[Funland] Liệu có kiếp sau

Tueminh2626

Xe điện
Biển số
OF-481687
Ngày cấp bằng
3/1/17
Số km
3,502
Động cơ
235,064 Mã lực
Tuổi
50
THẦN THỨC ĐẦU THAI KIẾP SAU KIẾP TRƯỚC
trích thư trả lời Cư sỹ Phạm Cổ Nông (thư thứ hai) Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên - Quyển 1
Ấn Quang Đại Sư- Tổ thứ 13 của Tịnh Độ Tông


. Trả lời thư cư sĩ Phạm Cổ Nông (thư thứ hai)

Trung Ấm[8] là thức thần, không phải là thức thần biến thành Trung Ấm, thế tục thường gọi là “linh hồn” vậy. Như nói Trung Ấm cứ bảy ngày lại sống chết một lần, bốn mươi chín ngày bèn đầu thai v.v… chớ nên câu nệ, chấp trước. Nói đến sự sống chết của Trung Ấm chính là nói đến những tướng sanh diệt được hiện trong cái tâm vô minh của Trung Ấm; chẳng thể ngờ nghệch đem những tướng sanh tử của người đời để luận. Trung Ấm thọ sanh nếu nhanh thì như trong khoảng khảy ngón tay, liền vào trong tam đồ lục đạo; chậm thì bốn mươi chín ngày hoặc hơn bốn mươi chín ngày v.v…
Kẻ mới chết có thể cho người quen biết trông thấy trong ban ngày, ban tối, hoặc tiếp xúc cùng người khác, hoặc nói năng, chuyện này không phải chỉ Trung Ấm mới như vậy. Dẫu đã thọ sanh trong đường lành, nẻo ác, cũng vẫn có thể hiện hình trước người quen biết, thân thiết. Tuy điều này do ý niệm của chính người đó biến hiện, nhưng thực ra do những vị thần kỳ chủ trì quyền tạo hóa làm ra, ngõ hầu tỏ rõ con người chết đi thần minh bất diệt và quả báo thiện - ác chẳng dối vậy. Nếu không, người dương gian chẳng biết chuyện cõi âm, cái lý luận mù quáng “con người chết đi thân hình đã mục nát thì thần thức cũng phiêu tán” ắt sẽ được người đời xúm nhau phụ họa; người cả cõi đời bị hãm trong hầm sâu tà kiến “không nhân, không quả, không đời sau, hậu thế”, khiến cho người trông thấy điều thiện chẳng càng dè dặt, gắng sức tu đức, kẻ ác càng cùng hung cực ác muốn tạo ác! Tuy có lời Phật dạy, nhưng không có gì để chứng minh, ai chịu tin nhận? Do có những chuyện hiện hình cho thấy như thế, đủ chứng tỏ lời Phật nói không dối, quả báo phân minh, chẳng những người lành càng thêm hướng đến điều lành, mà tâm kẻ ác cũng bị những tình lý ấy chiết phục, cũng chẳng đến nỗi mười phần cạn tàu ráo máng. Thiên địa, quỷ thần muốn cho con người biết được điều này, nên mới có chuyện người chết hiện thân trong nhân gian, người cõi dương xử án chốn U Minh v.v…đều nhằm để phù trợ Phật pháp, giúp đỡ, khen ngợi trị đạo. Lý này rất vi tế, quan hệ rất lớn. Những chuyện này xưa nay được ghi chép rất nhiều, nhưng chưa thuật rõ quyền ấy do đâu cũng như chưa nêu lên mối quan hệ lợi ích của những chuyện ấy.
Trung Ấm tuy đã lìa thân xác, nhưng vẫn còn mang tình kiến thân xác như cũ. Đã có tình kiến thân xác, cố nhiên cần phải có cơm áo để đắp đổi. Do phàm phu nghiệp chướng sâu nặng, chẳng biết Ngũ Uẩn vốn không, không khác gì người thế gian. Nếu là bậc có đại trí huệ sẽ ngay trong lúc thoát xác không nơi nương dựa, Ngũ Uẩn trống không, các khổ bèn tiêu diệt, Nhất Chân hiển hiện, nên vạn đức trọn bày. Tuy cảnh giới ấy không nhất định phải giống nhau, nhưng chẳng ngại tùy tình kiến của mỗi người mà giúp đỡ cho. Như đốt áo giấy cho người chết, trong tâm người sống chỉ có ý nghĩ ban cho áo, tuy lớn, nhỏ, dài, ngắn làm sao vừa vặn, thích hợp cho được, nhưng do tình kiến của người sống và tình kiến của kẻ mất kia [tương ứng], nên [những áo ấy] đều vừa khít, thích hợp. Từ điều này có thể thấy được cái nghĩa lớn lao “hết thảy pháp chuyển biến theo tâm”. Sau khi chết đi, khi chưa thọ sanh trong sáu đường, thì gọi là Trung Ấm. Nếu đã thọ sanh trong lục đạo thì chẳng gọi là Trung Ấm. Những hồn dựa vào người khác để nói chuyện khổ, chuyện vui đều là tác dụng của thần thức.
Đầu thai ắt phải do Thần Thức hòa hợp với tinh huyết của cha mẹ, lúc thọ thai, Thần Thức đã trụ trong thai. Lúc sanh nở từng có trường hợp tận mắt thấy người ấy (tức người sẽ đầu thai làm con) đi vào nhà mẹ, vì lúc cha mẹ giao cấu đã có Thức khác thay thế thần thức của người ấy nhập thai. Đến lúc thành thai, Bổn Thức (tức Thức của người thật sự sẽ đầu thai làm con nhà ấy) đến, cái Thức thay thế mới ra đi. Sách Dục Hải Hồi Cuồng quyển ba, trong mục thứ mười hai, dòng tám, chín, mười, mười một, mười hai đã từng hỏi về chuyện này, nhưng lời đáp chưa trúng lý lắm! Quang bèn sửa cho đúng, hãy nên tra duyệt. Lời đáp nguyên thủy như sau: “Ví như trứng gà, có trứng có cồ, có trứng không có cồ. Khi chưa có thức gá vào thai giống như trứng chưa có cồ vậy!” Chẳng biết trứng không có cồ, dẫu đem cho gà ấp cũng chẳng thể nở, làm sao sánh ví cho được? Quang chỉ mong Lý được sáng tỏ, chẳng nề hà chuyện tiếm quyền, vượt phận, nên vì cư sĩ trình bày duyên do. Bà mẹ của sư Viên Trạch[9] mang thai ba năm chính là vì lẽ này. Đấy là luận theo lẽ thông thường.
Phải biết nghiệp lực của chúng sanh chẳng thể nghĩ bàn, như người Tịnh nghiệp đã thành, dẫu thân chưa chết nhưng thần thức đã hiện nơi Tịnh Độ; kẻ ác nghiệp sâu nặng, thân còn nằm trên giường bệnh nhưng thần thức đã bị xử phạt nơi U Minh. Mạng tuy chưa tận, Thức đã đầu thai. Đợi đến lúc sắp sanh, toàn phần tâm thức mới gieo vào trong thai ấy. Lý này cũng chẳng phải là hoàn toàn không có; nên thông thường, đa phần là có Thức thay thế để thọ thai vậy. Các pháp trong tam giới duy tâm sở hiện. Chúng sanh tuy mê, nhưng nghiệp lực của họ chẳng thể nghĩ bàn chính là do tâm lực chẳng thể nghĩ bàn, cũng là do thần thông đạo lực của chư Phật chẳng thể nghĩ bàn. Hơn mười năm gần đây, sức nhìn của Quang chẳng ra gì nên chẳng thể dẫn rộng kinh luận để làm chứng, nhưng cố nhiên lý ấy chẳng phải do Quang bịa ra nói mò để phải chuốc lấy tội lệ! Sanh tử là chuyện lớn của chúng sanh, nhân quả là phương tiện giáo hóa lớn lao, nguyện các hạ chẳng tiếc tướng lưỡi rộng dài dùng nhân quả báo ứng chuyển phiền não sanh tử thành sự trợ giúp cho Bồ Đề Niết Bàn thì pháp môn may lắm, chúng sanh may mắn lắm!
 

