từng bước tạo ra thế trận vững chắc, nâng cao hiệu quả đánh địch, không những đối với MIG-17 trong thời gian này mà còn cả đối với MiG-21 trong thời gian tiếp theo.


Chiều ngày 19 tháng 4 năm 1967, theo tình báo xa, trên hướng tây nam Hà Nội có nhiều tốp địch vào qua biên giới. 15 giờ 52 phút, thủ trưởng trực chỉ huy Quân chủng Phùng Thế Tài quyết định cho biên đội MIG-17: Võ Văn Măn-số 1, Hà Đình Bôn-số 2, Phan Văn Túc-số 3 và Nguyễn Bá Địch-số 4, đang cấp 1 tại Gia Lâm, cất cánh. Từ 15 giờ 56 phút đến 15 giờ 58 phút, dẫn đường hiện sóng Nguyễn Quang Sáng báo cáo sở chỉ huy Binh chủng đã bám sát được 2 tốp địch ở tây Mai Châu 15km, vào Suối Rút-Hòa Bình. Trực ban dẫn đường Nguyễn Văn Chuyên tại sở chỉ huy Binh chủng dẫn MIG-17 vòng xuống phía nam Hà Nội, qua Văn Điển. Thanh Oai, rồi nam núi Đồi Bù (833, đông nam Lương Sơn 11km). 16 giờ 07 phút, xuất hiện thêm các tốp địch ở phía tây-tây bắc Hòa Bình 35km, sở chỉ huy Binh chủng cho ngay đôi bay MiGi7: Lê Quang Trung-số 1 và Nguyễn Văn Thọ-số 2 cất cánh từ sân bay Hòa Lạc lên khu vực Sơn Tây-Thanh Sơn để thu hút địch. Biên đội đánh chính được dẫn vào khu chiến ở đông bắc Hòa Bình 10km. Với góc vào 90 độ, số 1 phát hiện 6 F-105, 10km và chỉ huy biên đội vào đánh. Chúng quẳng bom, đối phó với ta. Hai bên quần nhau 10 phút ở độ cao thấp. Số 2 và 3 đều có cơ hội nổ súng. Phi công Nguyễn Bá Địch bắn rơi 1 F-105. Đây là trận có thời gian không chiến dài nhất từ trước tới nay. Khi thoát ly, biên dội đánh chính phân thành 3 tốp và tự bay về ở độ cao rất thấp.
[FONT=&quot]
[FONT=&quot] [/FONT][/FONT]​
 

Estonque

Xe điện
Biển số
OF-27090
Ngày cấp bằng
7/1/09
Số km
3,122
Động cơ
517,199 Mã lực
Nơi ở
Nhà BVC
Gần 17 giờ, trên mạng B1 lại xuất hiện địch vào, ta cho các phân đội MIG-17 trực chiến tại Gia Lâm và Hòa Lạc lần lượt vào cấp 1. 17 giờ 01 phút, biên đội đánh chính: Lưu Huy Chao-số 1, Lê Hải (Lê Văn Hải)-số 2, Nguyễn Văn Bảy-số 3 và Hoàng Văn Kỷ-số 4 xuất kích từ sân bay Gia Lâm. 17 giờ 03 phút, ra-đa dẫn đường phát hiện ở tây-tây bắc Quan Hóa 40km có 1 tốp độ cao 3.500m. Chúng bay đến Tân Lạc thì đổi hướng đông-đông nam và giảm độ cao xuống 2.500m. Có khả năng địch đánh Phủ Lý, biên đội đánh chính giữ hướng bay 200 độ, tốc độ 750km/h, độ cao từ 500 lên 1.500m, bay vào khu chiến ở đông bắc Vụ Bản 15km . 17 giờ 09 phút, sau khi dẫn đường cho vòng phải gấp, cắt vào bên trái đội hình địch với góc 90 độ, biên đội phát hiện ngay 4 chiếc F-105. Địch bị bất ngờ phải vứt bom quay ra. Ta bám theo công kích, nhưng lại để mất mục tiêu. Thủ trưởng trực chỉ huy Quân chủng Phùng Thế Tài lệnh cho vòng tại chỗ, lên độ cao để nhử địch. 17 giờ 10 phút, ra-đa dẫn đường đột nhiên phát hiện 1 tốp địch ở đông nam Hòa Bình 20km, nhưng bay ra phía tây Vụ Bản. 17 giờ 11 phút, sở chỉ huy Binh chủng cho biên đội: Lê Quang Trung-số 1, Nguyễn Văn Thọ-số 2, Nguyễn Xuân Dung-số 3 và Dương Trung Tân-số 4 cất cánh từ sân bay Hòa Lạc, vào khu vực Hòa Bình để sẵn sàng yểm hộ cho biên đội Chao-Hải-Bảy-Kỷ.

Với phán đoán địch sẽ còn vào khu vực tây Vụ Bản ở độ cao thấp, nên thủ trưởng Phùng Thế Tài quyết định cho cả 2 biên đội MIG-17 vào đánh. 17 giờ 18 phút, dẫn đường cho biên đội Chao-Hải-Bảy-Kỷ, đang vòng ở chỗ nhử địch, ra hướng 250 độ, đồng thời cho biên đội Trung- Thọ-Dung-Tân ở Hòa Bình, từ yểm hộ chuyển sang đánh chính, vòng trái gấp, hướng bay 210 độ. 17 giờ 20 phút, xuất hiện 1 tốp địch ở đông Cẩm Thủy 15km độ cao 1.500m, 17 giờ 21 phút, thêm 1 tốp ở tây Suối Rút 27km độ cao 2.000m, chúng đều hướng vào phía tây Vụ Bản. Ta lập tức cho biên đội Chao-Hải-Bảy-Kỷ quay lại đánh tốp ở đông Cẩm Thủy, nhưng địch lên đến Đường 12, lại vòng phải xuống Nho Quan, nên ta buộc phải cho thoát ly về Gia Lâm.


