- Biển số
- OF-822088
- Ngày cấp bằng
- 6/11/22
- Số km
- 785
- Động cơ
- 795,019 Mã lực
Ngày 10/09/2025, Charlie Kirk - đồng minh thân cận của Tổng thống Mỹ Donald Trump - bị bắn chết khi đang phát biểu tại một sự kiện trong khuôn viên trường Đại học Utah Valley khi chỉ mới 31 tuổi. Nhân sự kiện này, xin giới thiệu với các bạn bài viết của tác giả Lư Khắc Văn người Trung Quốc năm 2022 với tựa đề "Nước Mỹ tuyệt đối không cấm súng!"
01
Sau mỗi vụ xả súng, Tổng thống Mỹ và các quan chức cấp cao lại đưa ra những lời sáo rỗng như "Tôi đã quá đủ rồi", "phải thay đổi hiện trạng, ngăn chặn bi kịch tái diễn", "sốc và đau buồn"... Tiếp theo là các quy trình truyền thống như treo cờ rủ, đặt hoa, thắp nến, rồi sau đó, các vụ xả súng lại bị lãng quên, không ai quan tâm đến việc xử lý tiếp theo.
Đến năm sau, các vụ xả súng sẽ lại xảy ra ở một nơi nào đó tại Mỹ, dân thường vẫn sẽ ngã xuống trong vũng máu ở siêu thị và trường học, rồi lại đau buồn, lại treo cờ rủ, lại thắp nến, cứ thế lặp đi lặp lại.
Tại sao Mỹ xảy ra vô số vụ xả súng nhưng không bao giờ giải quyết được vấn đề này?
Bởi vì nguồn gốc của tất cả những điều này đến từ hoàn cảnh khi nước Mỹ được thành lập, là những hiện tượng đặc biệt được hình thành trong giai đoạn phát triển đặc thù. Để hiểu hiện tượng này của Mỹ, chúng ta phải truy về nguồn gốc, tìm ra con đường phát triển từ thời thơ ấu đến tuổi thiếu niên của đất nước họ.
Điều chúng ta cần hiểu bây giờ không chỉ là việc cấm súng, nhìn vấn đề như vậy quá nhỏ bé. Chúng ta cần hiểu toàn bộ nước Mỹ.
02
Những câu chuyện tốt đẹp về Mỹ mà chúng ta nghe ngày nay đều coi chuyến tàu Mayflower năm 1620 là sự khởi đầu của nước Mỹ. Thực ra, lịch sử chính thống của Mỹ đều tính năm 1607 là năm đầu tiên hình thành nước Mỹ.
Năm đó, 105 người Anh mang theo giấy phép của nhà vua, đi thuyền từ London, hành trình 144 ngày, đến một vùng đầm lầy ở đông nam Virginia vào tháng 5 để định cư. Họ đến Bắc Mỹ chủ yếu để cướp đất trước Tây Ban Nha và tiện thể tìm vàng. Họ chỉ là một đám người ham tiền.
Bước đầu tiên sau khi lên bờ là dành 20 ngày để xây dựng một pháo đài tạm bợ tên là Jamestown để chống lại sự tấn công của người Indian. Nhưng một nửa số người đã chết vì kiệt sức trong cái nóng oi ả. May mắn thay, công ty London liên tục gửi người đến tăng viện, giữ được cứ điểm đầu tiên. Tuy nhiên, hai năm sau, vì giá rét, 500 người đã chết đói 440 người, chỉ còn lại 60 người sống sót, trong đó còn xảy ra thảm kịch ăn thịt người.
Khó khăn lắm mới sống sót qua ngày, người Indian lại đến tấn công cứ điểm. Năm 1622 có 350 người bị giết, năm 1644 có 500 người bị giết.
Sau khi người Anh ổn định ở Jamestown, họ bắt đầu trồng thuốc lá. Dĩ nhiên không phải họ tự trồng, trồng thuốc lá rất cực nhọc, họ đều vận chuyển nô lệ da đen từ châu Phi sang để trồng. Năm 1619, việc kinh doanh nô lệ da đen ở Jamestown lần đầu tiên khai trương, nhập khẩu lô nô lệ da đen đầu tiên từ châu Phi. Cùng năm đó, hội nghị lập pháp đầu tiên của các thuộc địa Bắc Mỹ cũng được tổ chức tại đây.
Jamestown sau này trở thành thủ phủ của Virginia, nhưng bị san bằng do nội loạn, vài chục năm sau lại bị nước sông nhấn chìm. Mãi đến năm 1994 mới được khai quật khảo cổ. Nhưng người ta công nhận rằng Jamestown đã định hình Virginia, và Virginia đã định hình bốn trong số năm vị tổng thống đầu tiên của Mỹ: Washington, Jefferson, Madison, Monroe. Đây mới thực sự là nguồn gốc của nước Mỹ.
Con tàu "Mayflower" được ca ngợi là tinh thần Mỹ và được tuyên truyền khắp nơi là chuyện của năm 1620. Lúc này, việc kinh doanh nô lệ và thuốc lá ở Jamestown đã phát triển, hội nghị cũng đã tổ chức rồi. Một vai phụ lại bị biến thành vai chính là để tiện cho việc tuyên truyền sau này, nhằm quảng bá văn kiện "Hiệp ước Mayflower", rằng nền tảng lập quốc của Mỹ là tinh thần khế ước, thêm màu sắc lãng mạn cho sự thành lập của nước Mỹ.
Sau vài chục năm giao tranh với người Indian trong đầm lầy, người Anh cuối cùng cũng đuổi hết họ đi. Đến năm 1629, người Anh Mason đã thành lập thuộc địa New Hampshire dọc theo sông Piscataqua. Mười ba thuộc địa Bắc Mỹ ngoài Virginia lại có thêm vùng đất thứ hai.
Cùng với việc ngày càng có nhiều người do vua Anh cử đến, sau hơn một trăm năm canh tác, đến năm 1732, mười ba bang ven biển phía đông đã dần dần được xây dựng.
Lúc này, lãnh thổ của Mỹ vẫn còn rất nhỏ hẹp, cũng là một nước nông nghiệp thuần túy, nhưng dân số đông hơn các khu vực khác. Năm 1760, mười ba bang có tổng cộng 1,2 triệu người da trắng, 400.000 nô lệ da đen và một số lượng không thể thống kê người Indian. Người da trắng chủ yếu bao gồm người Anh, Ireland, Scotland và Đức.
Mười ba bang này đều sống bằng nông nghiệp và ngư nghiệp. Nô lệ da đen ngày ngày làm việc trên đồng từ sáng đến tối, trồng bông, thuốc lá, lúa, mía, chặt cây, cuốc đất, cày ruộng, đập lúa, làm việc như trâu như ngựa. Những người bạn thấy ngày nay như James, Kobe, Jordan, Kanye... chính là hậu duệ của những nô lệ da đen này.
Thực ra, người da trắng không bắt nô lệ da đen, chỉ bán nô lệ da đen. Người bắt những người da đen là các tù trưởng da đen địa phương của họ. Nô lệ da đen là tù binh chiến tranh, hoặc là những người trong bộ tộc của họ vì nghèo đói mà bán thân, sau đó được bán lại cho người da trắng để đổi lấy đồ vật và tiền bạc.
Sau khi đến Mỹ, những người da đen này bắt đầu làm việc trước khi trời sáng. Nếu là mùa thu hoạch bông, họ phải dậy lúc bốn, năm giờ sáng, mang một cái túi lớn ra đồng hái bông, làm việc theo nhóm 15 người.
Vào bảy giờ sáng, chủ da trắng sẽ cho người mang bữa sáng ra đồng, ăn một ít bánh ngô hoặc bánh mì, ăn xong trong vòng mười phút rồi tiếp tục làm việc.
Đến trưa, chủ da trắng sẽ cho họ một ít bánh mì, thịt lợn muối để bổ sung năng lượng. Khi ăn không có bàn, nô lệ đều bưng chậu, tìm một nơi râm mát đứng hoặc ngồi xổm để ăn. Đôi khi, chủ sẽ tỏ lòng tốt, thưởng cho họ gà rán và dưa hấu. Cái "meme" này đã lưu truyền đến tận bây giờ, nếu bạn nói mời người da đen ở Mỹ ăn gà rán hoặc dưa hấu, anh ta sẽ nổi giận với bạn, đó là một sự sỉ nhục đối với họ.
Những chủ đồn điền keo kiệt hơn, bữa trưa chỉ cho nô lệ ngô và bánh mì, cộng thêm một bát súp bí ngô.
Bữa trưa cũng chỉ có 15 phút, xong việc lại tiếp tục ra đồng hái bông. Giám công cưỡi ngựa đứng bên cạnh giám sát, ai tụt lại phía sau sẽ bị quất roi, và phải bị quất trước mặt mọi người để làm gương.
Nô lệ làm việc cho đến hoàng hôn, có thể ăn tối ngay tại đồng, và phải làm việc cho đến khi trời tối hẳn mới được nghỉ.
Trong giờ làm việc, mỗi giờ được đến thùng nước uống một muỗng nước, thời gian còn lại không được nghỉ ngơi.
Nô lệ sống một cuộc sống không bằng chó lợn, mỗi ngày làm việc hơn mười tiếng. Vào mùa thu hoạch bông cao điểm, thường phải làm việc 18 tiếng một ngày.
Từ ngày đầu tiên quốc gia này được thành lập, người da trắng và người da đen đã là hai tầng lớp đối đầu nhau. Người da đen luôn ở vị thế bị áp bức, hàng trăm năm qua đều như vậy.
03
Trên bản đồ, mười ba thuộc địa Bắc Mỹ chen chúc ở một vị trí hẹp dài là có lý do đặc biệt.
Bởi vì phía tây có dãy núi Appalachian đã chặn bước chân mở rộng của họ, họ chỉ có thể co cụm ở vùng đồng bằng ven biển phía đông để kiếm sống. Lúc này cần phải có bản đồ địa hình, chúng ta nhìn một cái là hiểu ngay.
Những người đầu tiên xuống tàu ở Bắc Mỹ đã định cư tại các thành phố ven biển phía đông, khai sinh ra các thành phố nổi tiếng như Philadelphia, Boston, New York.
Sau này người ngày càng đông, những người Mỹ đến sau đi về phía tây, đến chân dãy núi Appalachian thì bị núi cao chặn lại, không đi được nữa.
Lưu ý rằng nội dung sắp nói tới đây rất ít được đề cập trong cộng đồng mạng tiếng Trung.