Ao Đình

Xe tải
Biển số
OF-881537
Ngày cấp bằng
21/5/25
Số km
261
Động cơ
6,596 Mã lực
Tuổi
50
.....cả cõi đời bị hãm trong hầm sâu tà kiến “không nhân, không quả, không đời sau, hậu thế”, khiến cho người trông thấy điều thiện chẳng càng dè dặt, gắng sức tu đức, kẻ ác càng cùng hung cực ác muốn tạo ác! Tuy có lời Phật dạy, nhưng không có gì để chứng minh, ai chịu tin.......
...
Sanh tử là chuyện lớn của chúng sanh, nhân quả là phương tiện giáo hóa lớn lao, nguyện các hạ chẳng tiếc tướng lưỡi rộng dài dùng nhân quả báo ứng chuyển phiền não sanh tử thành sự trợ giúp cho Bồ Đề Niết Bàn thì pháp môn may lắm, chúng sanh may mắn lắm!
Em quan tâm đến phần đậm và đỏ.

Dù có người tin, có người không, dù các lập luận, minh chứng còn nhiều chỗ chưa đủ thuyết phục, nhưng giá trị cốt lõi của quan điểm về kiếp sau là để giáo hóa.
Mọi việc cường điệu, hù dọa để trục lợi đều không phải quan điểm chính thống.
 
Chỉnh sửa cuối:
  • Vodka
Reactions: XPQ

caphedahp

Xe tải
Biển số
OF-354114
Ngày cấp bằng
9/2/15
Số km
389
Động cơ
557 Mã lực
Nơi ở
Hải Phòng
Kiếp sau anh vẫn yêu em chứ. Câu hỏi luôn phải nuốt nước bọt 3 lần mới trả lời.
 

XPQ

Xe cút kít
Biển số
OF-25733
Ngày cấp bằng
13/12/08
Số km
19,630
Động cơ
589,658 Mã lực
Nơi ở
Trỏng
Em nghĩ cụ hơi nhầm lẫn: Con sâu lúc chui vào kén và trưởng thành thành con bướm, chỉ là 2 giai đoạn phát triểni của sinh vật ( con sâu bướm ) thôi, giống như còn bé thì ta đóng bỉm, lớn lên ta mặc sịp vậy.

Sâu → Bướm → Trứng → Sâu mới. Chứ không hề có vòng lặp luân hồi cụ nhé.
Đấy là do khi xưa hiểu biết khoa học còn hạn chế thì bằng sự quan sát hiện tượng con sâu cái bím, người xưa lấy ví dụ đó để dẫn dắt giảng giải về lý luân hồi cho dễ hiểu. Một kiểu ngón tay chỉ trăng.

Con sâu thành ra cái bím nhưng bím không phải là sâu, cái bím đẻ ra trứng nhưng cái trứng không phải là bím, rồi cái trứng nở ra con sâu nhưng con sâu không phải là cái trứng.
Ví dụ này cho thấy không có một cái bản ngã giống nhau ở sâu bím trứng nhưng có một cái gì đấy liền lạc giữa chúng nó mới nhau.
Ví dụ này thô sơ vì không có chỗ để giảng cho các lý khác mà nhà chùa đưa ra nhưng cơ bản trực quan là rất hiệu quả để hiểu.
 

Colexanh

Xe tăng
Biển số
OF-857724
Ngày cấp bằng
21/4/24
Số km
1,155
Động cơ
33,253 Mã lực
Tuổi
38
THẦN THỨC ĐẦU THAI KIẾP SAU KIẾP TRƯỚC
trích thư trả lời Cư sỹ Phạm Cổ Nông (thư thứ hai) Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên - Quyển 1
Ấn Quang Đại Sư- Tổ thứ 13 của Tịnh Độ Tông


. Trả lời thư cư sĩ Phạm Cổ Nông (thư thứ hai)