17 giờ 21 phút, biên đội Trung-Thọ-Dung-Tân, đến tây Tân Lạc 10km, vòng trái, hướng bay 140 độ và 2 phút sau, vào khu vực tây Vụ Bản 15km, nhưng không thấy địch. Với ý định quay lại đánh tốp ở tây Suối Rút, dẫn đường cho biên đội vòng phải 180 độ. Sau khi ta cải bằng, bay được 1 phút, sở chỉ huy Binh chủng phát hiện 1 tốp mới, tốc độ nhỏ ở bắc Vụ Bản 5km, bay sang tây Vụ Bản và tốp ở trong Cẩm Thủy từ Nho Quan cũng vòng lên tây Vụ Bản; dẫn đường lập tức cho biên đội Trung-Thọ-Dung-Tân vòng phải gấp, hướng bay 250 độ, vào tiếp địch với góc 140 độ và thông báo vị trí cả 2 tốp mục tiêu. Số 1 phát hiện F-105 và AD-6, cự ly 7km, lập tức lệnh cho số 3 phân thành 2 đôi. Số 1 yểm hộ cho số 2 và số 3 yểm hộ cho số 4. Biên đội hoàn toàn kiểm soát được tình hình, không chiến chủ động trong 3 phút 30 giây, phi công Nguyễn Văn Thọ bắn rơi 1 AD-6, phi công Dương Trung Tân bắn rơi 1 F-105 và 1 AD-6. Anh đã ghi tên mình vào danh sách phi công Không quân nhân dân Việt
Nam trong 1 trận bắn rơi 2 máy bay địch.
Đây là các trận đã thể hiện rất đậm nét cách đánh phong phú và cách vận dụng linh hoạt chiến thuật đánh địch của MiG-17. Biên đội Lê Quang Trung-Nguyễn Văn Thọ-Nguyễn Xuân Dung-DSương Trung Tân trở thành một trong những biên đội MIG-17 đánh đạt hiệu quả cao nhất của không quân ta. Các kíp trực Ban Dẫn đường Binh chủng: Nguyễn Văn Chuyên tại sở chỉ huy, Nguyễn Quang Sáng trên hiện sóng và Trung đoàn 923: Đỗ Cát Lâm, Hà Đăng Khoa tại sở chỉ huy, Trần Xuân Dung trên hiện sóng đã nỗ lực hết mình, dẫn đánh đúng ý định của người chỉ huy và còn kịp thời xử lý dẫn số 3 bị lạc đường về Gia Lâm hạ cánh an toàn.

Ngày 24 tháng 4 năm 1967, các thủ trưởng trực chỉ huy Quân chủng Nguyễn Văn Tiên và Trung đoàn 923 Lê Oánh và Đào Công Xưởng tổ chức cho MiG-17 đánh 2 trận. Buổi sáng, biên đội: Mai Đức Toại-số 1, Lê Hải-số 2, Lưu Huy Chao-số 3 và Hoàng Văn Kỷ-số 4 cất cánh từ sân bay Gia Lâm, đánh tại Phả Lại ở độ cao thấp. Trực ban dẫn đường tại sở chỉ huy Binh chủng Nguyễn Văn Chuyên cho vào tiếp địch với góc 60 độ. Số 2 phát hiện F-105, 6km và báo cáo số 1. Phi công Mai Đức Toại cắt vào, bắn rơi 1 F-105, rồi cả biên đội chỉnh tề về Gia Lâm hạ cánh. Buổi chiều, biên đội: Võ Văn Mẫn, Nguyễn Bá Địch, Nguyễn Văn Bảy và Nguyễn Thế Hôn xuất kích từ sân bay Kiến An, vào khu chiến tại Sơn Động cũng đánh ở độ cao thấp, đạt hiệu quả cao.


Ngày 25 tháng 4 năm 1967, các thủ trưởng trực chỉ huy Binh chủng Nguyễn Văn Tiên và Trung đoàn 923 Nguyễn Phúc Trạch tiếp tục tổ chức cho MIG-17 đánh 4 trận. Kíp trực Ban Dẫn đường Binh chủng: Nguyễn Văn Chuyên tại sở chỉ huy và Vũ Đức Bình trên hiện sóng tại C-43 chịu trách nhiệm dẫn chính cả 4 trận. Trong đó, có 2 trận gặp địch, nhưng không bắn rơi, còn 2 trận đạt kết quả tốt Khoảng 11 giờ, địch vào từ phía tây nam Suối Rút, lên Hòa Bình. 11 giờ 25 phút biên đội: Lê Quang Trung, Nguyễn Hữu Điệt, Phạm Thanh Tài và Nguyễn Văn Thọ cất cánh từ sân bay Hòa Lạc, được dẫn vào khu chiến Hòa Bình. Với góc 120 độ, phi công Lê Quang Trung phát hiện F-105, 7km. Anh cắt vào, bắn rơi ngay 1 F-105 và biên đội chỉnh tề thoát ly về sân bay Hòa Lạc. Buổi trưa địch vào Hải Phòng. Biên đội: Nguyễn Văn Bảy, Hà Bôn, Nguyễn Thế Hôn và Nguyễn Bá Địch, đánh phục kích tại sân bay Kiến An, giành chiến công lớn.


Ngày 26 tháng 4 năm 1967, MiG-17 lại đánh 4 trận. Trong khoảng thời gian 2 giờ, có tới 4 biên đội cất cánh, có biên đội phải cất cánh 2 lần, nhưng hiệu quả chiến đấu lại không đạt yêu cầu. Ngày 27, ta tổ chức rút kinh nghiệm.
Ngày 28 tháng 4 năm 1967, có khả năng địch cảm thấy Không quân ta đánh ở vòng cung phía tây và phía nam Hà Nội không thực sự nguy hiểm lắm, nên chúng lại kéo vào. Quân chủng cho MiG-17 tiếp tục đánh. 14 giờ 25 phút, biên đội: Mai Đức Toại, Lê Hải, Lưu Huy Chao và Hoàng Văn Kỷ cất cánh từ sân bay Gia Lâm, vào khu chiến ở Chương Mỹ. Cùng lúc đó biên đội: Dương Trung Tân, Nguyên Hữu Điệt, Phạm Thanh Tài và Nguyễn Văn Thọ cất cánh từ sân bay Hòa Lạc, vào khu chiến tại phía tây Ba Vì. Các trực ban dẫn đường Đào Ngọc Ngư tại sở chỉ huy Binh chủng dẫn chính và Bùi Hữu Hành, Hà Đăng Khoa tại sở chỉ huy Gia Lâm dẫn bổ trợ. Rất ngẫu nhiên, cả hai biên đội đều cất cánh lúc 14 giờ 25 phút, đều được dẫn vào tiếp địch với góc 120 độ và phi công đều phát hiện F-105 ở cự ly 8km. Các phi công Lê Hải và Phạm Thanh Tài, mỗi người bắn rơi 1 F-105. Ta về hạ cánh tại các sân bay đã cất cánh. MiG-17 lập chiến công với cách đánh đồng thời.