Dãy núi Appalachian dài khoảng 3.000 km đã tạo ra một hiện tượng địa lý đặc biệt cho miền Đông.
Giữa đồng bằng miền Đông cao 200 mét so với mực nước biển và dãy núi Appalachian có sự chênh lệch độ cao, địa thế đột ngột hạ xuống, sông ngòi từ trên núi đổ xuống đồng bằng tạo thành nhiều thác nước và dòng chảy xiết, được gọi là "đường thác nước" (fall line).
Những người đầu tiên đến Mỹ chỉ biết sử dụng thủy lực, họ định cư dọc theo đường thác nước, dựa vào sức nước của thác để xây dựng guồng nước và nhà máy xay, xay bột, cưa gỗ, và sử dụng máy dệt thủy lực để dệt vải.
Thêm vào đó, tàu hàng đến hạ lưu đường thác nước phải dỡ hàng lên bờ, vận chuyển đến thượng nguồn rồi mới lại chất hàng lên tàu. Dọc theo đường thác nước dần dần hình thành các làng mạc, thị trấn. Những thị trấn này lớn dần lên và trở thành Washington trên sông Potomac, Richmond trên sông James, Trenton trên sông Delaware ngày nay.
Thủ phủ của các bang miền Đông nước Mỹ đều nằm dọc theo đường thác nước, đây là minh chứng rõ nhất cho việc địa lý định hình văn hóa.
New York, thành phố giàu có nhất nước Mỹ ngày nay, và thủ đô Washington, được hình thành lần lượt từ đông sang tây theo cách này.
New York ngày càng giàu có, trở thành trung tâm kinh tế và tài chính của Mỹ, là nhờ việc xây dựng Kênh đào Erie.
Con kênh đào này hiện không còn nhiều vai trò, nhưng nó chính là con sông đã thay đổi vận mệnh ban đầu của nước Mỹ.
Năm 1783, sau khi thất bại trong Chiến tranh giành độc lập, Anh không chỉ thừa nhận mười ba thuộc địa miền Đông Bắc Mỹ mà còn công nhận vùng đất phía tây dãy Appalachian, phía nam Ngũ Đại Hồ và phía bắc sông Mississippi thuộc về Mỹ. Lãnh thổ của Mỹ cuối cùng đã vượt qua dãy Appalachian, diện tích đất nước tăng gấp đôi.
Năm 1803, Mỹ chỉ mất 15 triệu đô la đã mua lại 2,14 triệu km² đất Louisiana từ tay Napoléon. Chỉ trong hai mươi năm, Mỹ đột nhiên trở thành một quốc gia rộng lớn 5 triệu km². Lúc này, người Mỹ có một lượng lớn đất đai ở phía tây cần khai hoang, cũng cần vận chuyển vật tư từ đông sang tây, và cần di chuyển một lượng lớn dân cư về phía tây (chi tiết xem trong "Lịch sử và vận mệnh nước Mỹ" https://www.facebook.com/share/p/16Gfgkrf6s/), không thể nén kinh tế Mỹ vào một khu vực nhỏ bé như Pennsylvania, Massachusetts, New York.
Thời đó chưa có xe lửa, vận chuyển một tấn hàng hóa bằng đường bộ từ Buffalo đến New York tốn 120 đô la, chi phí cực kỳ cao. Để kết nối Ngũ Đại Hồ với New York, Mỹ quyết định xây dựng Kênh đào Erie.
Khi người Mỹ xây dựng con kênh này, họ chỉ là một quốc gia nông nghiệp thuần túy, cả nước không tìm được một kỹ sư xây dựng dân dụng đủ tiêu chuẩn. Thống đốc bang New York cùng với các luật sư, giáo viên toán, kỹ sư nghiệp dư đã phải liều mình xây dựng con kênh dài 584 km trong tám năm.
Con kênh này chảy qua khu vực Ngũ Đại Hồ và sông Hudson, sông Hudson lại đổ ra Đại Tây Dương qua cảng New York, giống như một con đường cao tốc, kết nối Ngũ Đại Hồ với đồng bằng Trung Tây.
Tổng vốn đầu tư của Kênh đào Erie lên tới 7 triệu đô la, gần bằng giá Mỹ mua Alaska, là một con số khổng lồ vào thời điểm đó. Để huy động vốn, trái phiếu Erie đã được phát hành tại Phố Wall, New York. Kết quả là Kênh đào Erie kiếm được lợi nhuận khổng lồ, các nhà đầu tư châu Âu đổ xô đến đầu tư vào cổ phiếu khái niệm kênh đào, và Phố Wall cũng dần trở thành trung tâm tài chính thế giới.
Sau khi xây dựng xong kênh đào, chi phí vận chuyển một tấn bột mì giảm mạnh từ 120 đô la xuống còn 6 đô la. Cảng New York từ đó trở thành trung tâm logistics. Năm 1800, chỉ có 6% hàng hóa toàn quốc đi qua New York, đến năm 1860, con số này tăng lên 62%. Dân số New York cũng tăng từ 120.000 lên 1.080.000, vượt qua Philadelphia và Boston, trở thành thành phố số một của Mỹ.
Khu vực Ngũ Đại Hồ cũng được hưởng lợi từ Kênh đào Erie. Cộng thêm việc xây dựng một loạt kênh đào kết nối Ngũ Đại Hồ và các nhánh của sông Mississippi sau này, khu vực Ngũ Đại Hồ ở Đông Bắc Mỹ hình thành một mạng lưới đường thủy dày đặc, tương tự như môi trường địa lý của tỉnh Giang Tô, Trung Quốc, giúp cho việc lưu thông quặng sắt của Ngũ Đại Hồ và than đá của dãy Appalachian trở nên thuận tiện. Do đó, khu vực Ngũ Đại Hồ ở Đông Bắc trở thành khu công nghiệp sớm nhất của Mỹ, các thành phố như Chicago, Detroit, Cleveland, Pittsburgh từ đó trỗi dậy.
Trong số đó, sự thăng trầm của Detroit có liên quan mật thiết đến logic cơ bản của xã hội Mỹ, chúng ta sẽ tiếp tục đề cập đến nó ở phần sau.
Kênh đào Erie không chỉ quyết định vận mệnh của New York, Chicago, Detroit mà còn có một việc phải nhắc đến.
Đó là chuyện mà chúng ta thường dùng để châm chọc Mỹ: "Người Canada đốt Nhà Trắng".
Trước khi có Kênh đào Erie, cửa biển của Ngũ Đại Hồ là sông Saint Lawrence của Canada, Mỹ không có cửa biển, điều này hạn chế rất lớn sự phát triển kinh tế của khu vực Ngũ Đại Hồ của Mỹ.
Để chiếm đoạt cửa biển sông Saint Lawrence, năm 1812, Mỹ cử 1.500 dân quân tấn công Canada. Ban đầu, cuộc chiến khá thuận lợi, tháng 4 năm 1813, họ chiếm được thủ đô York của Canada (nay là Toronto) và cho quân lính đốt phá, cướp bóc. Không ngờ Napoléon thất bại ở châu Âu, người Anh rảnh tay đối phó với quân Mỹ. 12.000 quân Anh phản công, chiếm được cả Washington, đốt cháy Tòa nhà Quốc hội và Nhà Trắng.
Năm đó, Washington chỉ có 8.000 dân, trong đó 1.300 là nô lệ da đen, thực chất chỉ là một thị trấn nhỏ. Quân Anh không có hứng thú ở lại lâu, chiếm đóng 26 giờ rồi rút đi.
Chính vì không đánh lại quân Anh của Canada, không giành được cửa biển, Mỹ sau này mới phải xây dựng Kênh đào Erie. New York và Ngũ Đại Hồ từ đó phát triển thịnh vượng, cũng khiến Mỹ bắt đầu nhòm ngó lãnh thổ của Mexico. Từ đó, Mỹ ngừng mở rộng về phía bắc, chuyển sang bắt nạt Mexico ở phía tây nam.
04
Khi đọc đến đây, chắc hẳn mọi người sẽ thấy rất lạ. Tiêu đề rõ ràng nói về cấm súng, tại sao nói mãi vẫn là mười ba thuộc địa miền Đông, nô lệ da đen, đường thác nước, New York, khu công nghiệp Ngũ Đại Hồ, điều này thì có liên quan quái gì đến cấm súng chứ?
Đừng vội, để hiểu một sự vật, chúng ta cần biết toàn bộ bức tranh của nó. Vấn đề súng đạn chỉ là một nhánh trong những tình huống đặc biệt khi nước Mỹ mới thành lập. Lịch sử Mỹ tiến triển chậm chạp từ đông sang tây, và quá trình này đã đặt nền móng cho DNA của nước Mỹ. Chỉ cần hiểu được sự hình thành của Mỹ, chúng ta không chỉ hiểu được vấn đề cấm súng mà còn hiểu được một nước Mỹ hoàn chỉnh.
Khi người Mỹ cuối cùng đã vượt qua dãy Appalachian và mở thông hành lang Đông Bắc bằng Kênh đào Erie, họ cần tiếp tục tiến về phía tây để hoàn thành việc khai thác sông Mississippi.
Nhìn vào bản đồ lưu vực sông Mississippi, ta sẽ thấy nó chảy qua phần lớn lãnh thổ Mỹ. Các thành phố Trung Tây được xây dựng sau này gần như đều liên quan đến dòng chính của sông Mississippi. Kansas City nằm ở nơi giao nhau của sông Missouri và sông Kansas; Sacramento nằm ở nơi giao nhau của sông American và sông Sacramento; Memphis, Vicksburg thì được xây dựng trên những bờ dốc mà nước sông khó có thể ngập tới.
Sông Mississippi chảy dọc từ bắc xuống nam nước Mỹ, với tổng diện tích lưu vực 3,32 triệu km², nhưng các bang hạ lưu sông Mississippi lại nghèo rớt mồng tơi ở Mỹ.
Lý do là địa hình Mỹ hai bên cao, ở giữa thấp. Hạ lưu sông Mississippi lại bằng phẳng như một dải lụa, không thể cản được bão từ Vịnh Mexico và luồng không khí lạnh từ Bắc Băng Dương tràn xuống qua Vịnh Hudson.
Người Indian hoàn toàn không có khả năng phát triển khu vực này. Mãi đến khi người châu Âu đến, họ mới bắt đầu làm nông nghiệp ở đây. Cho đến ngày nay, bang Mississippi vẫn là một bang rất nghèo. Bang Louisiana có cửa biển thì khá hơn một chút. New Orleans vào năm 1850 còn có thể ngang hàng với New York, nhờ vào vị trí địa lý ở cửa sông Mississippi, vận chuyển bông đi khắp nơi.