Trung Ấm[8] là thức thần, không phải là thức thần biến thành Trung Ấm, thế tục thường gọi là “linh hồn” vậy. Như nói Trung Ấm cứ bảy ngày lại sống chết một lần, bốn mươi chín ngày bèn đầu thai v.v… chớ nên câu nệ, chấp trước. Nói đến sự sống chết của Trung Ấm chính là nói đến những tướng sanh diệt được hiện trong cái tâm vô minh của Trung Ấm; chẳng thể ngờ nghệch đem những tướng sanh tử của người đời để luận. Trung Ấm thọ sanh nếu nhanh thì như trong khoảng khảy ngón tay, liền vào trong tam đồ lục đạo; chậm thì bốn mươi chín ngày hoặc hơn bốn mươi chín ngày v.v…
Kẻ mới chết có thể cho người quen biết trông thấy trong ban ngày, ban tối, hoặc tiếp xúc cùng người khác, hoặc nói năng, chuyện này không phải chỉ Trung Ấm mới như vậy. Dẫu đã thọ sanh trong đường lành, nẻo ác, cũng vẫn có thể hiện hình trước người quen biết, thân thiết. Tuy điều này do ý niệm của chính người đó biến hiện, nhưng thực ra do những vị thần kỳ chủ trì quyền tạo hóa làm ra, ngõ hầu tỏ rõ con người chết đi thần minh bất diệt và quả báo thiện - ác chẳng dối vậy. Nếu không, người dương gian chẳng biết chuyện cõi âm, cái lý luận mù quáng “con người chết đi thân hình đã mục nát thì thần thức cũng phiêu tán” ắt sẽ được người đời xúm nhau phụ họa; người cả cõi đời bị hãm trong hầm sâu tà kiến “không nhân, không quả, không đời sau, hậu thế”, khiến cho người trông thấy điều thiện chẳng càng dè dặt, gắng sức tu đức, kẻ ác càng cùng hung cực ác muốn tạo ác! Tuy có lời Phật dạy, nhưng không có gì để chứng minh, ai chịu tin nhận? Do có những chuyện hiện hình cho thấy như thế, đủ chứng tỏ lời Phật nói không dối, quả báo phân minh, chẳng những người lành càng thêm hướng đến điều lành, mà tâm kẻ ác cũng bị những tình lý ấy chiết phục, cũng chẳng đến nỗi mười phần cạn tàu ráo máng. Thiên địa, quỷ thần muốn cho con người biết được điều này, nên mới có chuyện người chết hiện thân trong nhân gian, người cõi dương xử án chốn U Minh v.v…đều nhằm để phù trợ Phật pháp, giúp đỡ, khen ngợi trị đạo. Lý này rất vi tế, quan hệ rất lớn. Những chuyện này xưa nay được ghi chép rất nhiều, nhưng chưa thuật rõ quyền ấy do đâu cũng như chưa nêu lên mối quan hệ lợi ích của những chuyện ấy.
Trung Ấm tuy đã lìa thân xác, nhưng vẫn còn mang tình kiến thân xác như cũ. Đã có tình kiến thân xác, cố nhiên cần phải có cơm áo để đắp đổi. Do phàm phu nghiệp chướng sâu nặng, chẳng biết Ngũ Uẩn vốn không, không khác gì người thế gian. Nếu là bậc có đại trí huệ sẽ ngay trong lúc thoát xác không nơi nương dựa, Ngũ Uẩn trống không, các khổ bèn tiêu diệt, Nhất Chân hiển hiện, nên vạn đức trọn bày. Tuy cảnh giới ấy không nhất định phải giống nhau, nhưng chẳng ngại tùy tình kiến của mỗi người mà giúp đỡ cho. Như đốt áo giấy cho người chết, trong tâm người sống chỉ có ý nghĩ ban cho áo, tuy lớn, nhỏ, dài, ngắn làm sao vừa vặn, thích hợp cho được, nhưng do tình kiến của người sống và tình kiến của kẻ mất kia [tương ứng], nên [những áo ấy] đều vừa khít, thích hợp. Từ điều này có thể thấy được cái nghĩa lớn lao “hết thảy pháp chuyển biến theo tâm”. Sau khi chết đi, khi chưa thọ sanh trong sáu đường, thì gọi là Trung Ấm. Nếu đã thọ sanh trong lục đạo thì chẳng gọi là Trung Ấm. Những hồn dựa vào người khác để nói chuyện khổ, chuyện vui đều là tác dụng của thần thức.
Đầu thai ắt phải do Thần Thức hòa hợp với tinh huyết của cha mẹ, lúc thọ thai, Thần Thức đã trụ trong thai. Lúc sanh nở từng có trường hợp tận mắt thấy người ấy (tức người sẽ đầu thai làm con) đi vào nhà mẹ, vì lúc cha mẹ giao cấu đã có Thức khác thay thế thần thức của người ấy nhập thai. Đến lúc thành thai, Bổn Thức (tức Thức của người thật sự sẽ đầu thai làm con nhà ấy) đến, cái Thức thay thế mới ra đi. Sách Dục Hải Hồi Cuồng quyển ba, trong mục thứ mười hai, dòng tám, chín, mười, mười một, mười hai đã từng hỏi về chuyện này, nhưng lời đáp chưa trúng lý lắm! Quang bèn sửa cho đúng, hãy nên tra duyệt. Lời đáp nguyên thủy như sau: “Ví như trứng gà, có trứng có cồ, có trứng không có cồ. Khi chưa có thức gá vào thai giống như trứng chưa có cồ vậy!” Chẳng biết trứng không có cồ, dẫu đem cho gà ấp cũng chẳng thể nở, làm sao sánh ví cho được? Quang chỉ mong Lý được sáng tỏ, chẳng nề hà chuyện tiếm quyền, vượt phận, nên vì cư sĩ trình bày duyên do. Bà mẹ của sư Viên Trạch[9] mang thai ba năm chính là vì lẽ này. Đấy là luận theo lẽ thông thường.
Phải biết nghiệp lực của chúng sanh chẳng thể nghĩ bàn, như người Tịnh nghiệp đã thành, dẫu thân chưa chết nhưng thần thức đã hiện nơi Tịnh Độ; kẻ ác nghiệp sâu nặng, thân còn nằm trên giường bệnh nhưng thần thức đã bị xử phạt nơi U Minh. Mạng tuy chưa tận, Thức đã đầu thai. Đợi đến lúc sắp sanh, toàn phần tâm thức mới gieo vào trong thai ấy. Lý này cũng chẳng phải là hoàn toàn không có; nên thông thường, đa phần là có Thức thay thế để thọ thai vậy. Các pháp trong tam giới duy tâm sở hiện. Chúng sanh tuy mê, nhưng nghiệp lực của họ chẳng thể nghĩ bàn chính là do tâm lực chẳng thể nghĩ bàn, cũng là do thần thông đạo lực của chư Phật chẳng thể nghĩ bàn. Hơn mười năm gần đây, sức nhìn của Quang chẳng ra gì nên chẳng thể dẫn rộng kinh luận để làm chứng, nhưng cố nhiên lý ấy chẳng phải do Quang bịa ra nói mò để phải chuốc lấy tội lệ! Sanh tử là chuyện lớn của chúng sanh, nhân quả là phương tiện giáo hóa lớn lao, nguyện các hạ chẳng tiếc tướng lưỡi rộng dài dùng nhân quả báo ứng chuyển phiền não sanh tử thành sự trợ giúp cho Bồ Đề Niết Bàn thì pháp môn may lắm, chúng sanh may mắn lắm!
Bác có khả năng tóm tắt không? Vậy hiệu quả hơn.
Tóm tắt bằng ngôn ngữ của riêng cá nhân mình, bằng không sẽ bị phản tác dụng.
 

Ao Đình

Xe tải
Biển số
OF-881537
Ngày cấp bằng
21/5/25
Số km
261
Động cơ
6,596 Mã lực
Tuổi
50
Em đồng quan điểm với cụ.
Nếu trình bày bằng các luận cứ khoa học thì cần phải có nhiều tài liệu, chuyên gia từ nhiều ngành và rất nhiều thời gian, và.......... đa số người nghe sẽ không hiểu được.
Nên chỉ có thể dùng phương pháp hình tượng để truyền đạt.
Đấy là do khi xưa hiểu biết khoa học còn hạn chế thì bằng sự quan sát hiện tượng con sâu cái bím, người xưa lấy ví dụ đó để dẫn dắt giảng giải về lý luân hồi cho dễ hiểu. Một kiểu ngón tay chỉ trăng.

Con sâu thành ra cái bím nhưng bím không phải là sâu, cái bím đẻ ra trứng nhưng cái trứng không phải là bím, rồi cái trứng nở ra con sâu nhưng con sâu không phải là cái trứng.
Ví dụ này cho thấy không có một cái bản ngã giống nhau ở sâu bím trứng nhưng có một cái gì đấy liền lạc giữa chúng nó mới nhau.
Ví dụ này thô sơ vì không có chỗ để giảng cho các lý khác mà nhà chùa đưa ra nhưng cơ bản trực quan là rất hiệu quả để hiểu.
 