Hơn 1 giờ sau địch tiếp tục vào, trên cho MIG-17 chỉ đánh trên hướng tây nam Hà Nội (MiG-21 đánh trên hướng tây bắc Hà Nội). Kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 923 dẫn chính và kíp trực Ban Dẫn đường Binh chủng dẫn bổ trợ. Đôi bay: Hồ Văn Quỳ và Phan Trọng Vân từ Gia Lâm vào khu chiến Hòa Bình, còn biên đội: Nguyễn Văn Bảy, Nguyễn Hồng Điệp, Võ Văn Mẫn và Nguyễn Bá Địch, sau khi cánh từ Gia Lâm, phân thành 2 tốp vào đánh tại hai khu vực Xuân Mai và Văn Điển. Các đôi bay đều phát hiện địch, không chiến rất quyết liệt, nhưng ta bắn không kết quả và trở về hạ cánh an toàn.


Trong 2 ngày cuối cùng của tháng 4 năm 1967 ta chỉ dẫn đánh mỗi ngày 1 trận. Chiều ngày 29, biên đội: Nguyễn Văn Bảy-số 1, Lê Sĩ Diệp-số 2, Võ Văn Mẫn-số 3 và Trương Văn Cung-số 4 cất cánh từ sân bay Hòa Lạc và được dẫn đến khu chiến Hòa Bình, với góc vào 120 độ, số 1 phát hiện F-4, 8km. Sau 3 phút không chiến phi công Nguyễn Văn Bảy hạ 1 F-4. Biên đội trở về sân bay Hòa Lạc. Chiều ngày 30, biên đội: Hồ Văn Quỳ, Nguyễn Văn Phi, Nguyễn Xuân Dung và Nguyễn Văn Thọ cũng xuất kích từ Hòa Lạc, đánh tại khu vực tây nam Hòa Bình 15km. Do ra-đa dẫn đường bắt địch không tốt, biên đội phải vòng đi, vòng lại nhiều lần. Mọi nỗ lực của kíp trực ban dẫn đường đều không thành.


Như vậy, trong 12 ngày của tháng 4 năm 1967, các kíp trực Ban Dẫn đường Binh chủng và Trung đoàn 923 tổ chức dẫn ít nhất là 18 trận, đều xuất kích đúng thời cơ, trong đó có ít nhất 8 trận chỉ dựa vào tình báo B1. 9 trận được dẫn vào với góc từ 80 đến 140 độ, phát hiện địch ở cự ly từ 3km đến 10km. Có 4 trận sử dụng tốc độ tiếp cận nhỏ hơn địch (-50km/h) và 2 trận bằng địch, nhưng phi công cắt bán kính lượn vòng tốt, nên đều bắn rơi; có 2 trận cũng sử dụng tốc độ tiếp cận nhỏ hơn địch (-50km/h và -100km/h), phi công tuy bám được địch, nhưng bắn không kết quả.
Tháng 5 năm 1967, địch tiếp tục đánh lớn vào Hà Nội, chia làm nhiều đợt trong ngày, mỗi đợt với số lượng đông; hướng vào chủ yếu là tây nam, tập trung đánh thẳng vào Hà Nội, đồng thời tách một phần vòng qua bắc Tam Đảo đánh xuống. Các trận đánh của không quân ta đều trở nên rất quyết liệt, nhất là đối với MIG-17.

Sáng 1 tháng 5 năm 1967, sau khi nghiên cứu các tốp địch trên hướng tây nam Hà Nội, các thủ trưởng trực chỉ huy Nguyễn Văn Tiên và Lê Oánh đã quyết định cho biên đội MiG-17; Nguyễn Văn Bảy-số 1, Lê Sĩ Diệp-số 2, Võ Văn Mẫn-số 3 và Nguyễn Bá Địch-số 4, đang trực chiến tại Hòa Lạc, xuất kích. Kíp trực ban dẫn đường tại sở chỉ huy Binh chủng: Nguyễn Văn Chuyên và Trung đoàn không quân 923: Hà Đăng Khoa thực hiện dẫn phối hợp. Biên đội MIG-17 cất cánh đúng thời cơ, bay vào khu chiến Hòa Bình-suối Rút, gặp một tốp lớn 20 chiếc của địch ở độ cao thấp. Sở chỉ huy dẫn vào tiếp địch với góc nhỏ 35 độ. Biên đội phát hiện địch ở cự ly 4km, rất nhiều F-4 và F-105 đi trong đội hình hỗn hợp. Ta phải không chiến 11 phút, dài chưa từng có. Số 1, 2 và 4 đều nổ súng. Hai phi công Lê Sĩ Diệp và Nguyễn Bá Địch, mỗi người bắn rơi 1 F-4. Nhưng sau đó, số 4 hy sinh, do bị trúng tên lửa địch. Các số còn lại về Gia Lâm hạ cánh.