Ngoài New Orleans, trên sông Mississippi còn có một thành phố từng rất quan trọng: St. Louis.
St. Louis nằm ở trung tâm của hệ thống sông ngòi và đường sắt của Mỹ.
Về đường thủy, nó nằm ở điểm giao nhau của sông Missouri và sông Mississippi. Về đường sắt, nó là điểm gặp gỡ của các tuyến đường sắt lớn đông-tây và bắc-nam của cả nước. Tuyến đường sắt bắc-nam từ Chicago đến New Orleans và tuyến đường sắt đông-tây từ New York đến Los Angeles đều giao nhau tại đây.
Trong quá trình tiến về phía tây, người Mỹ phụ thuộc vào đường sắt nhiều hơn rất nhiều so với sông Mississippi.
Trong những thập kỷ đó, rất nhiều người nhập cư mới từ châu Âu đã đến Mỹ, đông đến mức miền Đông không thể chứa nổi, họ phải mở rộng về phía tây, bảo họ đi tìm những vùng đất rộng lớn ở phía tây để kiếm sống.
Từ năm 1842, mỗi năm có ít nhất 100.000 người đến Mỹ kiếm ăn. Từ năm 1847 đến 1857, có 1,2 triệu người Ireland bị nạn đói, mang theo lòng căm thù sâu sắc đối với người Anh đến Mỹ. Từ năm 1852 đến 1854, lại có 500.000 người Đức đến để tránh nội loạn, cộng thêm những người nhập cư Pháp và Ý để tránh cách mạng trong nước, trong một thời gian ngắn, Mỹ đã tiếp nhận hơn 2 triệu người nhập cư.
Trong số này, thảm nhất là người Ireland. Sau khi Ireland bị Anh chinh phục, người Anh luôn đề phòng họ. Năm 1845, khoai tây, lương thực chính của Ireland, bị mất mùa do bệnh mốc sương, gây ra nạn đói, khiến hơn 1 triệu người chết đói. Anh không những không cứu giúp mà còn nhân cơ hội mua nhà cửa, ruộng đất của người Ireland với giá rẻ. Người Ireland buộc phải lưu lạc khắp nơi trên thế giới, phần lớn đến Mỹ. Ngày nay, có 40 triệu người Mỹ là hậu duệ của người Ireland, bao gồm cả tổ tiên của Clinton và Obama, vốn cũng là những người tị nạn.
Những người Ireland này đến nơi đất khách quê người đã trải qua muôn vàn khó khăn, một phần năm chết vì bệnh tật và suy dinh dưỡng. Sau khi đến Bắc Mỹ, họ lại nghèo đến điên cuồng, bất cứ công việc bẩn thỉu, cực nhọc nào cũng chịu làm, được mệnh danh là "tiện dân trong số người da trắng". Họ tiện đến mức các chủ đồn điền ở miền Nam, vì quý nô lệ da đen của mình, đã để người Ireland làm những công việc nguy hiểm nhất thay cho nô lệ da đen, vừa rẻ vừa dễ sai bảo. Người Ireland, ngoài việc có thân phận tự do, giá trị sinh mạng còn không bằng nô lệ da đen.
Người da trắng cũng có chuỗi khinh miệt của riêng họ: người da trắng hạng nhất là người Anglo-Saxon, hạng hai là người Pháp-Đức, hạng ba là người Tây Ban Nha-Ý-Bồ Đào Nha, hạng bốn là tiện dân Ireland và người Đông Âu.
Mỹ sau này có hai hệ thống băng đảng da trắng lớn: một là Mafia từ đảo Sicily của Ý, một là băng đảng Ireland. Hai nơi này sản sinh ra băng đảng, một là vì họ đến muộn, không giành được tài nguyên tốt, hai là quê hương của họ đều là nơi nghèo nhất, không có vốn, đành phải làm những nghề mờ ám.
Các bộ phim Mỹ "Bố già" và "Người đàn ông Ireland" đều kể về quá khứ của băng đảng Ý và băng đảng Ireland.
Đến nhiều người như vậy, miền Đông đã chật chội, nên sắp xếp họ ở đâu?
Mỹ vung tay một cái: "Đi về phía Tây!"
Nhưng bây giờ chỉ có đường thủy đến Ngũ Đại Hồ, làm sao để đi về phía tây?
Mỹ lại vung tay một cái: "Xây đường sắt!"
Miền Tây nước Mỹ ban đầu là một thế giới hoang vu. Pháp trên danh nghĩa thống trị nơi này, nhưng thực tế vẫn là lãnh địa của người Indian và thú dữ. Sau khi Mỹ mở thông Kênh đào Erie, họ đã thử dùng tàu hơi nước để di dân về phía tây. Dân số miền Tây tăng từ 290.000 người năm 1810 lên 3,3 triệu người năm 1840, nhưng vẫn chưa đủ. Những cánh đồng màu mỡ rộng lớn đang chờ đợi một lượng lớn người nhập cư mới đến khai hoang.
Để kết nối và phát triển miền Tây, cần phải có đường sắt.
Năm 1828, người Mỹ ở Baltimore học theo người Anh xây dựng đường sắt. Lúc đó chưa có đầu máy hơi nước, họ định dùng ngựa để kéo toa xe. Hai năm sau, nhà máy đúc Tây Điểm ở New York mới chế tạo được đầu máy xe lửa đầu tiên có tốc độ 35 dặm/giờ.
Mặc dù lúc này công nghệ đúc sắt của Mỹ còn khá lạc hậu, cần phải mua thép từ Anh, nhưng tính đi tính lại, chi phí đường sắt vẫn thấp hơn nhiều so với kênh đào, mỗi dặm chỉ tốn 20.000 đô la.
Trở ngại chính cho sự phát triển của đường sắt là khó khăn trong việc huy động vốn và tranh cãi về quyền trưng dụng đất. Đến năm 1846, tổng chiều dài đường sắt của Mỹ chưa đến 5.000 dặm. Sau đó, người nhập cư mới liên tục đến, buộc đường sắt phải phát triển mạnh mẽ. Đến năm 1857, tổng chiều dài đường sắt của Mỹ đã tăng vọt lên 25.000 dặm.
Những người nhập cư Ireland và Đức tìm được cơ hội sống sót đã ở lại Mỹ. Sau khi ổn định, do trải nghiệm khác nhau, người Đức kiếm được tiền liền mua ruộng đất, người Ireland từng bị tổn thương vì trồng trọt nên thích làm công nhân công nghiệp hơn, vào nhà máy vặn ốc vít. Người Hoa thì thích mở cửa hàng và nhà hàng, thường có vẻ không màng thế sự.
Sau đó, người Đức lại đến từng đợt, có tổng cộng ba làn sóng nhập cư. Hiện nay, người gốc Đức có 58 triệu người, đã trở thành nhóm dân tộc lớn nhất ở Mỹ, thậm chí còn nhiều hơn người gốc Anh.
Người Đức ban đầu còn muốn giữ lại ngôn ngữ và văn hóa của mình, nhưng trong Thế chiến I, Mỹ tuyên chiến với Đức. Người Anglo-Saxon đã "chỉnh đốn" người gốc Đức, yêu cầu họ tuân thủ "chủ nghĩa yêu nước một trăm phần trăm", đập phá cửa hàng của người gốc Đức, lôi người gốc Đức ra đường bôi đầy lông vũ để đấu tố, cấm nói tiếng Đức ở nơi công cộng, thực hiện một cuộc "cách mạng văn hóa" với người gốc Đức. Điều này khiến người gốc Đức sợ hãi, phải sống khép nép, không còn dạy tiếng Đức cho con cháu nữa mà chuyển sang nói tiếng Anh.
Tổ tiên của cựu Tổng thống Mỹ Trump đến từ Đức vào năm 1885. Đến đời ông, ông hoàn toàn không biết nói tiếng Đức. Thực ra, ngay cả tiếng Anh của Trump cũng không tốt, vốn từ vựng hạn chế, khi gõ chữ trên mạng thường sai chính tả, hay bị giới tinh hoa Mỹ chế giễu là mù chữ.
Người Mỹ gốc Đức và người Đức đã hoàn toàn không phải là một loại người, cũng giống như người Singapore không phải là người Trung Quốc. Tướng sáu sao của quân đội Mỹ trong Thế chiến I, Pershing, và các tướng Eisenhower, Nimitz trong Thế chiến II đều là người gốc Đức. Họ chỉ huy quân đội đánh cho người Đức tan tác, hoàn toàn không thể thân thiết được, đừng cố gắng kéo gần quan hệ, làm vậy chỉ khiến cả hai bên khó xử.
05
Trong quá trình tiến về phía Tây, nhiều hệ sinh thái của nước Mỹ ngày nay đã được định hình.
Để khuyến khích người dân tiến về phía Tây, năm 1800, chính phủ Mỹ quy định đất đai ở phía Tây được bán theo lô, mỗi lô tối thiểu 320 mẫu Anh, giá 2 đô la mỗi mẫu, có thể trả góp trong 4 năm. Nhưng người dân không mấy hưởng ứng, ai mà muốn đến cái nơi hoang vu đó chứ. Chính phủ Mỹ thấy không ổn, liền liên tục giảm giá khuyến mãi. Năm 1820, quy định được đổi thành mỗi lô tối thiểu 80 mẫu Anh, giá 1,25 đô la mỗi mẫu, nhưng mọi người vẫn không muốn đi. Sống ở đó chẳng khác gì người hoang dã. Năm 1832, giá lại được hạ xuống, ai muốn đến trồng thì cứ trồng, mỗi mẫu 0,5 đô la.
Từ ngày 1 tháng 1 năm 1863, chính phủ Mỹ cắn răng tung ra chương trình khuyến mãi lớn: bất kỳ ai đủ 21 tuổi, chỉ cần trả 10 đô la là có thể nhận được 160 mẫu Anh đất, canh tác trong 5 năm thì đất sẽ thuộc về bạn.
10 đô la năm 1863 tương đương khoảng 3.000 đô la năm 2022, tức là khoảng 70 triệu VNĐ. 160 mẫu Anh đất tương đương 64,75 hecta. Điều này tương đương với việc tặng bạn cả một ngôi làng với giá 70 triệu VNĐ. Lợi ích về đất đai như vậy là chưa từng có trong lịch sử nhân loại, đi là thành địa chủ.
Nếu là tôi, tôi cũng đi.
Lần này lại đúng vào lúc người nhập cư châu Âu ồ ạt kéo đến, không gian sống không đủ, không đi không được.