Tueminh2626

Xe điện
Biển số
OF-481687
Ngày cấp bằng
3/1/17
Số km
3,502
Động cơ
235,064 Mã lực
Tuổi
50
QUẢ BÁO THÔNG BA ĐỜI QUÁ KHỨ HIỆN TẠI VÀ TƯƠNG LAI
Trích Ấn Quang Đại Sư Gia Ngôn Lục



Kinh dạy: “Bồ-tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả”. Bồ-tát sợ gặp phải ác quả, nên đã đoạn sẵn ác nhân từ trước. Do vậy, tội chướng tiêu diệt, công đức viên mãn thẳng đến khi thành Phật mới thôi. Chúng sinh thường tạo ác nhân, muốn tránh ác quả, như ở trước mặt trời lại muốn không có bóng, cứ nhọc nhằn rảo chạy.
Thường thấy kẻ ngu vô tri vừa làm chút điều lành liền mong đại phước; vừa gặp phải nghịch cảnh bèn bảo làm lành mắc họa, chẳng có nhân quả. Từ đó, cái tâm ban đầu lùi sụt, đâm ra báng bổ Phật pháp. Họ nào biết đến ý chỉ huyền áo “báo thông ba đời, chuyển biến do tâm”.
Hiện đời làm thiện, làm ác; hiện đời được phước, mắc họa thì gọi là “hiện báo”. Đời này làm thiện, làm ác; đời sau được phước, mắc họa, gọi là “sinh báo”. Đời này làm thiện, làm ác, đến đời thứ ba, hoặc đời thứ tư, hoặc mười, trăm, vạn đời sau, hoặc đến vô lượng vô biên kiếp sau mới hưởng phước, mắc họa, thì gọi là "Hậu báo”. Hậu báo sớm, chậm bất định. Phàm những nghiệp đã tạo, tuyệt đối không có nghiệp nào lại chẳng có báo.
“Chuyển biến do tâm” là ví như có người đã tạo ác nghiệp, sẽ đọa mãi trong địa ngục, chịu khổ cả bao kiếp dài lâu. Về sau, kẻ ấy sinh lòng hổ thẹn lớn lao, phát đại Bồ-đề tâm, cải ác tu thiện, tụng kinh, niệm Phật, tự hành, dạy người hành, cầu sinh Tây Phương. Do đó, trong đời này, người ấy bị người khinh miệt hoặc mắc chút bệnh khổ, hoặc phải tạm chịu bần cùng và gặp hết thảy chuyện chẳng như ý. Nghiệp vĩnh viễn đọa địa ngục chịu khổ bao kiếp dài lâu mình đã tạo trước đây liền bị tiêu diệt, lại còn có thể liễu sinh thoát tử, siêu phàm nhập Thánh. Đấy là điều Kim Cang đã nói: “Nếu có người thọ trì kinh này bị người khác khinh rẻ, người ấy do tội nghiệp đời trước liền bị tiêu diệt, sẽ đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề”. Đây chính là ý nghĩa “chuyển biến do tâm”.
Thế nhân gặp chút tai ương nếu chẳng oán trời, cũng sẽ trách người, tuyệt chẳng có ý tưởng trả nợ, sinh tâm sám hối tội lỗi. Phải biết rằng, trồng dưa được dưa, gieo đậu được đậu; trồng cỏ dại chẳng thể được thóc tốt, gieo gai góc chớ mong lúa nếp.
Kẻ làm ác được phước thì phước đó là do đời trước đã vun trồng sâu dày. Nếu chẳng làm ác thì phước càng thêm lớn. Ví như con em nhà giàu, ăn xài phung phí, xem vàng như đất, chẳng bị đói lạnh ngay là do vàng nhiều. Nhưng nếu ngày ngày cứ như thế, dù giàu đến trăm vạn, chẳng được mấy năm cũng nhà tan, người chết, mất sạch sành sanh cả!
Làm lành mắc họa là do tội nghiệp đời trước sâu nặng. Nếu chẳng làm lành thì tai ương càng lớn. Ví như người phạm trọng tội, chưa bị hành hình, lập được công nhỏ; do công nhỏ nên chẳng thể xá tội hoàn toàn, nhưng đã đổi nặng thành nhẹ. Nếu có thể ngày ngày lập công, do công càng nhiều, càng lớn nên tội hết, được xá miễn; lại được phong hầu bái tướng, tước vị thế lập dài lâu cùng vận nước.
Phải biết rằng điều trái nghịch xảy đến cứ thuận theo, mới gọi là “lạc thiên” (vui theo mêïnh trời). Tu thân, gieo đức mới gọi là “tận tánh”. Đời có kẻ ngu chẳng biết thiện ác đời trước, chỉ thấy việc tốt xấu trước mắt, thấy làm thiện mắc họa bèn bảo “thiện chẳng đáng làm”; thấy làm ác được phước bèn bảo “ác chẳng đáng kiêng”.
Chẳng biết thiện báo, ác báo chẳng phải là chuyện một sớm, một chiều, phải xảy ra dần dần. Ví như ba thước băng, nào có phải là trời lạnh một buổi đã kết thành được đâu! Trăm sông đầy ắp nước nào có phải là trời nóng một ngày mà tan được băng đâu! Chớ nên oán trời, trách người, cũng đừng do dự, hối hận, lui sụt; hãy nên học theo cách tu thân của ông Du Tịnh Ý, cách lập mạng của ông Viên Liễu Phàm!
Như Lai giảng kinh: báo thông Tam thế. Phàm người sinh con, đại lược có ba nhân.
Thứ nhất là hiện báo, nghĩa là đời này làm thiện, làm ác, đời này hưởng phước, mắc họa. Như sĩ tử rèn luyện văn chương khoa cử, thân đời này được công danh. Điều này mắt phàm thấy được.
Thứ hai là sinh báo, nghĩa là đời này làm thiện, làm ác, đời sau hưởng phước, mắc tội. Như tổ phụ có trọng học vấn thì con cháu mới hiển đạt. Điều này mắt phàm chẳng thấy được, nhưng thiên nhãn còn thấy được (đời này, đời sau đều là ước theo người đó mà nói. Đối với việc cách đời, dùng thí dụ để giảng cho dễ hiểu, nên tạm dùng tổ phụ và con cháu. Đừng chấp vào văn mà đánh mất ý nghĩa. Mong lắm thay!).
Thứ ba là hậu báo, tức là đời này làm thiện, làm ác, đến đời thứ ba, hoặc bốn, năm, sáu, bảy đời, hoặc mười, trăm, ngàn, vạn đời, hoặc một, mười, trăm, ngàn, vạn kiếp, hoặc là đến vô lượng vô biên hằng hà sa kiếp mới hưởng báo thiện hay ác. Như vương nghiệp nhà Thương, nhà Châu xưa kia thật sự bắt nguồn từ việc ông Tắc giúp vua Thuấn, ông Khiết phò vua Vũ.
Nếu là chuyện trong ba bốn đời, thiên nhãn còn thấy được. Như trong trăm ngàn vạn kiếp, thiên nhãn chẳng thấy được, nhưng đạo nhãn của Thanh văn còn thấy được. Nếu là vô lượng vô biên hằng hà sa kiếp, chỉ Ngũ nhãn viên minh của đức Như Lai mới thấy được nổi. Đấy còn chưa phải là cảnh giới thuộc đạo nhãn của Thanh văn, huống hồ là thiên nhãn, nhục nhãn!
Hiểu ý nghĩa của ba thứ báo này thì chuyện làm thiện được phước, làm ác tai họa giáng xuống, Thánh ngôn vốn chẳng sai lầm. Phú quý, bần tiện, thọ yểu, cùng thông, mạng trời chưa từng thiên vị. Cảnh duyên xảy đến như hình ảnh hiện trong gương. Kẻ trí chỉ quan tâm đến vẻ mặt ngoài gương, người ngu uổng công ghét hình ảnh hiện trong gương. Chuyện trái nghịch xảy đến, vui chịu mới gọi là “lạc thiên”, chẳng oán, chẳng trách mới gọi là “lập mạng”.
Con có bốn nhân: một là báo ân, hai là báo oán, ba là trả nợ, bốn là đòi nợ.