Ngày 12 tháng 5 năm 1967, địch vào từ hướng tây nam, phần lớn lực lượng của chúng đánh thẳng vào Hà Nội và số còn lại vòng qua Sơn Dương theo dãy Tam Đảo đánh xuống. Thủ trưởng trực chỉ huy Binh chủng Nguyễn Văn Tiên quyết định cho MIG-17 đánh trước ở vòng trong và MiG-21 đánh sau ở vòng ngoài (Đôi bay MiG-21 Lê Trọng Huyên-Đồng Văn Song cất cánh từ Nội Bài, đánh tại khu vực Mai Châu-vạn Yên lúc 16 giờ 45. Phi công Đồng Văn Song bắn rơi 1 F-105). Các trực ban dẫn đường Đào Ngọc Ngư, Phạm Từ Tịnh tại sở chỉ huy Binh chủng chịu trách nhiệm dẫn chính và Đỗ Cát Lâm tại sở chỉ huy Trung đoàn 923 đảm nhiệm dẫn bổ trợ. Biên đội MIG-17: Cao Thanh Tịnh-số 1, Lê Hải-số 2, Ngô Đức Mai-số 3 và Hoàng Văn Kỷ-số 4, sau khi cất cánh khỏi sân bay Gia Lâm lúc 15 giờ 31 phút
(Bản can trận đánh), lập tức được dẫn vòng trái, qua phía bắc Hà Nội, vào khu chiến trên đỉnh Hòa Lạc. Sở chỉ huy Binh chủng dẫn vào đánh tốp bay thấp với góc tiếp địch 120 độ. Đài chỉ huy bổ trợ tại sân trực tiếp thông báo vị trí mục tiêu và dẫn máy bay ta bám địch. Số 1 phát hiện cả F-4 và F-105 ở cự ly 6km. Biên đội không chiến 4 phút. Các phi công Cao Thanh Tịnh bắn rơi 1 F-105, Ngô Đức Mai và Hoàng Văn Kỷ, mỗi phi công bắn rơi 1 F-4. Biên đội Cao Thanh Tịnh- Lê Hải-Ngô Đức Mai-Hoàng Văn Kỷ đã ghi tên mình vào danh sách những biên đội MIG-17 đánh đạt hiệu quả cao nhất của không quân ta. 15 giờ 50 phút (Bản can trận đánh), đôi bay MiG-17: Phạm Thanh Tài và Nguyễn Hữu Điệt cất cánh cũng từ sân bay Gia Lâm, nhưng vòng phải, qua phía nam Hà Nội, vào khu vực Sơn Tây-hòa Lạc để yểm hộ cho biên đội Tịnh-Hải-Mai-Kỷ. Sau đó, tất cả về Gia Lâm hạ cánh. Trong khi không chiến còn đang diễn ra tại Hòa Lạc, sở chỉ huy Binh chủng dẫn tiếp biên đội MiG-17: Dương Trung Tân, Phan Trọng Vân, Trương Văn Cung và Nguyễn Văn Thọ cất cánh từ Nội Bài, vào khu vực Phúc Yên-Vĩnh Yên đánh địch từ phía tây triền Tam Đảo xuống. Với góc vào tiếp địch 100 độ, biên đội phát hiện tốp lớn, toàn F-105, cự ly 5km. Ta vào không chiến chủ động, địch quẳng bom đối phó. Tuy không bắn rơi, nhưng biên đội đã cản phá được tốp cường kích, không cho chúng vào đến Hà Nội. Đây cũng là những trận mà các kíp trực ban dẫn đường đã dẫn thành công MIG-17 đánh liên hoàn, trận nối trận và đánh có yểm hộ khu vực. Ngày 12 tháng 5 năm 1967 là một trong những ngày dẫn đánh địch đạt hiệu quả cao nhất của mặt trận trên không trong năm 1967.
 

Estonque

Xe điện
Biển số
OF-27090
Ngày cấp bằng
7/1/09
Số km
3,122
Động cơ
517,199 Mã lực
Nơi ở
Nhà BVC
Qua các trận đánh đầu tháng 5 năm 1967, địch vẫn dùng số lượng đông, nhưng khác với trước là chúng bay nhiều tầng, nhiều lớp, sử dụng đội hình hỗn hợp, gây nhiễu cả trong và ngoài đội hình. Các kíp trực ban dẫn đường luôn gặp khó khăn trong dẫn đánh đúng tốp cường kích. Phi công, sau khi được dẫn vào tiếp địch, thường gặp phải tiêm kích hoặc trong lúc đánh cường kích lại bị nhiều tốp tiêm kích khác bám theo.

Sáng ngày 19 tháng 5 năm 1967, địch vào từ phía Vụ Bản, lên Lương Sơn đánh Hà Nội. Thủ trưởng trực chỉ huy Binh chủng Nguyễn Văn Tiên quyết định sử dụng MIG-17 đánh trên hướng tây nam và MiG-21 đánh trên hướng tây bắc. Trực chỉ huy Trung đoàn 923 Đào Công Xưởng cho MIG-17 xuất kích . Trực ban dẫn đường Binh chủng Nguyễn Văn Chuyên dẫn chính và Trung đoàn 923 Bùi Hữu Hành dẫn bổ trợ. 10 giờ 15 phút đôi bay: Phan Tấn Duân và Bùi Văn Sưu cất cánh từ Gia Lâm, vòng xuống Thường Tín, bay vào khu chiến Chương Mỹ-Xuân Mai- Thanh Oai
(Bản can trận đánh). Không chiến kéo dài hơn 8 phút, ta đã cản phá được một số tốp đánh vào Hà Nội. Trong khi thoát ly về đến Văn Điển, đôi bay Duân-Sưu vẫn phải quay lại phản kích, rồi mới về Gia Lâm hạ cánh.

Buổi chiều cùng ngày, địch sử dụng lực lượng lớn hơn vào đánh Hà Nội. 14 giờ 24 phút, biên đội: Trần Minh Phương-số 1, Nguyễn Văn Thọ-số 2, Dương Trung Tân-số 3 và Nguyễn Văn Phi-số 4 cất cánh từ Gia Lâm và 2 phút sau, đôi bay: Phạm Thanh Tài và Nguyễn Hữu Điệt cũng được lệnh cất cánh. Tất cả vòng xuống Văn Điển, lên độ cao 1.000m, giữ tốc độ 750km/h, sở chỉ huy Binh chủng cho vào đánh tại khu chiến Thanh Oai-Quốc Oai
(Bản can trận đánh). Với góc vào tiếp địch 120 độ, biên đội đi trước báo cáo phát hiện đội hình lớn hỗn hợp cả F-4, F-8 và A-4, cự ly 6km. Đôi bay phía sau sẵn sàng vào trận. Không chiến quyết liệt giữa ta và địch trong 7 phút. Số 1 và số 4 của biên đội vào đánh trước bị trúng tên lửa địch, hy sinh. Các phi công Phạm Thanh Tài và Nguyễn Hữu Điệt, mỗi người bắn rơi 1 F-4, nhưng sau đó số 1 của đôi bay đánh sau cũng hy sinh, còn số 2 phải nhảy dù. Ta cản phá được một mũi rất nguy hiểm của địch đánh vào Hà Nội, nhưng MIG-17 đã bị tổn thất quá nặng.

Trong các trận đánh tiếp theo, từ cuối tháng 5 đến đầu tháng 6 năm 1967, kết quả tìm đúng tốp cường kích địch để dẫn MiG-17 vào đánh, không đạt yêu cầu; ta không những gặp tổn thất về máy bay, mà còn mất đi một số phi công lão luyện. Trước tình hình đó, trên quyết định tạm thời giảm bớt nhiệm vụ chiến đấu đối với MIG-17, củng cố lại lực lượng để tìm cách xoay chuyển tình thế. Phải đến cuối tháng 8, đầu tháng 9 năm 1967, MiG-17 mới giành lại hiệu quả chiến đấu bằng giải pháp tổ chức dẫn đánh phối hợp, hiệp đồng và phục kích.

