Trong thời kỳ chiến tranh (đặc biệt là giai đoạn 1955–1975), Liên Xô có hỗ trợ rất nhiều cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (miền Bắc Việt Nam) cả về vũ khí, huấn luyện và công nghệ. Tuy nhiên, mức độ và loại vũ khí được cung cấp có những giới hạn nhất định, do tính chất của chiến tranh du kích, chiến tranh nhân dân và sự cân nhắc chiến lược trong quan hệ quốc tế.
Dưới đây là danh sách một số loại vũ khí cụ thể mà Liên Xô đã viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong thời kỳ chiến tranh, đặc biệt là giai đoạn kháng chiến chống Mỹ (1965–1975):
Vũ khí phòng không và chống máy bay
1.Tên lửa phòng không S-75 Dvina (SA-2 Guideline)
Dùng để bắn hạ máy bay tầm cao, nổi bật nhất là việc bắn rơi B-52 trong chiến dịch "Điện Biên Phủ trên không" 1972.
Có hệ thống radar điều khiển đi kèm như Fan Song.
2.Pháo phòng không:
ZPU-1, ZPU-2, ZPU-4 (súng phòng không 14.5mm)
Pháo 37mm và 57mm – rất phổ biến trong lực lượng phòng không.
3.Radar cảnh giới và dẫn bắn:
Radar P-12, P-18 (cảnh giới)
Radar điều khiển hỏa lực cho S-75 và pháo phòng không
Máy bay
MiG-17 (Fresco-A/B) – tiêm kích phản lực cơ bản, thường dùng đánh tầm thấp.
MiG-21 (Fishbed) – tiêm kích siêu thanh hiện đại, có thể đánh chặn máy bay Mỹ hiệu quả.
MiG-19 – có cấp hạn chế, ít được sử dụng hơn.
Xe quân sự và tăng thiết giáp
Xe tăng T-34-85, T-54/T-55
Xe bọc thép BTR-40, BTR-60
Pháo tự hành SU-76
Pháo kéo D-44, D-74, D-30
Pháo phản lực Katyusha BM-13
Vũ khí bộ binh và pháo binh
Súng AK-47 (và bản sao như Type 56 do Trung Quốc sản xuất)
Súng máy RPD, RPK, PKM
Súng trường Mosin-Nagant
Súng chống tăng RPG-2, RPG-7
Pháo cối 82mm, 120mm
Pháo nòng xoắn D-44 85mm, pháo 122mm
Hải quân
Tàu tuần tra nhỏ (tàu pháo)
Ngư lôi, mìn hải quân
Radar giám sát bờ biển
Cơ sở hậu cần và kỹ thuật
Liên Xô hỗ trợ xây dựng nhà máy sửa chữa xe cơ giới, sản xuất đạn dược, xưởng cơ khí, cơ sở lọc dầu nhỏ, hệ thống thông tin liên lạc, và đào tạo kỹ sư quân sự.
Không cung cấp nhà máy sản xuất vũ khí hạng nặng (như chế tạo xe tăng, tên lửa), nhưng có cung cấp dây chuyền lắp ráp hoặc sửa chữa quy mô nhỏ.