Báo ân nghĩa là trong đời trước cha mẹ có ân với con, nên nó sinh vào làm con để hầu hạ, phụng dưỡng, sống thờ, chết chôn. Cho nên cha mẹ còn sống ắt chăm sóc, chết thì cúng gỗ. Thậm chí tận tụy với vua, lợi dân, tên lưu sử xanh, khiến thiên hạ hậu thế kính người ấy bèn kính luôn cả cha mẹ, như các ông: Tăng Lỗ Công, Trần Trung Tú, Vương Quy Linh, Sử Đại Thành (ba ông Tăng, Trần, Vương đều là bậc danh thần đời Tống. Ông Sử là trạng nguyên đầu đời Thanh. Bốn ông cùng tin Phật, nhưng chỉ mình Trung Tú ngộ nhập rất sâu. Do ông đời trước là cao Tăng nên tuy hưởng phú quý vẫn không quên mất bổn nhân). Con hiếu, cháu hiền trong đời này đều thuộc về loại này.
Báo oán là đời trước cha mẹ từng phụ ân con, nên sinh vào làm con để báo oán. Lúc nhỏ ngỗ nghịch khiến cha mẹ buồn lòng, lớn lên gây họa khiến cha mẹ mắc vạ lây. Lúc sống, ngọt bùi chẳng đoái, chết đi phải mang nhục dưới chín suối. Lại còn những trường hợp quá đáng, con có quyền vị trọng yếu, mưu chuyện phi pháp, diệt môn tàn tộc, quật mồ cuốc mả, khiến cho thiên hạ hậu thế thóa mạ kẻ ấy, chửi lây cả cha mẹ. Như Vương Mãng, Tào Tháo, Đổng Trác, Tần Cối v.v… chính là loại này.
Trả nợ là đời trước mắc nợ cha mẹ tiền tài. Nay để đền trả bèn sinh làm con. Nếu nợ nhiều sẽ làm con suốt đời. Nếu nợ ít, chẳng thể tránh khỏi giữa chừng chết trước cha mẹ, như: học sắp thành tài bèn mất mạng, buôn bán vừa có lời bèn chôn thân.
Đòi nợ là đời trước cha mẹ nợ tiền tài của con, nó bèn sinh vào làm con để đòi nợ. Nợ nhỏ sẽ uổng công biếu xén mời thầy, dạm vàng hỏi vợ, dạy răn các thứ, những mong con được thành người, nhưng đại hạn chợt xảy đến, hốt nhiên chết mất. Nợ lớn thì chẳng chỉ có thể, ắt còn phải mất nghiệp phá sản, nhà bại, người mất mới thôi!
Chuyện trong thiên hạ đều có nhân duyên, sự được thành hay chăng đều do nhân duyên xui khiến. Dù có người làm cho việc thành hay bại, nhưng quyền lực thật sự là do nhân trước của ta, chứ chẳng do duyên hiện tại. Hiểu điều này sẽ vui biết mạng trời, chẳng oán, chẳng trách, làm đúng theo địa vị, chẳng chứng nhập mà tự đạt được vậy.
Với chuyện vun bồi đức hãy nên thường xem các sách Thái Thượng Cảm Ứng, Âm Chất Văn. Với điều thiện sẽ tùy phận, tùy lực mà hành. Với điều ác bỏ đi như oán, như thù. Ông Viên Liễu Phàm hành pháp Công Quá Cách, nhận chân được bản thể, chẳng mảy may buông lung. Vì thế, mạng vốn chẳng thọ bèn được thọ, không có đại công danh bèn được đại công danh, không con bèn có con.
Phàm những người hiển đạt nhờ khoa cử, tổ phụ họ đều có đại âm đức. Nếu không âm đức, cậy sức người để hiển đạt, sau này ắt gặp đại họa; chẳng thà không hiển đạt còn hơn. Xem khắp cuộc đời của các bậc đại Thánh, đại Hiền xưa nay, đều là do tổ phụ họ tích đức mà nên. Đại phú, đại quý cũng thế. Con cháu họ sinh ra phú quý, chỉ biết hưởng phước tạo nghiệp, quên mất công tổ phụ một phen vun bồi. Do đấy, chôn vùi tổ đức, phá sạch tổ nghiệp, cam chịu bần tiện. Đấy chính là bệnh chung của kẻ phú quý trong đời.
Đời đời giữ cho đức tổ tiên vĩnh cửu chẳng bị chìm lấp chỉ có mỗi nhà họ Phạm ở Tô Châu là bậc nhất từ xưa đến nay. Từ Văn Chánh Công (Phạm Trọng Yêm) đời Tống đến nay, đến mãi cuối đời Thanh, hơn tám trăm năm, gia phong chẳng suy sụp, con cháu nối tiếp nhau đỗ đạt, đáng gọi là nhà thư hương đời đời. Nhà họ Bành ở Trường Châu từ đầu đời Thanh đến nay, khoa bảng đứng đầu thiên hạ. Nhà ấy có bốn năm người đỗ trạng nguyên, có lúc cả mấy anh em cùng làm quan cực phẩm. Nhưng họ đời đời sùng phụng Phật pháp, dù là trạng nguyên, tể tướng vẫn hằng ngày đọc Cảm Ứng, Âm Chất Văn để noi gương thành ý, chánh tâm, tận tụy thờ vua, giúp dân.
Gã cuồng sinh kia bảo những sách ấy để hạng ông già, bà cả quê mùa tin theo, chẳng những chẳng biết vì sao Thánh Hiền là Thánh Hiền, mà còn chẳng biết vì sao người là người nữa kia! Sống làm thây đi, thịt chạy, chết mục nát cùng cỏ cây. Lại còn ác nghiệp khó tiêu, vĩnh viễn trầm luân trong ác đạo. Gã ấy cứ vênh váo tự coi mình là hạng học rộng thông suốt, đến nỗi đời sau, những danh từ “thiên địa, phụ mẫu” còn chẳng được nghe đến, còn đáng gọi là hay ư?
Đừng có nói nhà mình nghèo hèn, chẳng thể rộng chứa âm đức, hành phương tiện lớn. Phải biết rằng ba nghiệp thân, khẩu, ý đều ác thì không có gì ác bằng, còn nếu ba nghiệp thân, khẩu, ý đều thiện thì không có thiện chi bằng!
Như có người ngu chẳng tin nhân quả, chẳng tin tội phước báo ứng ngông nghênh, ngạo ngược, dựa theo những điều đã nói trong An Sĩ Toàn Thư mà giảng cho kẻ ấy, khiến hắn bắt đầu tin nhân quả dần dần, kế đó thâm tín Phật pháp, cuối cùng là vãng sinh Tây Phương, liễu sinh thoát tử. Độ một người như thế, công đức vô lượng vô biên, huống hồ là nhiều người.
Nhưng mình phải nghiêm túc không tỳ vết mới cảm ứng được người chung quanh. Vợ con mình tin nhận, vâng làm, người khác trông thấy mới ham thích, nào phải đâu là tiền của nhiều mới tích chứa âm đức được!
Người sinh trong thế gian có được cái vốn để thành đức, thành tài, dựng công lập nghiệp, và có được một tài, một nghề để nuôi thân cùng gia đình, đều là do sức chủ trì của văn tự mà được thành tựu. Chữ nghĩa là của cải quý báu nhất trong thế gian, có thể khiến kẻ phàm thành Thánh, biến kẻ ngu thành trí, kẻ nghèo hèn thành phú quý, kẻ bệnh tật trở thành khỏe mạnh. Đạo mạch Thánh Hiền được lưu truyền thiên cổ; kinh doanh nuôi sống mình và gia đình, để của cải lại cho con cháu, không việc gì chẳng nhờ vào sức lực chữ nghĩa. Nếu trên đời không có chữ nghĩa, hết thảy sự lý sẽ đều chẳng thành lập được, con người cũng chẳng khác gì cầm thú!
Chữ nghĩa đã có công sức như thế, tất nhiên phải nên trân trọng, yêu tiếc. Trộm thấy người đời nay mặc tình khinh thường, làm nhơ chữ nghĩa, đúng là xem của cải chí bảo khác gì phân, đất! Đời này chẳng gì giảm phước, tổn thọ; đời sau cũng bị vô tri, vô thức đấy thôi! Chẳng những chớ xem thường, làm ô uế, vứt bỏ những văn tự hữu hình; đối với những văn tự vô hình cũng chẳng được khinh thường, ô uế, vứt bỏ! Nếu chẳng ra sức thực hành “hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ” là đã mất cả tám chữ. Tám chữ ấy đã mất thì sống là loài cầm thú mặc áo, đội mũ; chết sẽ đọa Tam đồ ác đạo!
 