*

* *
 

Estonque

Xe điện
Biển số
OF-27090
Ngày cấp bằng
7/1/09
Số km
3,122
Động cơ
517,199 Mã lực
Nơi ở
Nhà BVC
Chiều ngày 23 tháng 8 năm 1967, địch sử dụng đội hình lớn, trên 60 chiếc, theo đường bay: từ Sầm Nưa, qua Yên Bái, lên bắc Tuyên Quang, men theo triền phía bắc dãy Tam Đảo, xuống Phổ Yên, Đa Phúc vào đánh Hà Nội. Sau khi đánh giá tình hình, các thủ trưởng trực chỉ huy Binh chủng: Đào Đình Luyện, Đỗ Long, Trung đoàn 921 Trần Hanh (Bản can trận đánh) và 923 Nguyễn Phúc Trạch đã thống nhất tổ chức đánh phối hợp hiệp đồng giữa MiG-21 và MlG-17. Để thực hiện được ý định của người chỉ huy, các trực ban dẫn đường tại sở chỉ huy Binh chủng đã được phân công: Đào Ngọc Ngư phụ trách MiG-21 và Lưu Văn Cộng-MiG-17, sử dụng 2 tiêu đồ gần thu tình báo của C-41, 45 và đánh dấu đường bay trên 1 bàn dẫn đường (Bản can trận đánh); kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 921: Trần Đức Tụ tại sở chỉ huy và Lê Thiết Hùng trên hiện sóng, còn Trung đoàn 923: Hà Đăng Khoa, Bùi Hữu Hành tại sở chỉ huy và Trần Xuân Dung trên hiện sóng. Binh chủng phối hợp với Trung đoàn 921 dẫn MiG-21, Trung đoàn 923 dẫn chính MiG-17.

14 giờ 57 phút, đôi bay MiG-21: Nguyễn Nhật Chiêu- số 1 và Nguyên Văn Cốc-số 2 cất cánh từ Nội Bài, bay ra hướng tây, qua Nam Thanh Sơn, rồi vòng phải lên hướng bắc. Trên hiện sóng, trực ban dẫn đường Lê Thiết Hùng bám sát được 3 tốp địch ở cuối đội hình, tại sở chỉ huy, trực ban dẫn đường Đào Ngọc Ngư dẫn MiG-21 vào tiếp cận với góc 60 độ, tăng nhanh tốc độ và lên độ cao có lợi. Đến Tuyên Quang, số 1 phát hiện 4 chiếc ở cự ly 15km và ngay sau đó cả đôi bay phát hiện 8, rồi 12 chiếc cả F-4 và F- 05. Tất cả chỉ trong vòng có 1 phút. Tình hình trên không hầu như đã được kiểm soát toàn bộ. Bằng 2 quả tên lửa, phi công Nguyễn Nhật Chiêu diệt 2 F-4
(Dẫn đường thông kê các trận đánh của Không quân, quyển L. Nhưng "Một số trận đánh của Không quân trong chiến tranh chống Mỹ", Nxb QĐND-1996, quyển 1, tr.45: phi công Nguyễn Nhật Chiêu bắn rơi 1 F-4 và 1 F-105). Đồng chí đã trở thành phi công MiG-21 thứ ba trong 1 trận bắn rơi 2 máy bay địch. Và ngay sau đó thêm 1 quả tên lửa nữa, phi công Nguyễn Văn Cốc diệt tiếp 1 F-4. Đây là trận dẫn đánh địch đạt hiệu suất chiến đấu cao nhất của Không quân nhân dân Việt Nam. Tốp F-105 vứt bom quay ra. Đôi MiG-21 về Nội Bài hạ cánh.

Khi MiG-21 bắt đầu xuất kích ra hướng tây thì sở chỉ huy Trung đoàn 923 cho biên đội MiG-17: Cao Thanh Tịnh-số 1, Lê Văn Phong-số 2, Nguyễn Văn Thọ-số 3 và Nguyễn Hồng Điệp-số 4 ở Gia Lâm cất cánh (15 giờ) và dẫn vào khu chiến Đa Phúc-Phúc Yên
(Bản can trận đánh). Dựa vào kết quả bám ,địch của trực ban dẫn đường hiện sóng Trần Xuân Dung, tại sở chỉ huy trực ban dẫn đường Hà Đăng Khoa và Bùi Hữu Hành, tập trung dẫn MIG-17 đánh các tốp đi đầu của đội hình địch và cho vào tiếp cận với góc nhỏ (20, 30 độ). Số 1 phát hiện cả F-4 và F-105, 8km. Biên đội không chiến 3 phút ở độ cao 1.500m, phi công Cao Thanh Tịnh và Lê Văn Phong nổ súng, 1 F-l05 và 1 F-4 rơi, nhưng sau đó số 2 hy sinh do bị địch bắn. Các số còn lại được dẫn về Kép.
Cũng trong thời gian ta tổ chức đánh ở 2 khu vực trên, kíp trực ban dẫn đường Binh chủng còn theo dõi chặt chẽ Đoàn Z dẫn một biên đội MIG-17 của mình, xuất kích từ sân bay Kép (cất cánh 14 giờ 58), đánh tại khu vực Bắc Ninh, bắn rơi 1 F-105 và về hạ cánh tại Nội Bài. Mũi đánh lớn của địch cơ bản bị bẻ gẫy trước khi vào đến Hà Nội. Các kíp trực ban dẫn đường đã góp công rất xứng đáng, tạo nên trận đánh phối hợp, hiệp đồng xuất sắc giữa MiG-21 và MIG-17. Đây còn là lần đầu tiên ta dẫn thành công MiG-21 và MIG-17 đánh phân đoạn các tốp mục tiêu trong một đội hình lớn của địch.

Sáng ngày 7 tháng 10 năm 1967, địch vào đánh Hà Nội từ 2 hướng tây và nam, đồng thời chúng cho nhiều tốp khác khống chế ta tại các khu vực Sơn Dương-đại Từ-lập Thạch và Mỹ Đức-Thanh Oai. Chấp hành ý định tác chiến của các thủ trưởng trực chỉ huy Quân chủng và Binh chủng, Trung đoàn 921 và Trung đoàn 923 tổ chức thực hiện đánh phối hợp, hiệp đồng. Kíp trực Ban Dẫn đường Binh chủng chịu trách nhiệm dẫn chính: Phạm Từ Tịnh (MiG- 21), Lưu Văn Cộng (MiG-17) tại sở chỉ huy và Phạm Văn Khả trên hiện sóng. Các kíp trực ban dẫn đường hai trung đoàn đảm nhiệm dẫn bổ trợ, Trung đoàn 921: Phạm Công Thành tại sở chỉ huy và Trịnh Văn Tuất trên hiện sóng; Trung đoàn 923: Trần Kỳ tại sở chỉ huy và Trần Xuân Dung trên hiện sóng.


