Quê anh gọi là ấm sành
Nói thêm một chút về các từ
sành,
sứ. Tra cứu các loại từ điển tiếng Việt như
Từ điển Việt - Bồ - La (1651),
Nam Việt - Dương Hiệp tự vị (1838),
Đại Nam quấc âm tự vị (1895-1896) và
Việt Nam tự điển (1931) thì thấy từ
sành để chỉ một thể loại đồ gốm xuất hiện trong cả 4 từ điển kể trên, với TĐVBL dùng sành với giải nghĩa Latinh
testa (= mảnh đất nung, gạch, ngói); NVDHTV dùng chữ Nôm 𥑥 (sành, bộ thạch) với giải nghĩa Latinh
testa, testaceous. DNQATV dùng chữ Nôm 𤬸 (sành, bộ ngõa) với giải nghĩa đồ gốm, đồ hầm bằng đất còn VNTĐ thì sành là đồ đất nung có tráng men (chậu sành, bát sành, đồ sành, rán sành ra mỡ). Tuy nhiên, chỉ có VNTĐ (1931) mới thấy có từ
sứ với nghĩa là một thể loại đồ gốm (giải nghĩa: đồ gốm làm bằng đất thó trắng, có tráng men bóng; như ấm sứ, bát sứ, điếu sứ) trong khi các từ sứ ở 3 từ điển trước đó đều không mang bất kỳ nghĩa nào là một thể loại đồ gốm cả. Trong khi đó, các khu vực sản xuất đồ gốm như Chu Đậu hay Bát Tràng đã từng sản xuất ra các loại sản phẩm gốm tráng men có thể là từ thế kỷ 14-15 trở đi, như bình gốm hoa lam (
blue and white pottery, dùng men (
glaze) chứa cobalt) Chu Đậu hiện lưu giữ tại Bảo tàng Topkapi Sarayi (Thổ Nhĩ Kỳ) có thể là đồ sành tráng men hoặc đồ sứ tráng men. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng trong sản xuất đồ gốm thì việc đạt được nhiệt độ nung cao trên 1.200 độ C từng là vấn đề nan giải đối với gần như toàn thế giới (trừ Trung Hoa) cho tới khi người châu Âu trộm được bí mật công nghệ này từ Trung Quốc (sử dụng kaolin / đất sét trắng) để sản phẩm chịu được nhiệt độ nung cao nên nhiều khả năng nó là đồ sành tráng men.
Tra cứu các từ như
đào và
từ (do người Trung Hoa theo truyền thống phân chia đồ gốm thành đào (陶) là đồ gốm thấp lửa = nhiệt độ nung thấp, và từ (瓷, từ đây mà có âm Nôm
sứ) là đồ gốm cao lửa = nhiệt độ nung cao) thì các từ điển tiếng Việt này cũng đều không có bất kỳ nghĩa nào cho thấy chúng là tên gọi của đồ gốm trong tiếng Việt vào các thời kỳ đó. Như thế, có thể thấy nghề gốm sứ Việt Nam và Trung Quốc trong quá khứ có rất ít mối liên hệ và có thể người Việt chưa đạt được nhiệt độ nung đủ cao để tạo ra đồ sứ hoặc nếu làm ra được thì lại không rõ trong tiếng Việt người ta gọi các loại đồ sứ ấy là gì.
Phân loại đồ gốm của chúng ta hiện nay về cơ bản tương tự như của châu Âu (đồ đất nung = earthenware có nhiệt độ nung từ 600 tới dưới 1.200 độ C, tương đương nón đo nhiệt từ 022 tới 5 khi nung ở tốc độ gia nhiệt nhanh 180 độ C/h; đồ sành = stoneware có nhiệt độ nung từ 1.100 tới 1.300 độ C, tương đương nón từ 03 tới 10 và đồ sứ = porcelain có nhiệt độ nung 1.200 tới 1.400 độ C, tương đương nón từ 5 tới 14). Trung Quốc hiện nay gọi stoneware là 炻 (thạch, bộ hỏa 火), nhưng vẫn nói rõ nó là dịch từ stoneware trong tiếng Anh.
Từ
cao lanh trong tiếng Việt đúng là trò dịch bắc cầu luẩn quẩn. Nguyên bản nó là cao lĩnh thổ (高岭土), loại đất sét trắng lấy từ thôn Cao Lĩnh, trấn Dao Lý, huyện Phù Lương, TP. Cảnh Đức Trấn, tỉnh Giang Tây. Người Pháp chuyển nó sang tiếng Pháp thành kaolin và người Việt lại phiên từ tiếng Pháp sang tiếng Việt thành cao lanh.