Garrard_1967

Xe buýt
Biển số
OF-844852
Ngày cấp bằng
11/12/23
Số km
938
Động cơ
61,520 Mã lực
Đấy là do khi xưa hiểu biết khoa học còn hạn chế thì bằng sự quan sát hiện tượng con sâu cái bím, người xưa lấy ví dụ đó để dẫn dắt giảng giải về lý luân hồi cho dễ hiểu. Một kiểu ngón tay chỉ trăng.

Con sâu thành ra cái bím nhưng bím không phải là sâu, cái bím đẻ ra trứng nhưng cái trứng không phải là bím, rồi cái trứng nở ra con sâu nhưng con sâu không phải là cái trứng.
Ví dụ này cho thấy không có một cái bản ngã giống nhau ở sâu bím trứng nhưng có một cái gì đấy liền lạc giữa chúng nó mới nhau.
Ví dụ này thô sơ vì không có chỗ để giảng cho các lý khác mà nhà chùa đưa ra nhưng cơ bản trực quan là rất hiệu quả để hiểu.
Cụ giảng giải thêm mối tương quan liên hệ giữa chim và bím đi, e hóng ;))
 

tfmvn

Đi bộ
Biển số
OF-306118
Ngày cấp bằng
24/1/14
Số km
5
Động cơ
302,477 Mã lực
Liệu có kiếp sau không? Câu hỏi ấy đã theo nhân loại từ buổi bình minh của ý thức. Người ta hỏi khi đứng trước quan tài người thân, khi lặng nhìn một ánh hoàng hôn sắp tắt, hay khi chính bản thân mình đối diện những chấn động của sinh tử. Nó không chỉ là sự tò mò, mà còn là tiếng vọng sâu xa của một nỗi khắc khoải muôn đời: đời người này rồi sẽ ra sao, và liệu tất cả có biến mất như tro tàn trong gió?

Phật giáo nhìn câu hỏi ấy không như một vấn đề để tranh luận, mà như một sự thật để quán chiếu. Trong lời dạy của Đức Phật, sinh tử không phải là hai điểm đầu – cuối cứng nhắc, mà là một dòng chảy liên tục của nhân quả. Cái gọi là “ta” hôm nay chỉ là một hợp thể tạm bợ của thân và tâm, được kết thành từ vô số nhân duyên. Khi hơi thở cuối cùng dừng lại, thân xác trở về với đất, nước, gió, lửa; nhưng dòng tâm thức – chứa đựng toàn bộ những dấu ấn của hành động, lời nói, ý nghĩ – vẫn tiếp tục vận hành, tìm một cảnh giới mới tương hợp để tái sinh.

Sự tiếp nối ấy không phải là một linh hồn bất biến đi từ đời này sang đời khác, mà giống như ngọn lửa chuyền từ cây đuốc này sang cây đuốc khác: không phải ngọn lửa cũ nguyên vẹn, nhưng là một sự liên tục không gián đoạn, được nuôi bởi nhiên liệu của nghiệp. Trong cái nhìn này, kiếp sau không phải là điều “có thể” hay “không thể”, mà là một hệ quả tất yếu khi nhân quả chưa dừng, khi tập khí và nghiệp lực vẫn còn.

Dẫu vậy, câu hỏi về kiếp sau không chỉ tồn tại trong kinh sách. Có những hiện tượng trong đời khiến người chưa từng biết giáo lý luân hồi cũng phải ngẫm nghĩ. Đó là những câu chuyện trẻ thơ chưa từng đặt chân tới một vùng đất nào đó nhưng lại kể vanh vách từng góc phố, từng chi tiết của một đời sống đã qua; là những con người ngay từ khi mới sinh đã mang những tài năng thiên bẩm hoặc những nỗi sợ vô lý, như thể được thừa hưởng từ một ký ức nào đó xa xăm. Khoa học hiện đại chưa thể lý giải trọn vẹn những hiện tượng ấy, nhưng chúng gợi mở rằng, có thể đời sống của ta không chỉ gói gọn trong vài chục năm hữu hạn.

Nếu có kiếp sau, câu hỏi kế tiếp là: ta sẽ đi về đâu? Phật giáo trả lời giản dị: về đâu hoàn toàn do ta hôm nay. Một tâm đầy tham lam, giận dữ, si mê sẽ dẫn ta đến những cảnh giới tương ứng với bóng tối ấy. Một tâm giàu từ bi, trí tuệ, và hành động thiện lành sẽ mở ra những nẻo sáng. Kiếp sau không phải chuyện để mơ mộng hoặc hù dọa, mà là lời nhắc nhở rằng từng ý nghĩ, lời nói, việc làm trong hiện tại đều là hạt giống, sẽ nảy mầm trong tương lai.