Căn cứ vào tình báo B1, 7 giờ 32 phút, đôi bay MiG-21: Phạm Thanh Ngân và Mai Cương cất cánh từ Nội Bài. 7 giờ 34 phút, ra-đa dẫn đường bắt được tốp địch 12 chiếc, độ cao 4.000m ở nam Nà Sản 15km, bay về phía Bắc Yên- Phù Yên. Trực ban dẫn đường Phạm Từ Tịnh dẫn MiG-21 bay qua Sơn Tây và lên Thanh Sơn. Sau khi qua Thanh Sơn một phút, trực ban dẫn đường cho MiG-21 vòng phải, hướng bay 360 độ và bay thêm một phút nữa để lựa thời cơ vào tiếp địch, rồi cho vòng trái gấp, lên độ cao 3.000m, chặn tốp địch 12 chiếc bay từ Phù Yên vào Hòa Lạc. Đôi bay được dẫn vào với góc 70 độ, phát hiện F-4, bên phải, 15km. MiG-21 tăng tốc độ bám theo và lần rượt vào công kích. Bằng 2 quả tên lửa, mỗi phi công bắn rơi 1 F-4 và thoát ly trước khi qua sông Đà. Tám phút sau khi MiG-21 cất cánh, biên đội MiG-17: Nguyễn Hữu Tào, Nguyễn Phú Ninh, Nguyễn Hồng Điệp và Nguyễn Phi Hùng được dẫn từ Gia Lâm, vòng lên Nội Bài và đánh tại khu vực Sơn Tây-Ba Vì-Hòa Lạc ở độ cao 1.000m. Với góc vào 110 độ, ta phát hiện cả F-4 và F-105 ở cự ly 7km, phi công Nguyễn Phi Hùng bắn rơi 1 F-4. Tốp địch từ hướng tây vào đánh Hà Nội buộc phải vứt bom, tháo chạy.


Một trong những ưu điểm nổi bật của trận này là dẫn đường đã chọn đúng hướng và độ cao xuất kích, phối vị độ cao đánh hợp lý cho cả MiG-21 và MiG-17, vô hiệu hóa các tốp địch vào khống chế. Dẫn đường tiếp tục phát huy dẫn thành công MiG-21 và MIG-17 đánh phân đoạn các tốp mục tiêu trong một đội hình lớn của địch.
Sáng ngày 6 tháng 11 năm 1967, địch từ phía Hồng Gai, men theo triền phía nam của dãy Yên Tử, qua Uông Bí, hướng về Phả Lại, đồng thời từ phía tây nam, qua Hòa Bình, Suối Rút, lên Hòa Lạc. Không quân nhận nhiệm vụ tổ chức đánh các tốp từ phía đông vào Hà Nội. Thủ trưởng trực chỉ huy Binh chủng Đào Đình Luyện giao nhiệm vụ cho hai trung đoàn 921 và 923: sử dụng lực lượng từ hai sân bay Gia Lâm và Kép đánh bảo vệ phía đông Hà Nội. Kíp trực ban dẫn đường Binh chủng: Nguyễn Văn Chuyên, Vũ Đức Bình và Lưu Văn Cộng tại sở chỉ huy dẫn bổ trợ cho hai trung đoàn. Các kíp trực ban dẫn đường của từng trung đoàn chịu trách nhiệm dẫn chính lực lượng của mình, Trung đoàn 921: Phạm Công Thành tại sở chỉ huy; Trung đoàn 923: Hà Đăng Khoa tại sở chỉ huy Gia Lâm, Bùi Hữu Hành tại sở chỉ huy Kép.

7 giờ 38 phút, đôi bay MiG-21: Đặng Ngọc Ngự và Nguyễn Văn Lý cất cánh từ sân bay Gia Lâm, đi Thanh Miện, vòng phải qua Hưng Yên, Kim Bảng, rồi quay lại chặn tốp 16 chiếc của địch ở độ cao 2.000m tại khu vực Đông Triều. Trực ban dẫn đường Phạm Công Thành dẫn MiG-21 vào tiếp địch với góc 120 độ, phi công không phát hiện mục tiêu. Khi đôi bay cắt qua đường bay địch, dẫn đường cho vòng lại, nhưng bị lạc hậu, buộc phải dẫn thoát ly. Lúc này khu vực Nội Bài có máy bay địch, nên sở chỉ huy lệnh cho đôi Ngư-Lý đi sân bay Ninh Minh hạ cánh. 7 giờ 48 phút, biên đội MIG-17 thứ nhất: Bùi Văn Sưu, Nguyễn Duy Tuân, Lê Xuân Dị và Nguyễn Đình Phúc cất cánh từ sân bay Kép vào khu chiến Bắc Giang. Trực ban dẫn đường Bùi Hữu Hành dẫn vào tiếp địch với góc 70 độ, biên đội phát hiện F-105 ở cự ly 5km. Phi công Nguyễn Đình Phúc ở vị trí có lợi, vào công kích và bắn rơi 1 F-105. Cả biên đội hạ cánh ngay xuống Kép. 7 giờ 50 phút biên đội MiG-17 thứ hai
(Bản can trận đánh): Nguyễn Hữu Tào, Phan Trọng Vân, Nguyên Văn Thọ và Nguyễn Phi Hùng xuất kích từ sân bay Gia Lâm vào đánh tại Phả Lại. Chỉ có số 2 có cơ hội nổ súng, nhưng bắn không kết quả.