Để thu hút mọi người đến miền Tây, chính phủ Mỹ tập trung vào cơ sở hạ tầng, vừa điên cuồng xây dựng đường sắt, vừa điên cuồng đào kênh, ra sức cổ vũ người dân tiến về phía Tây.
Trạng thái cuộc sống khi tiến về phía Tây, mọi người có thể xem phim "True Grit" của anh em nhà Coen, "Dances with Wolves" của Kevin Costner, "Once Upon a Time in the West", "The Good, the Bad and the Ugly" của Leone, "3:10 to Yuma" của Mangold, v.v. Trò chơi nổi tiếng "Red Dead Redemption" kể về câu chuyện cuối thời kỳ khai hoang.
Tình cảm của người Mỹ đối với phim Viễn Tây cũng giống như tình cảm của người Trung Quốc đối với phim võ hiệp, đều là những ân oán được giải quyết một cách tự do ngoài vòng pháp luật.
Nhưng võ lâm của Trung Quốc thực ra không tồn tại, còn phim Viễn Tây của Mỹ lại bắt nguồn từ những trải nghiệm đẫm máu có thật.
Trong "True Grit" của anh em nhà Coen, môi trường sống của một thị trấn miền Tây thời đó đã được tái hiện rất tốt.
Trong phim, những người Mỹ tiến về phía Tây sống trong những ngôi nhà gỗ trong thị trấn, phần lớn sống bằng nghề trồng bông, ai cũng có hàm răng hỏng, ăn mặc cũ kỹ, rách rưới, người nào cũng nghèo kiết xác, phần lớn đều không được học hành, nói năng thẳng thắn, thô lỗ. Thị trấn bụi bặm, gặp phải tranh chấp pháp lý gì cũng phải thương lượng. Thứ duy nhất có thể tin tưởng chính là khẩu súng trong tay.
Một thị trấn như vậy nhất định phải có đường ray xe lửa đi qua mới có thể duy trì liên lạc với thế giới bên ngoài. Pháp luật chỉ tồn tại trong phạm vi thị trấn. Một khi phạm tội có thể chạy ra vùng hoang dã. Lúc này phải nhờ đến những thợ săn tiền thưởng. Cảnh sát trong thị trấn chỉ chịu trách nhiệm việc trong thị trấn, nhưng bạn có thể trả tiền thuê họ ra ngoài thị trấn bắt cướp.
Chưa từng thấy ở Trung Quốc cổ đại có chuyện thuê nha dịch lên núi bắt cướp. Nha dịch thuộc tài nguyên của chính phủ quốc gia, nhưng ở miền Tây nước Mỹ, nha dịch là tài nguyên của địa phương, làm việc ngoài phạm vi địa phương được coi là công việc làm thêm.
Một khi rời khỏi thị trấn, bên ngoài là cảnh quan thiên nhiên rộng lớn của miền Tây, có thung lũng, thảo nguyên, núi cao, tuyết lớn, cũng có bọn cướp, người Indian và thú dữ, côn trùng độc. Pháp luật và cảm giác an toàn hoàn toàn không tồn tại. Nhân vật nữ chính nhỏ tuổi trong phim sau khi ra khỏi thị trấn đã nhiều lần giao đấu với kẻ ác, lại bị rắn độc cắn, mất đi một cánh tay.
Cuộc khai hoang của người Mỹ khi tiến về phía Tây đã đặt nền móng sinh tồn cho rất nhiều người Mỹ, khiến họ ghi nhớ mãi mãi, nuôi dưỡng tính cách cứng rắn của người Mỹ.
Cuộc khai hoang của người Mỹ khi tiến về phía Tây cũng gần như đã giết sạch người Indian (bệnh truyền nhiễm tất nhiên phải tính vào đầu họ). Để cắt đứt kế sinh nhai của người Indian, họ còn tiện tay giết gần hết loài bò rừng bison Bắc Mỹ, từ 60 triệu con xuống chỉ còn 100 con.
Mọi người đều biết bít tết có nguồn gốc từ châu Âu, nhưng ở châu Âu chỉ có một số ít người ăn nổi. Trước đây, không có quốc gia nào ở lục địa Á-Âu có thể ăn thịt bò thoải mái. Người Mỹ ở Bắc Mỹ điên cuồng giết bò rừng, ngoài việc lấy da lông của chúng, chính là để ăn thịt. Vì bò rừng to khỏe, thịt bắp chân chắc nịch có nhiều gân, người Mỹ không có tài nấu nướng, không biết chế biến gân bò, nên chỉ chọn phần thịt không có gân trên mình bò để ăn, chính là phần thăn nội. Sau này, phần thịt này được gọi là bít tết thăn nội (filet mignon).
Sau này họ phát hiện lưỡi bò mềm hơn, lại thích cắt lưỡi bò để ăn.
Thói quen ăn bít tết của người Mỹ chính là từ đó mà ra, là do đã quen ăn thịt bò rừng Bắc Mỹ. Sau này, khi chăn nuôi có chi phí, họ không thể ăn bít tết một cách xa xỉ như vậy nữa. Phần thịt không ngon còn lại được làm thành bánh hamburger, vì vậy các món ăn nhanh của Mỹ như McDonald's và KFC mới có món bánh hamburger.
Tất cả những điều này đều bắt nguồn từ bò rừng Bắc Mỹ, từ cuộc tàn sát người Indian.
Nước Mỹ vẫn luôn là một nước Mỹ như vậy. Từ khi lập quốc, nó đã pha trộn giữa ánh sáng và bóng tối, rộng lớn và đẫm máu, tàn nhẫn và hùng vĩ, tiên tiến và man rợ, tự do và nô lệ. Nó luôn là một quốc gia đa diện và phức tạp.
Phần trước, câu chuyện miền Đông đã nói về chế độ nô lệ và công nghiệp hóa của Mỹ. Cuộc tiến về phía Tây lại càng củng cố thêm vấn đề súng đạn và quyền tự trị địa phương của Mỹ.
Quốc gia này, chính là do người dân dùng súng mà tạo ra, súng đạn đã ăn sâu vào máu thịt họ, họ không thể rời xa súng.
Khi mới đặt chân lên mảnh đất Bắc Mỹ, người Mỹ cần súng để bắt nạt người Indian và thú dữ, để thiết lập các tiền đồn. Sau này, họ cần súng để đánh đuổi người Anh. Khi tiến về phía Tây, họ lại càng cần súng để xâm lược và tự vệ. Lúc này, không hề tồn tại một hệ thống pháp luật và cơ quan thực thi pháp luật hoàn chỉnh, chỉ có súng mới có thể mang lại cho người Mỹ cảm giác an toàn.
Năm 1787, Hội nghị Lập hiến Mỹ quy định công dân có quyền sở hữu và mang vũ khí, đây chỉ là thuận theo ý dân. Súng đạn của người Mỹ chưa bao giờ là để bảo vệ tự do gì cả, từ thời kỳ hoang dã, việc mang súng chỉ đơn giản là để bảo vệ tài sản tư nhân và tính mạng của họ.
Những người Mỹ đến miền Tây khai hoang thường sống cách hàng trăm dặm mới có một người hàng xóm, cưỡi ngựa ra ngoài mua một cái thìa cũng mất vài giờ đi về. Cảnh sát trong thị trấn lại không quan tâm đến sống chết của họ. Trong một môi trường đất rộng người thưa như vậy, ngoài súng ra, còn có gì đáng tin cậy?
Việc mang súng đã được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, đến nay 330 triệu người Mỹ sở hữu 400 triệu khẩu súng. Chỉ cần gặp phải một chút thù hận chủng tộc và tâm lý biến thái, người dân lại có thể gây ra một cuộc thảm sát trường học.
"Tôi vượt vạn dặm từ châu Âu đến, vừa nghỉ chân ở mười ba thuộc địa miền Đông, tôi được chính phủ Mỹ cổ vũ, cầm súng lên đường trở lại, vượt ngàn dặm đến miền Tây chiếm đất. Tôi đã khai hoang mấy chục năm, trước không có làng, sau không có quán, sống cùng rắn độc thú dữ, đuổi đánh người Indian. Tôi đã đánh cược cả tính mạng gia đình để biến đất hoang thành ruộng đồng màu mỡ. Cả nhà tôi già trẻ lớn bé gần như mất nửa mạng, ai dám động đến tài sản tư nhân của tôi, tôi sẽ liều mạng với kẻ đó. Kẻ nào muốn động đến quyền lực và tài sản của tôi, trước tiên phải hỏi khẩu súng trong tay tôi đã."
06
Cùng tồn tại với súng đạn là quyền tự trị địa phương của Mỹ.
Thực ra, cái gọi là tự trị chính là cảm giác bất an về tài sản hiện có, sợ rằng tài sản tư nhân mà mình đã vất vả gầy dựng sẽ bị các cơ quan quyền lực của chính phủ xâm phạm.
Khi bắt đầu xây dựng đất nước này, người Mỹ đã không tin tưởng chính phủ liên bang.
Họ thà liên tục "vá lỗi" cho hệ thống xã hội hiện có, xây dựng xã hội từ dưới lên, chứ không muốn giao quyền lực cho trung ương, để trung ương huy động và phân phối của cải xã hội, tránh việc bị quản lý "từ trên xuống dưới".
Nói cho cùng, là sợ trung ương động đến tài sản tư nhân của họ.
Mười ba thuộc địa miền Đông ban đầu giống như một thị trấn lớn hỗn loạn trong "True Grit", mọi việc đều được giải quyết thông qua thương lượng. Việc thành lập liên bang chỉ có thể làm tăng thêm lợi ích chung cho mọi người, tuyệt đối không được làm giảm đi, phải đảm bảo ngân khố quốc gia và tài chính của các bang tách biệt, tuyệt đối không được động đến lợi ích của các bang.
Theo ghi chép trong "The Federalist Papers", người Mỹ cho rằng "chi phí cao để duy trì quân đội đòi hỏi phải thu thuế, và thuế là một hình thức áp bức". Nếu không phải vì giao thương giữa các bang, vì việc thành lập quân đội thường trực để bảo vệ lợi ích của các bang, vì việc xây dựng đê chống lũ trên sông Mississippi sau này, họ thậm chí còn không muốn có liên bang.
Martin Doyle trong "Great Rivers and Great Nations" đã mô tả ý định ban đầu của người Mỹ khi thành lập liên bang như sau: "Năm 1787, khi các nhà lập hiến suy nghĩ về cấu trúc chính phủ, thách thức lớn nhất mà họ phải đối mặt là 'cân bằng giữa nhu cầu của một chính phủ quốc gia tập trung hóa với mong muốn tự trị của các bang và địa phương.'"