Nhưng giả sử có người không tin vào kiếp sau, thì sao? Điều ấy cũng không làm mất đi giá trị của việc sống thiện. Nếu không có kiếp sau, đời này lại càng quý, vì nó là cơ hội duy nhất để ta yêu thương, cống hiến, và sống một đời ý nghĩa. Người sống thiện lương, dù không chờ đợi phần thưởng ở đời sau, vẫn có một hiện tại an ổn, một tâm hồn nhẹ nhõm, và một dấu ấn đẹp đẽ trong lòng người khác.

Chính vì vậy, tin hay không tin vào kiếp sau, con đường khôn ngoan nhất vẫn là sống tỉnh thức, sống thiện lành. Đối với người học Phật, niềm tin vào sự tiếp nối của nghiệp không phải để trốn tránh hiện tại, mà để sống trọn vẹn từng phút giây, vì biết rằng tương lai – dù là kiếp sau hay chỉ là khoảnh khắc tiếp theo – đều bắt nguồn từ giây phút này.

Người tu hành không tìm câu trả lời cho “kiếp sau” bằng lý luận suông. Câu trả lời nằm ngay trong đời sống tỉnh thức. Khi thấy rõ vô thường, ta không còn bám chấp vào hình hài, danh lợi; khi thấy rõ nhân quả, ta không còn dám buông thả tâm mình theo những khởi niệm xấu ác. Mỗi ngày đều trở thành một bước chuẩn bị cho chuyến đi xa hơn.

Nhiều người sợ chết vì nghĩ rằng đó là sự chấm hết. Thực ra, cái chết chỉ là một cánh cửa, và đằng sau cánh cửa ấy là một cảnh giới mới – sáng hay tối tùy theo hành trang ta mang theo. Hành trang ấy không phải vàng bạc hay danh vọng, mà là nghiệp và tâm của ta. Cũng như người lữ khách, muốn đến nơi an lành thì ngay từ bây giờ phải chọn đúng đường, tích đủ lương thực, tránh mọi bước sai.

Sau nhiều năm tu tập, với tôi, câu hỏi “Liệu có kiếp sau không?” đã trở nên giản dị. Không phải vì tôi tìm được bằng chứng khoa học tuyệt đối, mà vì tôi đã thấy rõ mối nối giữa từng khoảnh khắc. Trong một ngày, một suy nghĩ sân giận có thể kéo theo hàng loạt lời nói, hành động gây hại; một ý niệm từ bi có thể mở ra bao nhiêu điều lành. Nếu ngay trong đời này, từng ý niệm đã nối tiếp và dẫn ta đến kết quả khác nhau, thì cả chuỗi đời nối tiếp nhau cũng vận hành theo nguyên lý ấy.

Cho nên, thay vì chỉ tìm câu trả lời, hãy để chính đời sống của mình là câu trả lời. Sống sao để nếu có kiếp sau, ta không hối hận; nếu không có kiếp sau, ta vẫn đã sống một đời xứng đáng. Khi ấy, kiếp này hay kiếp sau đều trở nên nhẹ nhàng, bởi tâm ta đã an trụ trong chánh niệm, và mỗi bước đi đã là về nhà.
Em tâm đắc với bình luận này của cụ quá. Em cũng là người tu tập theo đạo Phật và em cũng hiểu phần nào những gì cụ viết. Cảm ơn cụ nhiều.

Em xin gửi đến các cụ khác, với những cụ đã sẵn niềm tin thì thật đáng quý, còn với những cụ chưa tin, vẫn có thể phát khởi niềm tin vào thông qua việc quan sát, tư duy dựa trên tri thức khoa học và tự nhiên quanh ta.

Ví như sự sinh trưởng của cây cối, một cây xoài cho ra rất nhiều quả, trong mỗi quả lại có hạt. Những hạt xoài ấy tiếp tục nảy mầm thành cây mới, rồi lại sinh quả, nối tiếp nhau không dứt. Nhưng không phải hạt xoài nào cũng có thể trở thành cây, có hạt vì đất đai, khí hậu không thuận, có hạt do bản thân lép nên không thể phát triển được. Đó chính là luân hồi của cây cối, thực vật. Nhân nào thì quả nấy, gieo hạt xoài không thể mọc thành cây chanh hay cây táo, nhưng cây phát triển thế nào, mọc quả ra sao thì còn tùy duyên, tùy nhiều điều kiện hỗ trợ.

Con người cũng là một chủ thể trong guồng vận hành của vũ trụ và thiên nhiên - lẽ nào lại nằm ngoài quy luật đơn thuần ấy. Có những thứ nhìn thấy, cầm nắm được như đất đá, sông núi, cây cối, nước non... cũng có những thứ không thể nhìn thấy bằng mắt thường như gió, âm thanh, sóng siêu âm, sóng vô tuyến hay các loại tia khác. Con người không nhìn thấy nhưng không có nghĩa là nó không tồn tại, vì cái nhìn của chúng ta còn hạn hẹp ở giới hạn nào đó. Nhiều loài động vật như dơi, cá heo, voi có thể nghe thấy sóng siêu âm, sóng hạ âm nhưng con người thì không thể. Ong có thể nhìn thấy tia UV, nhưng con người cũng không thể.

Bản chất của Đạo Phật không phải là những lời sáo rỗng vừa dọa nạt vừa khuyến khích niềm tin mù quáng, tin vào những thế lực siêu hình, tin vào sự xin-cho cầu cúng bằng vài đồng tiền lẻ, bằng mâm cao cỗ đầy. Người tu theo Đạo Phật chân chính cũng không phải những người yếm thế, có vẻ buồn chán hoặc thất bại của xã hội. Nếu học và thực hành đủ sâu, các cụ sẽ thấy Đạo Phật vô cùng trí tuệ, đi sâu vào bản chất của con người, vào những quy luật vận hành giản đơn nhưng vô cùng sâu sắc hình thành nên mọi thứ. Quan trọng là Đức Phật cũng khuyến khích mọi người hãy thực hành để tự trải nghiệm, hãy đến để mà thấy, đừng tin những lời nói suông.
 

lạc lối

Xe điện
Biển số
OF-204320
Ngày cấp bằng
31/7/13
Số km
3,284
Động cơ
330,602 Mã lực
Nơi ở
HoChiMinh
Em thấy bác ấy chém đúng đấy. Đại loại cuốn sách ấy là giảng về phương pháp chuẩn bị và hỗ trợ Di Matteo. Nào thì sao cho lúc bấy giờ thấy không sợ hãi, không tưởng tượng những thứ kinh dị nhảm nhí, không nghe những âm thanh kinh hãi phiền não không hửi thấy những thứ ô diễm xú uế. Đại loại là lo khâu hậu cần Multimedia và khâu Performance cho nó xa hoa lộng lẫy hoành tráng. Chứ lại đừng nhớ hẫng nợ mấy tỷ, tiếc mấy chỗ ái tình chưa ấm chén, hửi thấy mùi nách hôi mồm thối thì đương sự sẽ phải đoạ vào những cảnh giới vất vả.
Thế thôi.
À thì chém gió hiu hiu thế thôi chứ đi vào lõi lại dẫn về những " Tính Không: Duyên khởi; Chủng tử; Tập khí; Nghiệp; Tâm: A lại da Thức...." lằng nhằng dây điện rồi phát điên cạo đầu lên chùa có phải Habeco mất một khách hàng mà Vinamilk hụt mất mấy nhãn hiệu thì hại cho kinh tế nước nhà lắm.
.Tôi hiểu ý bác - người đưa đường chỉ lối các vấn đề phức tạp, tu là cũng phải có cơn phỏng ạ
 