Chiều ngày 6 tháng 11 năm 1967, địch cho lực lượng đông hơn từ Cẩm Phả - Tiên Yên, men theo phía bắc dãy Yên Tử, qua Sơn Động, Lục Nam, vào đánh Hà Nội. 15 giờ 35 phút, đôi bay MiG-21: Đặng Ngọc Ngự-số 1 và Nguyễn Văn Lý-số 2 xuất kích từ Gia Lâm (buổi sáng, sau khi hạ cánh Ninh Minh, chuyển sân về Gia Lâm ngay và vào trực luôn), đi Ninh Giang, vòng trái qua Kiến An, Hải Phòng, Quảng Yên. Trực ban dẫn đường Phạm Công Thành dẫn MiG-21 vòng trái, vào tiếp địch với góc 60 độ ở bắc Uông Bí 10km, nhưng xông trước, hai bên đều thấy nhau, địch cơ động lợi thế, ta phải thoát ly lên hướng bắc và lại sang Ninh Minh hạ cánh. 15 giờ 38 phút, biên đội MiG-17 thứ nhất: Nguyễn Hữu Tào-số 1, Phan Trọng Vân-số 2, Nguyễn Văn Thọ-số 3 và Nguyễn Phi Hùng-số 4 xuất kích từ sân bay Gia Lâm, được trực ban dẫn đường Hà Đăng Khoa dẫn men theo phía nam đường 5 đến Cẩm Giàng, vòng trái vào Chí Linh, gặp đội hình hỗn hợp cả F- 4 và F-105. Ta vào không chiến bị động và kéo lên phía Lục Ngạn. Các phi công Nguyễn Văn Thọ và Nguyễn Phi Hùng, mỗi người bắn rơi 1 F-105, còn số 1 hy sinh và số 2 phải nhảy dù do bị địch bắn. 15 giờ 44 phút, biên đội MiG-17 thứ hai: Bùi Văn Sưu-số 1, Nguyễn Duy Tuân-số 2, Lê Xuân Dị-số 3 và Nguyễn Đình Phúc-số 4 cất cánh từ sân bay Kép, vào khu vực Lục Ngạn để đánh tiếp ứng, đồng thời yểm hộ cho số 3 là số 4 của biên đội thứ nhất thoát ly. Với góc vào 60 độ, số 4 phát hiện F-105, 6km. Biên đội vào không chiến, phi công Bùi Văn Sưu bắn rơi 1 F-105. MiG-17 về Gia Lâm hạ cánh.
[FONT=&quot][/FONT]
[FONT=&quot] [/FONT]​
 

Estonque

Xe điện
Biển số
OF-27090
Ngày cấp bằng
7/1/09
Số km
3,122
Động cơ
517,199 Mã lực
Nơi ở
Nhà BVC
Dẫn đánh phối hợp, hiệp đồng giữa MiG-21 và MIG-17 trong ngày 6 tháng 11 năm 1967 đã để lại một bài học lớn về lựa chọn thời cơ cất cánh cho MIG-21 và MIG-17 khi đánh phân đoạn các tốp mục tiêu trong một đội hình lớn của địch, về mối quan hệ hữu cơ giữa kết quả dẫn tiếp địch của tốp đánh trước và tốp đánh sau. Trận buổi sáng, dẫn đường cho MiG-21 cất cánh sớm, nên đã phải đưa xuống tận Thanh Miện-Hưng Yên-Kim Bảng, rồi mới quay lại vào tiếp địch và nếu theo đề xuất cất cánh (7 giờ 34 phút) thì còn bị sớm hơn nữa. Trận buổi chiều, dẫn đường cho MiG-17 ở Gia Lâm cất cánh muộn, nên phi công vào không chiến bị động. Hai lần dẫn MiG-21 vào đánh trước không tốt đã làm mất yếu tố bất ngờ khi dẫn MIG-17 vào đánh sau.

Chiều ngày 17 tháng 12 năm 1967, sau khi nhận được tin địch sẽ tổ chức đánh lớn vào Hà Nội; ta dự đoán, chúng có thể vào theo hai đường. Đường thứ nhất: Sầm Nưa-Yên Châu-Yên Bái-Tuyên Quang, rồi xuống theo dãy Tam Đảo và đường thứ hai: Sầm Nưa-suối Rút-Hòa Bình, rồi theo đường 6. Thủ trưởng trực chỉ huy Binh chủng Nguyễn Văn Tiên và Đào Đình Luyện ra ý định tác chiến: Nếu địch vào đường thứ nhất: MiG-21 ra Nghĩa Lộ, đánh địch trước Tuyên Quang; MIG-17 ra Đoan Hùng, đánh địch từ Sơn Dương trở vào. Nếu địch vào đường thứ hai: 2 MiG-21 ra Vạn Yên, đánh địch trước Suối Rút, 1 MiG-21 ra Quan Hóa cũng đánh trước Suối Rút, đồng thời yểm hộ cho MIG-17; MIG-17 ra hướng tây, đánh từ Suối Rút-Hòa Bình trở vào
(còn có 2 MiG-21 và 4 MIG-17 của Đoàn Z tham gia). Trong kíp trực Ban Dẫn đường Binh chủng, từng người đều được phân công cụ thể: tại sở chỉ huy, Nguyễn Văn Chuyên dẫn chính MiG-21 (Quan Hóa) và Đào Ngọc Ngư dẫn bổ trợ MiG-17, Phạm Văn Khả trên hiện sóng. Kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 921 dẫn chính MiG-21 (Vạn Yên): Tạ Quốc Hưng, Trần Đức Tụ tại sở chỉ huy, Hoàng Kế Thiện và Lê Thiết Hùng trên hiện sóng. Kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 923 dẫn chính MiG-17: Bùi Hữu Hành và Hà Đăng Khoa tại sở chỉ huy, Trần Xuân Dung trên hiện sóng.