Nói một cách dễ hiểu là: có lợi thì chúng ta lập liên bang, không có lợi thì chúng ta tự trị theo bang.
Vì vậy, cho đến ngày nay, quyền lực của các bang ở Mỹ lớn đến kinh ngạc. Họ có quyền lập pháp, hành pháp riêng và quyền chỉ huy Lực lượng Vệ binh Quốc gia.
20 năm trước, trên internet Trung Quốc tràn ngập những câu chuyện cười về việc "quân đội chỉ có thể dùng để đối ngoại, không thể dùng để đối nội", chuyên dùng để chế giễu việc Trung Quốc huy động quân đội cứu trợ lũ lụt. Thực ra, trung ương Mỹ cũng muốn làm như vậy, nhưng quyền lực của liên bang và các bang của họ là riêng biệt. Họ ghét việc trung ương cử quân đội đến địa phương, để cứu trợ thiên tai, họ có Lực lượng Vệ binh Quốc gia.
Năm 2005, khi cơn bão Katrina quét qua New Orleans, đã xảy ra rất nhiều vụ cướp bóc, giết người. Ngay cả trong tình huống đó, chính quyền bang vẫn từ chối để quân đội liên bang đến quản lý an ninh, chỉ cho phép Lực lượng Vệ binh Quốc gia duy trì trật tự. Dù quản lý không tốt, cũng không cho trung ương can thiệp.
Bởi vì các bang chỉ quan tâm đến lợi ích của riêng mình, thậm chí còn xảy ra chuyện kỳ lạ là những người tị nạn từ New Orleans chạy sang bang lân cận đã bị Vệ binh Quốc gia của bang đó dùng súng đuổi về.
Tất cả những điều này nếu xảy ra ở Trung Quốc đều là không thể tưởng tượng được.
Mỹ vẫn có thể gắn kết với nhau là nhờ kết quả của cuộc Nội chiến.
Nền công nghiệp Ngũ Đại Hồ ở miền Bắc phát triển, họ muốn dùng thuế quan cao để bảo vệ ngành công nghiệp trong nước. Trong khi đó, ngành dệt bông của miền Nam cần thuế quan thấp để giảm giá bông, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường và mua nô lệ da đen với giá rẻ. Nền công nghiệp miền Bắc cần lao động tự do và phản đối chế độ nô lệ. Vì vậy, hai bên đã lao vào cuộc chiến, đấu tranh quyết liệt, khiến 750.000 người thiệt mạng. Cuối cùng, miền Bắc với nền công nghiệp hùng mạnh đã đánh bại miền Nam.
Về mối quan hệ giữa liên bang và địa phương, chính quyền Lincoln đã đặt ra quy tắc: trong thời bình, các bang tự lo việc của mình, tự lập pháp, hành pháp, thành lập Lực lượng Vệ binh Quốc gia. Nhưng Điều 1, Khoản 8 của Hiến pháp chỉ rõ, khi trấn áp nổi loạn và đẩy lùi xâm lược, Quốc hội có thể ủy quyền cho Tổng thống trực tiếp trưng dụng Lực lượng Vệ binh Quốc gia, đặt dưới sự quản lý của chính phủ liên bang.
Điều này đã biến một liên minh lỏng lẻo thành một liên bang chặt chẽ hơn một chút. Đồng thời, nó cũng mang lại thân phận tự do cho nô lệ da đen.
Chúng ta cuối cùng đã quay lại chủ đề của chương hai: những nô lệ da đen được tự do sau này ở Mỹ ra sao?
Còn có thể ra sao nữa, họ vẫn là nhóm người sống khổ sở nhất.
Sau khi Nội chiến kết thúc, Mỹ có khoảng 4 triệu người da đen, chiếm khoảng 20% tổng dân số cả nước. Ban đầu, những người da đen được tự do vô cùng vui mừng, họ mở tiệc tùng điên cuồng trên các cánh đồng hoặc đường phố.
Sau một thời gian ăn mừng, họ lại rơi vào hoang mang, nhận ra mình không có bất kỳ tài sản hay công cụ sản xuất nào. Một số người da đen thậm chí không có một mảnh vải che thân, lang thang trần truồng trên đường phố.
Đột nhiên, chủ nhân không còn, áp bức không còn, nhưng cũng không ai quan tâm đến sống chết của họ nữa.
Chính phủ Mỹ đã bán đất đai của các chủ nô cũ cho các chủ doanh nghiệp lớn và chủ đồn điền, cũng dự định cho người da đen thuê một phần đất. Nhưng người da đen không có tiền. Sau một hồi lòng vòng, họ lại quay về ký hợp đồng lao động, tiếp tục làm công trong các trang viên, nhưng tiền lương ít ỏi đến đáng thương, không khác gì trước đây. Ngoài việc không còn bị đánh đập, tra tấn, về mặt kinh tế không có gì thay đổi. Vì vậy, ở đồng bằng sông Mississippi, đến nay vẫn còn rất nhiều người da đen.
Lúc đó, chính phủ Mỹ đã cho người da đen hưởng phúc lợi đi xe miễn phí để họ tự do tìm việc trên toàn quốc. Một bộ phận người da đen đã theo dòng người tiến về phía Tây. Những kỹ năng họ học được trong các đồn điền ở miền Nam đã phát huy tác dụng, họ trở thành những cao bồi da đen, sống bằng nghề chăn nuôi. Bộ phim "Django Unchained" kể về câu chuyện của những cao bồi da đen.
Dĩ nhiên, khi người da trắng tiến về phía Tây, họ cũng mang theo một số người da đen. Chúng ta thường thấy trong các bộ phim Viễn Tây hình ảnh những bà chủ da trắng mặc trang phục kiểu Victoria, bên cạnh thường có một nữ nô lệ da đen.
Một bộ phận người da đen khác đã đến các khu công nghiệp phía Bắc tìm việc, trở thành những công nhân ngành thép và ô tô vất vả nhất. Thời đó, trong các nhà máy thép ở Ngũ Đại Hồ, người da đen chiếm đến một phần ba.
Năm đó, xe Mỹ cạnh tranh với xe Nhật, mọi người đều nói xe Mỹ làm rất ẩu, nên không đấu lại xe Nhật. Bạn hãy tưởng tượng những người da đen vác một cái loa lớn trong xưởng, đeo tai nghe to, vừa nghe hip-hop vừa làm việc hì hục, sao mà không ẩu được? Nhưng công việc này chỉ có người da đen mới chịu làm lâu dài, ẩu một chút thì cũng đành chịu.
Nói đến ô tô, chúng ta lại kết nối với Detroit đã đề cập ở trên.
Từ năm 1850 đến 1930, Detroit dựa vào ngành công nghiệp ô tô, tốc độ tăng dân số mỗi thập kỷ đều trên 30%. Vào những năm 1950, Detroit đạt đến đỉnh cao, dân số đạt 1,85 triệu người. Trụ sở của ba gã khổng lồ ô tô và các nhà cung cấp thượng nguồn, hạ nguồn đều chuyển đến Detroit, cung cấp 220.000 việc làm trong ngành sản xuất, trở thành thành phố lớn thứ tư của Mỹ.
Một phần lớn những người đến Detroit kiếm sống là người da đen.
Thời đó, Detroit là thiên đường để người da đen thực hiện giấc mơ Mỹ.
Nhưng giấc mơ đẹp nhanh chóng bị đánh thức.
Mỹ là một quốc gia bị chia rẽ nghiêm trọng. Họ đã lên mặt trăng vào năm 1969, nhưng cũng trong những năm 1960, người da đen vẫn phải đấu tranh cho quyền không phải nhường chỗ cho người da trắng trên xe buýt.
Sau Nội chiến, người da đen trên danh nghĩa được tự do, nhưng thực tế vẫn ở trong tình trạng bất bình đẳng. Năm 1896, Tòa án Tối cao Liên bang trong vụ "Plessy v. Ferguson" đã ra phán quyết, thiết lập chính sách phân biệt chủng tộc đối với người da đen.
Những năm 1950, Martin Luther King Jr. kêu gọi người da đen đứng lên đòi bình đẳng chủng tộc, kết quả là năm 1968, ông đã bị một kẻ phân biệt chủng tộc căm ghét người da đen ám sát tại Memphis.
Bản thân người da đen cũng thực sự không có chí tiến thủ. Bao nhiêu năm qua, phần lớn cộng đồng vẫn luẩn quẩn trong trạng thái sống buông thả, cẩu thả, hỗn loạn. Nghiện ma túy, nghiện rượu, quan hệ tình dục bừa bãi cũng là tình trạng thường thấy của nhiều người da đen ở Mỹ.
Một năm trước khi Tiến sĩ King qua đời, xung đột trắng-đen đã rất nghiêm trọng. Ngày 23 tháng 7 năm 1967, cảnh sát đã đột kích một quán bar không có giấy phép trên đường 12, xảy ra xung đột với những người da đen say rượu. Những người da đen cho rằng cảnh sát cố tình gây sự và đã đánh nhau với cảnh sát ngay tại chỗ.
Sự việc nhanh chóng biến thành một cuộc bạo loạn lớn. Người da đen đã đập phá, cướp bóc, đốt phá khắp thành phố, khiến 43 người chết, hơn 1.000 người bị thương, hàng nghìn phụ nữ da trắng bị hãm hiếp và hơn 2.000 tòa nhà bị phá hủy.
Thống đốc đã huy động 7.000 Vệ binh Quốc gia, Tổng thống cũng ra lệnh cho Sư đoàn Dù 82 đến trấn áp, đưa xe tăng ra đường phố Detroit, bắt giữ 7.200 người mới dập tắt được cuộc bạo loạn.
Với tính cách tự trị địa phương của Mỹ, lần này họ lại cho phép quân đội liên bang đến dẹp loạn, cho thấy tình hình nghiêm trọng đến mức nào.
Sau đó, người da trắng lũ lượt rời khỏi Detroit, dân số giảm xuống còn 700.000 người như hiện nay, và người da đen chiếm 81% dân số thành phố.
Người da đen đã thử tự quản lý thành phố của người da đen, nhưng hiệu quả không mấy khả quan.
Bắt đầu từ năm 1973, thông qua bỏ phiếu dân chủ, thị trưởng và các nghị viên của Detroit đều do người da đen nắm giữ. Sau khi lên nắm quyền, họ đầu tiên đã thay đổi tỷ lệ người da đen trong lực lượng cảnh sát từ 20% lên 85%, sau đó áp thuế nặng đối với người da trắng và người Hoa, và trợ cấp lớn cho người da đen. Người da trắng chạy đi nhanh hơn, người da đen tập trung lại đông hơn.