XPQ

Xe cút kít
Biển số
OF-25733
Ngày cấp bằng
13/12/08
Số km
19,630
Động cơ
589,658 Mã lực
Nơi ở
Trỏng
.Tôi hiểu ý bác - người đưa đường chỉ lối các vấn đề phức tạp, tu là cũng phải có cơn phỏng ạ
Tu ti gì ở chỗ anh em chém gió này bác. Em rất ghét quảng cáo, giảng nọ giảng kia ....nói chung là của tốt để ở nhà mà dùng đã chẳng ai khoe lên làm gì.
 

Tueminh2626

Xe điện
Biển số
OF-481687
Ngày cấp bằng
3/1/17
Số km
3,502
Động cơ
235,064 Mã lực
Tuổi
50
KIẾP SAU CÓ ĐƯỢC THÂN NGƯỜI LÀ RẤT KHÓ
Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa
Tập 595
Chủ giảng: Tịnh Không Pháp Sư
Chuyển ngữ: Hạnh Chơn
Biên tập: Bình Minh
Thời gian: 15.09.2011
Địa điểm: Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội_HongKong

Thân người khó được, phần tựa trong Kinh Phạm Võng nói: Một khi mất thân người, vạn kiếp khó gặp”, điều này rất khó. Thân người không dễ đạt được, nhưng rất dễ đánh mất, khó được dễ mất. Trong Kinh Niết Bàn lại nói: “Thân người khó được, như Hoa Ưu Đàm”. Chúng ta nói đến Đàm Hoa, cái gọi là Hoa Đàm xuất hiện. Thời gian Hoa Đàm nở rất ngắn, đều nở lúc nửa đêm, 12 giờ đêm. Thời gian hoa nở chỉ khoảng nửa tiếng, nửa tiếng sau là hoa héo, một tiếng sau là hoa rụng, nên không dễ đạt được. Đặc biệt là ở vùng đất Trung nguyên, chỉ nghe nói có Hoa Đàm, nhưng chưa từng thấy. Ở vùng nhiệt đới Nam Dương nhiều hơn.

“Được thân người như đất trong móng tay, mất thân người như đất của đại địa”, trong kinh Đức Phật nói như vậy. Ở Tịnh xá Kỳ Viên có một lần trong công trình, Đức Phật dẫn một số đệ tử đi xem công trình, ngài tiện tay bốc một nắm đất. Sau đó ngài đem nắm đất này rải ra trên đất, trong tay không còn nữa, chỉ còn lại một chút trong móng tay. Chư vị đệ tử thỉnh giáo ngài, động tác này nói lên điều gì? Đức Phật nói: Con người có được thân người, khi đánh mất thân người này, nếu có thể đạt được thân người lại, giống như đất trong móng tay của Ta vậy. Khi mất thân người, đời sau không thể được thân người, giống như đất ta rãi trên mặt đất, vậy bên nào nhiều? Không cân xứng, chứng tỏ cơ hội được thân người rất khó, được thân người nhất định phải nắm chắc. Trong thời gian ngắn ngủi đó, có cơ hội thoát ly luân hồi lục đạo, có cơ hội chứng được vô thượng bồ đề, thật sự phải dựa vào vận khí. Vận khí không phải ngẫu nhiên, vận khí là thiện căn phước đức nhân duyên nhiều đời nhiều kiếp. Trong đời này chúng ta có thể gặp được Phật pháp, chứng minh nhiều đời kiếp quá khứ ta từng cúng dường vô lượng Như Lai, trong kinh Đức Phật đã nói như vậy. Đời này ta có thể gặp được, đương nhiên vẫn có chướng ngại. Chướng ngại này là tập khí bất thiện tích lũy từ nhiều kiếp tạo nên, thông thường gọi là nghiệp chướng, khi biết rồi phải sám trừ nghiệp chướng. Bây giờ chúng ta biết có rất nhiều phương pháp sám trừ nghiệp chướng, thông thường người ta tụng kinh, lạy Phật, lễ sám, đây là phương pháp sám trừ nghiệp chướng của những người bình thường, người dùng phương pháp này rất nhiều.

Thiện nhiều ác ít cảm ứng với ba đường lành, ác nhiều thiện ít cảm ứng với ba đường ác, tức là làm chuyện này. Dùng tâm này niệm Phật, chỉ có thể trồng thiện căn, không thể giống như trong kinh nói, diệt tội nghiệp nặng như vậy. Những gì Phật nói không phải giả dối, mà do tâm chúng ta không thanh tịnh. Dùng tâm thanh tịnh bình đẳng niệm Phật, công đức này sẽ rất lớn, như những gì Đức Phật nói.

“Phật nan trực”, trực là gặp được, không dễ gì gặp được Phật. Trước thời Đức Thế Tôn, thời gian rất dài thế giới này không có Phật. Sau khi Đức Phật diệt độ, vị Phật tiếp theo là Bồ Tát Di Lặc thị hiện thành Phật ở thế gian này, phải 56 ức bảy ngàn vạn năm sau. Trong thời gian dài như vậy, không có Phật xuất thế. Pháp vận của Đức Thế Tôn, nghĩa là pháp của ngài ảnh hưởng, chỉ có 12000 năm. 12000 năm so với 56 ức năm (khoảng 560 triệu năm), quá ngắn ngủi. Có Phật ra đời, con người sẽ có cơ duyên được độ, liễu sanh tử xuất tam giới. Không có Phật ra đời, sẽ không có cơ hội này, sanh đến nhân gian cũng không ra khỏi luân hồi lục đạo.
 

PenII

Xe buýt
Biển số
OF-786854
Ngày cấp bằng
7/8/21
Số km
983
Động cơ
574,563 Mã lực
bác nào thông hiểu phật pháp giảng giải phổ thông, phổ độ chúng sinh, công đức vô lượng. viết dài quá mà chúng sinh tầm thường cần đầu mục thôi, kiểu như có trường sinh bất tử không, không học không học, hỏi đường ở nơi nào
 

beef mập

Xe tăng
Biển số
OF-809320
Ngày cấp bằng
24/3/22
Số km
1,256
Động cơ
45,208 Mã lực
Nơi ở
Việt Nam
sau đợt tháng cô hồn này có vẻ là sắp chuyển nghiệp,ai muốn thoát khỏi mê mờ thì hãy nhớ quay đầu là bờ,làm việc thiện lành tu tâm sám hối.
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top