15 giờ 10 phút, địch vào, nhưng chúng không lên Yên Bái mà hướng vào Phú Thọ. Thủ trưởng trực chỉ huy Trung đoàn 921 Trần Mạnh quyết định cho các phân đội trực chiến vào cấp 1 và mở máy, cất cánh ngay. 15 giờ 16 phút, đôi bay MiG-21: Vũ Ngọc Đỉnh-số 1 và Nguyễn Đăng Kính-số 2 cất cánh từ Nội Bài. Sở chỉ huy Trung đoàn 921 xin đổi hướng xuất kích, dẫn đôi MiG-21 vòng xuống Hòa Lạc, qua núi Viên Nam, vòng phải lên Thanh Sơn, rồi vòng trái cơ động hình chữ "S" sang phía tây Yên Lập 7km và cho vào tiếp cận tốp 16 chiếc, trên đoạn từ Thanh Ba đến Phù Ninh với góc 70 độ
(Bản can trận đánh). 15 giờ 25 phút, số 1 phát hiện cả F-105 và F-4, từ 10 đến 15km. Được số 2 yểm hộ chặt chẽ, phi công Vũ Ngọc Đỉnh phóng 2 quả tên lửa, hạ gục 2 F-105. Đồng chí đã ghi tên mình vào danh sách phi công trong một trận bắn rơi 2 máy bay địch. Đôi MiG-21 tiếp tục phản kích, sau đó về Nội Bài hạ cánh. Hai phút sau khi đôi bay Đỉnh-Kính cất cánh, phi công MiG-21 Nguyễn Hồng Nhị rời khỏi đường băng Nội Bài. Trực ban dẫn đường Nguyễn Văn Chuyên cho vòng xuống Sơn Tây, qua Hòa Bình, đến Suối Rút vòng phải, hướng bay 360 độ lên Yên Lập đánh tốp 12 chiếc. Với góc vào tiếp địch 45 độ, 15 giờ 27 phút, phi công Nguyễn Hồng Nhị cũng phát hiện cả F-105 và F-4, từ 10 đến 15km. Anh đuổi theo, phóng 1 quả tên lửa, rơi 1 F- 105 và thoát ly bằng cách vòng cơ động hình chữ "S" qua Phú Thọ, Việt Trì, Vĩnh Yên để về Nội Bài.
15 giờ 18 phút, thủ trưởng trực chỉ huy Trung đoàn 923 Nguyễn Phúc Trạch lệnh cho biên đội MIG-17: Lưu Huy Chao-số 1, Nguyễn Hồng Thái-số 2, Bùi Văn Sưu-số 3 và Lê Hải-số 4 cất cánh từ Gia Lâm với nhiệm vụ đánh các tốp địch phía tây Hà Nội. Sở chỉ huy Trung đoàn 923 dẫn MlG-17 vòng qua phía bắc Hà Nội vào Hòa Lạc, sau đó cho tiếp địch với góc 60 độ. 15 giờ 27 phút 25 giây, số 1 phát hiện 4 F-105 và 4 F-4, 10km. Biên đội đuổi theo tốp F-4 gần hơn. Phi công Lưu Huy Chao bắn rơi 1 F-4. Ta tiếp tục không chiến, các số đều có cơ hội nổ súng. 15 giờ 34 phút 30 giây, phi công Bùi Văn Sưu bắn rơi 1 F-4 nữa. 15 giờ 39 phút 40 giây, số 1 báo cáo không thấy số 2. Đồng chí đã hy sinh do bị F-4 bắn trong lúc yểm hộ cho số 1. Các số còn lại hạ cánh xuống Gia Lâm (Đoàn Z đánh không đúng ý định của Quân chủng nên không đạt kết quả). Sau khi tổ chức rút kinh nghiệm, thủ trưởng trực chỉ huy Binh chủng Nguyễn Văn Tiên và Đào Đình Luyện đã chỉ đạo cho các trung đoàn không quân tổ chức đánh tiếp.

Sáng 19 tháng 12 năm 1967, địch sử dụng lực lượng rất lớn đánh vào Hà Nội theo hai hướng chính: từ tây bắc xuống và từ đông nam lên, ngoài ra chúng còn cho các tốp lẻ 8 chiếc vào Hà Nội theo hướng đông và đông bắc. Không quân ta đảm nhiệm đánh địch trên hướng tây bắc như ngày 17, đồng thời sẵn sàng đối phó khi chúng qua Sầm Nưa, bay thẳng Suối Rút, Hòa Bình vào đánh các mục tiêu của ta ở phía tây Hà Nội MIG- 17 và MiG-21 của Đoàn Z tham gia đánh địch trên hướng đông và đông bắc Hà Nội. Còn hướng đông nam do tên lửa và cao xạ đảm nhiệm. Kíp trực ban dẫn đường Binh chủng: tại sở chỉ huy Nguyễn Văn Chuyên theo dõi chung (không quân ta và Đoàn Z), Đào Ngọc Ngư dẫn chính MiG-17, Lê Thành Chơn dẫn bổ trợ MiG-21 và Nguyễn Quang Sáng trên hiện sóng. Các kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 921 dẫn chính MiG-21: Phạm Minh Cậy tại sở chỉ huy và Hoàng Kế Thiện trên hiện sóng; 923 dẫn bổ trợ MiG-17: Hà Đăng Khoa tại sở chỉ huy.


Khoảng 7 giờ, trên mạng B1 có địch vào, thủ trưởng trực chỉ huy Trung đoàn 921 Trần Mạnh và Trần Hanh đề nghị cho MiG-21 vào cấp 1 và đánh từ Tuyên Quang đến Sơn Dương. 7 giờ 04 phút, ra-đa dẫn đường xác định tốp 8 chiếc, độ cao 4.000m ở Yên Châu, hướng lên Yên Bái. 7 giờ 06 phút 20 giây, đôi bay MiG-21: Nguyễn Đăng Kính-số 1 và Bùi Đức Nhu-số 2 cất cánh từ sân bay Nội Bài. Trực ban dẫn đường Phạm Minh Cậy đề nghị không đánh tốp 8 chiếc vì chúng đã đổi hướng xuống Đoan Hùng - Sơn Dương và nếu đánh, ta sẽ phải chặn chúng tại khu vực Phú Lương, khó phối hợp được với MiG-17, nên đã cho MiG-21 đi Sơn Tây-Hòa Bình. Khi ta đến Hòa Bình thì tốp cường kích vào không đúng dự tính, sở chỉ huy lập tức cho MiG-21 vòng xuống Vụ Bản, sau đó vòng trái ngược trở lại. 7 giờ 19 phút, ra-đa dẫn đường bắt được tốp 8 chiếc thứ hai, độ cao 4.000m cũng ở Yên Châu hướng vào Tuyên Quang. Được thủ trưởng trực chỉ huy Nguyễn Văn Tiên đồng ý, sở chỉ huy Trung đoàn 921 dẫn MiG-21 từ Hòa Bình lên Yên Lập, đến ngang Thanh Sơn, cho vòng trái để khép bớt giãn cách, rồi vòng ải đi hướng 360 độ, nhưng do bị lạc hậu tới 24km, nên cho tiếp tục vòng phải. 7 giờ 25 phút, địch qua ga Đoan Thượng, đột nhiên vòng phải về Phú Thọ, trực ban dẫn đường Phạm Minh Cậy cho MiG-21 cải bằng, hướng bay 80 độ, cắt chéo sang phía trước, bên trái địch, rồi cho vòng phải gấp quay trở lại. Số 1 phát hiện địch bay đội hình hỗn hợp F-4 và F-105, cự ly 12km. Bằng 1 quả tên lửa, phi công Nguyễn Đăng Kính bắn rơi 1 F-4 ở độ cao 3.000m tại đông bắc Phú Thọ. Sở chỉ huy cho thoát ly về Nội Bài.
[FONT=&quot][/FONT]
[FONT=&quot] [/FONT]​
 
Thông tin thớt
Đang tải
Top