Cộng với việc ngành công nghiệp ô tô Mỹ thất bại trong cuộc cạnh tranh với ô tô Nhật Bản, ngành công nghiệp Detroit bị phá hủy, khiến Detroit phải tuyên bố phá sản vào năm 2013. Trong cuộc bầu cử thị trưởng năm 2017, trong số 8 ứng cử viên, một nửa là những kẻ từng phạm tội nặng, từng buôn bán ma túy, giết người.
Detroit chính là một hình ảnh thu nhỏ của việc Mỹ không thể hòa hợp chủng tộc, người da đen khó có thể tự trị, và công nghiệp ồ ạt rời đi. Nó tập hợp rất nhiều năng lượng tiêu cực của Mỹ, tạo nên một thành phố bị hủy diệt.
Đến ngày nay, một bộ phận rất nhỏ người da đen chơi NBA, hát rap và sống khá tốt. Nhưng đại đa số người da đen, về bản chất không khác nhiều so với tổ tiên của họ ở thế kỷ 17. Họ chỉ có thể làm những công việc chân tay như công nhân sửa đường, công nhân vệ sinh, nhân viên phục vụ, tài xế xe tải. Chỉ là năng suất lao động đã tăng lên, họ không cần phải làm nô lệ trên đồng ruộng nữa. Trong đó vừa có nguyên nhân từ sự áp bức của người da trắng, vừa có nguyên nhân từ sự thiếu nỗ lực của chính họ.
Hiện nay, người da đen chiếm khoảng 13-14% dân số Mỹ, nhưng lại chiếm 50% số tù nhân. 75% người da đen trưởng thành lớn lên trong gia đình đơn thân, một phần ba người da đen hoặc đang ở trong tù, hoặc đang trong thời gian quản chế.
Chúng ta thường thấy cảnh sát Mỹ chặn người da đen trên đường, nói không hợp là rút súng, một khi nổ súng là bắn hết cả băng đạn.
Đó là bởi vì Mỹ sẽ không bao giờ giải quyết được vấn đề súng đạn, cũng sẽ không bao giờ giải quyết được vấn đề tỷ lệ tội phạm của người da đen. Khi vấn đề súng đạn và vấn đề người da đen trùng lặp, nó sẽ hình thành nên việc thực thi pháp luật với áp lực cao, và sẽ liên tục xuất hiện những tin tức về việc cảnh sát bắn nghi phạm da đen như tổ ong.
07
Khi bạn đọc đến đây, bạn đã đọc được hơn 10.000 từ, tôi biết bây giờ bạn đã hơi mệt.
Nhưng hãy đợi một chút, cuối cùng tôi muốn nói về một đặc điểm lớn nhất của Mỹ: Mỹ là một quốc gia không ngừng "chắp vá" (vá lỗi).
Khái niệm "chắp vá" này là một từ tôi đã nhắc đi nhắc lại trong các bài viết trước đây về Mỹ.
Năm 1607, tổ tiên của người Mỹ đến Jamestown, bắt đầu thiết lập các cứ điểm ven biển. Sau đó, các cứ điểm lan rộng như những hạt đậu dọc theo bờ biển phía đông, dần dần có các làng, thị trấn, thành phố, và các thành phố lại dần dần trở thành các bang.
Vì là người mới, sân chơi mới, mọi người khi khởi nghiệp đều bình đẳng, nên không ai phục ai, mọi việc đều được giải quyết thông qua thương lượng.
Sau này, người Anh thấy Bắc Mỹ phát triển, lại thiếu tiền, muốn thu thêm thuế. Những người thuộc địa ở Bắc Mỹ liền nổi giận, không muốn nộp. Với sự giúp đỡ của Pháp, họ đã đánh đuổi cấp trên của mình.
Lần này, họ càng không muốn có ai quản lý mình, không muốn có một chính phủ trung ương đến thu thuế của họ. Nhưng một số việc vẫn cần có một trung ương đứng ra giải quyết, nên họ đã thành lập một liên minh (confederation).
Sau đó, vận may bùng nổ, lục địa Á-Âu hỗn loạn, không ai quan tâm đến họ nữa, lãnh thổ của họ tự nhiên ngày càng lớn, người nhập cư cũng ngày càng nhiều.
Người Mỹ liền thực hiện cuộc khai phá miền Tây vĩ đại, lặp lại kịch bản của miền Đông, trước tiên xây dựng làng, thị trấn, rồi đến thành phố, rồi đến bang ở miền Tây.
Vì lại là người mới, sân chơi mới, mọi người khi khởi nghiệp đều bình đẳng, không ai phục ai, mọi việc đều được giải quyết thông qua thương lượng.
Có chính quyền bang cũng được, có chính phủ liên bang cũng được, nhưng trước tiên phải đảm bảo không động đến tài sản tư nhân của tôi, nếu không thì chúng ta đừng lập bang và liên bang nữa.
Vẫn là câu nói đó, làm phép cộng thì được, làm phép trừ thì không.
Khi tôi liều mạng ở miền Tây, anh cũng chẳng hề quan tâm. Chỉ cần anh có thể đảm bảo tôi sở hữu mảnh đất tôi đã khai phá, cho phép tôi mang súng để bảo vệ tài sản tư nhân của mình, sống chết của tôi anh cũng không cần quan tâm nhiều, dù sao thì quyền lực tôi đồng ý giao cho bang và liên bang cũng không nhiều.
Vì vậy, Covid đã giết chết 1 triệu người dân, thì tôi cũng đành chấp nhận số phận, tôi chưa bao giờ trông mong trung ương có thể làm được gì, tôi cũng không tìm các anh để quy trách nhiệm.
Logic cơ bản của Mỹ chính là như vậy: súng đạn, tự trị, liên bang, tất cả đều được xây dựng trên nền tảng bảo vệ tài sản tư nhân của họ.
Vì những thứ cốt lõi không thể động đến, nên họ chỉ có thể "chắp vá" hệ thống xã hội.
Đầu tiên có thị trấn, chúng ta có cảnh sát thị trấn; trong thị trấn có trường học, để bảo vệ học sinh, liền trao quyền thực thi pháp luật cho cảnh sát trường học. Sau này, bên ngoài thị trấn ngày càng có nhiều người, không ai quản lý, liền thêm một chức danh cảnh sát trưởng (sheriff) vào hệ thống cảnh sát. Bên ngoài thị trấn có một con kênh chảy qua, vậy chúng ta lại lập lực lượng vũ trang kênh đào. Đột nhiên bên ngoài thị trấn lại có thêm một con đường cao tốc, thế là có cảnh sát tuần tra cao tốc. Các thành phố ngày càng nhiều, giữa mỗi thành phố có rất nhiều khoảng trống, vậy thì lập một bang, rồi lại có cảnh sát bang.
Quyền lực ở cơ sở được mở rộng vô hạn, hết lớp vá này đến lớp vá khác.
Tại sao không trực tiếp tạo ra một hệ thống cảnh sát thống nhất trên toàn quốc, có cần phải phức tạp như vậy không?
Không được, chúng ta phải tự trị địa phương, trung ương không thể quản lý bang, bang không thể quản lý thị trấn của chúng tôi. Thị trấn này có đất của nhà chúng tôi, mảnh đất này là do ông cố của ông cố tôi cầm súng liều mạng đổi lấy, các người đừng hòng động đến!
Sự tự trị của Mỹ không chỉ thể hiện ở chính quyền địa phương mà còn ở sự tự trị của các nhóm người khác nhau.
Mặc dù tầng lớp dưới rất yếu kém, nhưng sự tự trị của tầng lớp tinh hoa lại làm rất tốt. Sự tự trị này đã giúp Mỹ giải phóng tối đa tiềm năng trong khoa học công nghệ và hoạt động thương mại. Vì vậy, trong những năm qua, Mỹ vẫn có thể lên mặt trăng, chế tạo tàu sân bay, và dẫn đầu cuộc cách mạng internet.
Mỹ là một quốc gia có giới hạn trên cực cao và giới hạn dưới cực thấp. Nguồn gốc của những điều này nằm ở quyền tự trị địa phương và tự trị của các nhóm người.
Sự khác biệt cốt lõi giữa Trung Quốc và Mỹ là gì?
Trung Quốc là nhượng lại một phần quyền lực cá nhân để trung ương chịu trách nhiệm điều phối. Trung ương phải đảm bảo an toàn cá nhân, nếu trung ương không bảo vệ được, người dân sẽ oán hận ngút trời.
Mỹ là tuyệt đối không nhượng bộ quyền lực cá nhân, nhưng nếu có chuyện gì xảy ra, ví dụ như Covid, thì sống chết có số, giàu sang do trời, chết bao nhiêu người tôi cũng không tìm anh tính sổ, nhưng anh tuyệt đối không được động đến tài sản tư nhân mà tổ tiên tôi đã gầy dựng.
08
Bài viết hôm nay đã điểm lại lịch sử phát triển từ đông sang tây của Mỹ.
Mỹ bắt đầu từ Jamestown, từng bước tiến về phía tây, đến đường thác nước, dãy Appalachian, Kênh đào Erie, Ngũ Đại Hồ, sông Mississippi, và cuối cùng đến tận Los Angeles, hình thành nên nước Mỹ ngày nay.
Nhiều việc làm có vẻ như tâm thần phân liệt của Mỹ ngày nay đều là những logic xã hội bất di bất dịch được hình thành trong quá trình phát triển của đất nước.
Nó hơi giống như "tổ chế" của mỗi triều đại phong kiến Trung Quốc, một khi đã hình thành thì không thể thay đổi.
Bốn trăm năm của nước Mỹ, thực ra phần lớn thời gian nó là một quốc gia nông nghiệp với chế độ nông nô. Sự phất lên của nó đến quá đột ngột, quá mạnh mẽ, khiến đất nước không có đủ thời gian để tiêu hóa, không san bằng được những mâu thuẫn xã hội.
Mâu thuẫn chủng tộc, vấn đề súng đạn, phân hóa giàu nghèo, hệ thống cảnh sát, v.v., tất cả đều là một thể thống nhất, không thể tách riêng bất kỳ vấn đề nào ra để xem xét, nếu không sẽ chỉ thấy điểm mà không thấy diện, thấy cành mà không thấy cây.
Chỉ khi hiểu được quá trình phát triển của Mỹ, chúng ta mới có thể nhìn thấy toàn bộ bức tranh về các vấn đề xã hội của Mỹ, bạn mới hiểu tại sao Mỹ xảy ra nhiều vụ xả súng như vậy mà tuyệt đối không thể cấm súng, tại sao người da đen ở Mỹ luôn gây ra những chuyện lớn nhưng không bao giờ giải quyết được.
Trừ khi san bằng nước Mỹ và xây dựng lại từ đầu, nếu không những vấn đề này không thể giải quyết được.
Tôi có một quan điểm, Mỹ đang ở trong vòng đời đầu tiên của họ. Trước khi vòng đời này kết thúc, mọi thứ hiện có của Mỹ đều không thể thay đổi.
Các quốc gia như Trung Quốc, Pháp, Anh, Nga, Nhật Bản, thực ra đã trải qua nhiều vòng đời, đất nước đã được tái thiết nhiều lần. Chỉ có Mỹ vẫn đang ở trong vòng đời đầu tiên, vẫn chưa đi hết.
Việc Mỹ tuyệt đối không cấm súng chỉ là một nhánh trong vòng đời đầu tiên đó.
Dù có thêm bao nhiêu vụ xả súng, bao nhiêu máu đổ thành sông, đây là quốc bản hiện tại của Mỹ, là cái giá cho sự phát triển của Mỹ. Đây là một sự thật mà không ai có thể thay đổi trước khi vòng đời đầu tiên kết thúc./.

01
Sau mỗi vụ xả súng, Tổng thống Mỹ và các quan chức cấp cao lại đưa ra những lời sáo rỗng như "Tôi đã quá đủ rồi", "phải thay đổi hiện trạng, ngăn chặn bi kịch tái diễn", "sốc và đau buồn"... Tiếp theo là các quy trình truyền thống như treo cờ rủ, đặt hoa, thắp nến, rồi sau đó, các vụ xả súng lại bị lãng quên, không ai quan tâm đến việc xử lý tiếp theo.
Đến năm sau, các vụ xả súng sẽ lại xảy ra ở một nơi nào đó tại Mỹ, dân thường vẫn sẽ ngã xuống trong vũng máu ở siêu thị và trường học, rồi lại đau buồn, lại treo cờ rủ, lại thắp nến, cứ thế lặp đi lặp lại.
Tại sao Mỹ xảy ra vô số vụ xả súng nhưng không bao giờ giải quyết được vấn đề này?
Bởi vì nguồn gốc của tất cả những điều này đến từ hoàn cảnh khi nước Mỹ được thành lập, là những hiện tượng đặc biệt được hình thành trong giai đoạn phát triển đặc thù. Để hiểu hiện tượng này của Mỹ, chúng ta phải truy về nguồn gốc, tìm ra con đường phát triển từ thời thơ ấu đến tuổi thiếu niên của đất nước họ.
Điều chúng ta cần hiểu bây giờ không chỉ là việc cấm súng, nhìn vấn đề như vậy quá nhỏ bé. Chúng ta cần hiểu toàn bộ nước Mỹ.
02
Những câu chuyện tốt đẹp về Mỹ mà chúng ta nghe ngày nay đều coi chuyến tàu Mayflower năm 1620 là sự khởi đầu của nước Mỹ. Thực ra, lịch sử chính thống của Mỹ đều tính năm 1607 là năm đầu tiên hình thành nước Mỹ.
Năm đó, 105 người Anh mang theo giấy phép của nhà vua, đi thuyền từ London, hành trình 144 ngày, đến một vùng đầm lầy ở đông nam Virginia vào tháng 5 để định cư. Họ đến Bắc Mỹ chủ yếu để cướp đất trước Tây Ban Nha và tiện thể tìm vàng. Họ chỉ là một đám người ham tiền.
Bước đầu tiên sau khi lên bờ là dành 20 ngày để xây dựng một pháo đài tạm bợ tên là Jamestown để chống lại sự tấn công của người Indian. Nhưng một nửa số người đã chết vì kiệt sức trong cái nóng oi ả. May mắn thay, công ty London liên tục gửi người đến tăng viện, giữ được cứ điểm đầu tiên. Tuy nhiên, hai năm sau, vì giá rét, 500 người đã chết đói 440 người, chỉ còn lại 60 người sống sót, trong đó còn xảy ra thảm kịch ăn thịt người.
Khó khăn lắm mới sống sót qua ngày, người Indian lại đến tấn công cứ điểm. Năm 1622 có 350 người bị giết, năm 1644 có 500 người bị giết.
Sau khi người Anh ổn định ở Jamestown, họ bắt đầu trồng thuốc lá. Dĩ nhiên không phải họ tự trồng, trồng thuốc lá rất cực nhọc, họ đều vận chuyển nô lệ da đen từ châu Phi sang để trồng. Năm 1619, việc kinh doanh nô lệ da đen ở Jamestown lần đầu tiên khai trương, nhập khẩu lô nô lệ da đen đầu tiên từ châu Phi. Cùng năm đó, hội nghị lập pháp đầu tiên của các thuộc địa Bắc Mỹ cũng được tổ chức tại đây.
Jamestown sau này trở thành thủ phủ của Virginia, nhưng bị san bằng do nội loạn, vài chục năm sau lại bị nước sông nhấn chìm. Mãi đến năm 1994 mới được khai quật khảo cổ. Nhưng người ta công nhận rằng Jamestown đã định hình Virginia, và Virginia đã định hình bốn trong số năm vị tổng thống đầu tiên của Mỹ: Washington, Jefferson, Madison, Monroe. Đây mới thực sự là nguồn gốc của nước Mỹ.
Con tàu "Mayflower" được ca ngợi là tinh thần Mỹ và được tuyên truyền khắp nơi là chuyện của năm 1620. Lúc này, việc kinh doanh nô lệ và thuốc lá ở Jamestown đã phát triển, hội nghị cũng đã tổ chức rồi. Một vai phụ lại bị biến thành vai chính là để tiện cho việc tuyên truyền sau này, nhằm quảng bá văn kiện "Hiệp ước Mayflower", rằng nền tảng lập quốc của Mỹ là tinh thần khế ước, thêm màu sắc lãng mạn cho sự thành lập của nước Mỹ.
Sau vài chục năm giao tranh với người Indian trong đầm lầy, người Anh cuối cùng cũng đuổi hết họ đi. Đến năm 1629, người Anh Mason đã thành lập thuộc địa New Hampshire dọc theo sông Piscataqua. Mười ba thuộc địa Bắc Mỹ ngoài Virginia lại có thêm vùng đất thứ hai.
Cùng với việc ngày càng có nhiều người do vua Anh cử đến, sau hơn một trăm năm canh tác, đến năm 1732, mười ba bang ven biển phía đông đã dần dần được xây dựng.
Lúc này, lãnh thổ của Mỹ vẫn còn rất nhỏ hẹp, cũng là một nước nông nghiệp thuần túy, nhưng dân số đông hơn các khu vực khác. Năm 1760, mười ba bang có tổng cộng 1,2 triệu người da trắng, 400.000 nô lệ da đen và một số lượng không thể thống kê người Indian. Người da trắng chủ yếu bao gồm người Anh, Ireland, Scotland và Đức.
Mười ba bang này đều sống bằng nông nghiệp và ngư nghiệp. Nô lệ da đen ngày ngày làm việc trên đồng từ sáng đến tối, trồng bông, thuốc lá, lúa, mía, chặt cây, cuốc đất, cày ruộng, đập lúa, làm việc như trâu như ngựa. Những người bạn thấy ngày nay như James, Kobe, Jordan, Kanye... chính là hậu duệ của những nô lệ da đen này.
Thực ra, người da trắng không bắt nô lệ da đen, chỉ bán nô lệ da đen. Người bắt những người da đen là các tù trưởng da đen địa phương của họ. Nô lệ da đen là tù binh chiến tranh, hoặc là những người trong bộ tộc của họ vì nghèo đói mà bán thân, sau đó được bán lại cho người da trắng để đổi lấy đồ vật và tiền bạc.
Sau khi đến Mỹ, những người da đen này bắt đầu làm việc trước khi trời sáng. Nếu là mùa thu hoạch bông, họ phải dậy lúc bốn, năm giờ sáng, mang một cái túi lớn ra đồng hái bông, làm việc theo nhóm 15 người.
Vào bảy giờ sáng, chủ da trắng sẽ cho người mang bữa sáng ra đồng, ăn một ít bánh ngô hoặc bánh mì, ăn xong trong vòng mười phút rồi tiếp tục làm việc.
Đến trưa, chủ da trắng sẽ cho họ một ít bánh mì, thịt lợn muối để bổ sung năng lượng. Khi ăn không có bàn, nô lệ đều bưng chậu, tìm một nơi râm mát đứng hoặc ngồi xổm để ăn. Đôi khi, chủ sẽ tỏ lòng tốt, thưởng cho họ gà rán và dưa hấu. Cái "meme" này đã lưu truyền đến tận bây giờ, nếu bạn nói mời người da đen ở Mỹ ăn gà rán hoặc dưa hấu, anh ta sẽ nổi giận với bạn, đó là một sự sỉ nhục đối với họ.
Những chủ đồn điền keo kiệt hơn, bữa trưa chỉ cho nô lệ ngô và bánh mì, cộng thêm một bát súp bí ngô.
Bữa trưa cũng chỉ có 15 phút, xong việc lại tiếp tục ra đồng hái bông. Giám công cưỡi ngựa đứng bên cạnh giám sát, ai tụt lại phía sau sẽ bị quất roi, và phải bị quất trước mặt mọi người để làm gương.
Nô lệ làm việc cho đến hoàng hôn, có thể ăn tối ngay tại đồng, và phải làm việc cho đến khi trời tối hẳn mới được nghỉ.
Trong giờ làm việc, mỗi giờ được đến thùng nước uống một muỗng nước, thời gian còn lại không được nghỉ ngơi.
Nô lệ sống một cuộc sống không bằng chó lợn, mỗi ngày làm việc hơn mười tiếng. Vào mùa thu hoạch bông cao điểm, thường phải làm việc 18 tiếng một ngày.
Từ ngày đầu tiên quốc gia này được thành lập, người da trắng và người da đen đã là hai tầng lớp đối đầu nhau. Người da đen luôn ở vị thế bị áp bức, hàng trăm năm qua đều như vậy.
03
Trên bản đồ, mười ba thuộc địa Bắc Mỹ chen chúc ở một vị trí hẹp dài là có lý do đặc biệt.
Bởi vì phía tây có dãy núi Appalachian đã chặn bước chân mở rộng của họ, họ chỉ có thể co cụm ở vùng đồng bằng ven biển phía đông để kiếm sống. Lúc này cần phải có bản đồ địa hình, chúng ta nhìn một cái là hiểu ngay.
Những người đầu tiên xuống tàu ở Bắc Mỹ đã định cư tại các thành phố ven biển phía đông, khai sinh ra các thành phố nổi tiếng như Philadelphia, Boston, New York.
Sau này người ngày càng đông, những người Mỹ đến sau đi về phía tây, đến chân dãy núi Appalachian thì bị núi cao chặn lại, không đi được nữa.
Lưu ý rằng nội dung sắp nói tới đây rất ít được đề cập trong cộng đồng mạng tiếng Trung.
Dãy núi Appalachian dài khoảng 3.000 km đã tạo ra một hiện tượng địa lý đặc biệt cho miền Đông.
Giữa đồng bằng miền Đông cao 200 mét so với mực nước biển và dãy núi Appalachian có sự chênh lệch độ cao, địa thế đột ngột hạ xuống, sông ngòi từ trên núi đổ xuống đồng bằng tạo thành nhiều thác nước và dòng chảy xiết, được gọi là "đường thác nước" (fall line).
Những người đầu tiên đến Mỹ chỉ biết sử dụng thủy lực, họ định cư dọc theo đường thác nước, dựa vào sức nước của thác để xây dựng guồng nước và nhà máy xay, xay bột, cưa gỗ, và sử dụng máy dệt thủy lực để dệt vải.
Thêm vào đó, tàu hàng đến hạ lưu đường thác nước phải dỡ hàng lên bờ, vận chuyển đến thượng nguồn rồi mới lại chất hàng lên tàu. Dọc theo đường thác nước dần dần hình thành các làng mạc, thị trấn. Những thị trấn này lớn dần lên và trở thành Washington trên sông Potomac, Richmond trên sông James, Trenton trên sông Delaware ngày nay.
Thủ phủ của các bang miền Đông nước Mỹ đều nằm dọc theo đường thác nước, đây là minh chứng rõ nhất cho việc địa lý định hình văn hóa.
New York, thành phố giàu có nhất nước Mỹ ngày nay, và thủ đô Washington, được hình thành lần lượt từ đông sang tây theo cách này.
New York ngày càng giàu có, trở thành trung tâm kinh tế và tài chính của Mỹ, là nhờ việc xây dựng Kênh đào Erie.
Con kênh đào này hiện không còn nhiều vai trò, nhưng nó chính là con sông đã thay đổi vận mệnh ban đầu của nước Mỹ.
Năm 1783, sau khi thất bại trong Chiến tranh giành độc lập, Anh không chỉ thừa nhận mười ba thuộc địa miền Đông Bắc Mỹ mà còn công nhận vùng đất phía tây dãy Appalachian, phía nam Ngũ Đại Hồ và phía bắc sông Mississippi thuộc về Mỹ. Lãnh thổ của Mỹ cuối cùng đã vượt qua dãy Appalachian, diện tích đất nước tăng gấp đôi.
Năm 1803, Mỹ chỉ mất 15 triệu đô la đã mua lại 2,14 triệu km² đất Louisiana từ tay Napoléon. Chỉ trong hai mươi năm, Mỹ đột nhiên trở thành một quốc gia rộng lớn 5 triệu km². Lúc này, người Mỹ có một lượng lớn đất đai ở phía tây cần khai hoang, cũng cần vận chuyển vật tư từ đông sang tây, và cần di chuyển một lượng lớn dân cư về phía tây (chi tiết xem trong "Lịch sử và vận mệnh nước Mỹ" https://www.facebook.com/share/p/16Gfgkrf6s/), không thể nén kinh tế Mỹ vào một khu vực nhỏ bé như Pennsylvania, Massachusetts, New York.
Thời đó chưa có xe lửa, vận chuyển một tấn hàng hóa bằng đường bộ từ Buffalo đến New York tốn 120 đô la, chi phí cực kỳ cao. Để kết nối Ngũ Đại Hồ với New York, Mỹ quyết định xây dựng Kênh đào Erie.
Khi người Mỹ xây dựng con kênh này, họ chỉ là một quốc gia nông nghiệp thuần túy, cả nước không tìm được một kỹ sư xây dựng dân dụng đủ tiêu chuẩn. Thống đốc bang New York cùng với các luật sư, giáo viên toán, kỹ sư nghiệp dư đã phải liều mình xây dựng con kênh dài 584 km trong tám năm.
Con kênh này chảy qua khu vực Ngũ Đại Hồ và sông Hudson, sông Hudson lại đổ ra Đại Tây Dương qua cảng New York, giống như một con đường cao tốc, kết nối Ngũ Đại Hồ với đồng bằng Trung Tây.
Tổng vốn đầu tư của Kênh đào Erie lên tới 7 triệu đô la, gần bằng giá Mỹ mua Alaska, là một con số khổng lồ vào thời điểm đó. Để huy động vốn, trái phiếu Erie đã được phát hành tại Phố Wall, New York. Kết quả là Kênh đào Erie kiếm được lợi nhuận khổng lồ, các nhà đầu tư châu Âu đổ xô đến đầu tư vào cổ phiếu khái niệm kênh đào, và Phố Wall cũng dần trở thành trung tâm tài chính thế giới.
Sau khi xây dựng xong kênh đào, chi phí vận chuyển một tấn bột mì giảm mạnh từ 120 đô la xuống còn 6 đô la. Cảng New York từ đó trở thành trung tâm logistics. Năm 1800, chỉ có 6% hàng hóa toàn quốc đi qua New York, đến năm 1860, con số này tăng lên 62%. Dân số New York cũng tăng từ 120.000 lên 1.080.000, vượt qua Philadelphia và Boston, trở thành thành phố số một của Mỹ.
Khu vực Ngũ Đại Hồ cũng được hưởng lợi từ Kênh đào Erie. Cộng thêm việc xây dựng một loạt kênh đào kết nối Ngũ Đại Hồ và các nhánh của sông Mississippi sau này, khu vực Ngũ Đại Hồ ở Đông Bắc Mỹ hình thành một mạng lưới đường thủy dày đặc, tương tự như môi trường địa lý của tỉnh Giang Tô, Trung Quốc, giúp cho việc lưu thông quặng sắt của Ngũ Đại Hồ và than đá của dãy Appalachian trở nên thuận tiện. Do đó, khu vực Ngũ Đại Hồ ở Đông Bắc trở thành khu công nghiệp sớm nhất của Mỹ, các thành phố như Chicago, Detroit, Cleveland, Pittsburgh từ đó trỗi dậy.
Trong số đó, sự thăng trầm của Detroit có liên quan mật thiết đến logic cơ bản của xã hội Mỹ, chúng ta sẽ tiếp tục đề cập đến nó ở phần sau.
Kênh đào Erie không chỉ quyết định vận mệnh của New York, Chicago, Detroit mà còn có một việc phải nhắc đến.
Đó là chuyện mà chúng ta thường dùng để châm chọc Mỹ: "Người Canada đốt Nhà Trắng".
Trước khi có Kênh đào Erie, cửa biển của Ngũ Đại Hồ là sông Saint Lawrence của Canada, Mỹ không có cửa biển, điều này hạn chế rất lớn sự phát triển kinh tế của khu vực Ngũ Đại Hồ của Mỹ.
Để chiếm đoạt cửa biển sông Saint Lawrence, năm 1812, Mỹ cử 1.500 dân quân tấn công Canada. Ban đầu, cuộc chiến khá thuận lợi, tháng 4 năm 1813, họ chiếm được thủ đô York của Canada (nay là Toronto) và cho quân lính đốt phá, cướp bóc. Không ngờ Napoléon thất bại ở châu Âu, người Anh rảnh tay đối phó với quân Mỹ. 12.000 quân Anh phản công, chiếm được cả Washington, đốt cháy Tòa nhà Quốc hội và Nhà Trắng.
Năm đó, Washington chỉ có 8.000 dân, trong đó 1.300 là nô lệ da đen, thực chất chỉ là một thị trấn nhỏ. Quân Anh không có hứng thú ở lại lâu, chiếm đóng 26 giờ rồi rút đi.
Chính vì không đánh lại quân Anh của Canada, không giành được cửa biển, Mỹ sau này mới phải xây dựng Kênh đào Erie. New York và Ngũ Đại Hồ từ đó phát triển thịnh vượng, cũng khiến Mỹ bắt đầu nhòm ngó lãnh thổ của Mexico. Từ đó, Mỹ ngừng mở rộng về phía bắc, chuyển sang bắt nạt Mexico ở phía tây nam.
04
Khi đọc đến đây, chắc hẳn mọi người sẽ thấy rất lạ. Tiêu đề rõ ràng nói về cấm súng, tại sao nói mãi vẫn là mười ba thuộc địa miền Đông, nô lệ da đen, đường thác nước, New York, khu công nghiệp Ngũ Đại Hồ, điều này thì có liên quan quái gì đến cấm súng chứ?
Đừng vội, để hiểu một sự vật, chúng ta cần biết toàn bộ bức tranh của nó. Vấn đề súng đạn chỉ là một nhánh trong những tình huống đặc biệt khi nước Mỹ mới thành lập. Lịch sử Mỹ tiến triển chậm chạp từ đông sang tây, và quá trình này đã đặt nền móng cho DNA của nước Mỹ. Chỉ cần hiểu được sự hình thành của Mỹ, chúng ta không chỉ hiểu được vấn đề cấm súng mà còn hiểu được một nước Mỹ hoàn chỉnh.
Khi người Mỹ cuối cùng đã vượt qua dãy Appalachian và mở thông hành lang Đông Bắc bằng Kênh đào Erie, họ cần tiếp tục tiến về phía tây để hoàn thành việc khai thác sông Mississippi.
Nhìn vào bản đồ lưu vực sông Mississippi, ta sẽ thấy nó chảy qua phần lớn lãnh thổ Mỹ. Các thành phố Trung Tây được xây dựng sau này gần như đều liên quan đến dòng chính của sông Mississippi. Kansas City nằm ở nơi giao nhau của sông Missouri và sông Kansas; Sacramento nằm ở nơi giao nhau của sông American và sông Sacramento; Memphis, Vicksburg thì được xây dựng trên những bờ dốc mà nước sông khó có thể ngập tới.
Sông Mississippi chảy dọc từ bắc xuống nam nước Mỹ, với tổng diện tích lưu vực 3,32 triệu km², nhưng các bang hạ lưu sông Mississippi lại nghèo rớt mồng tơi ở Mỹ.
Lý do là địa hình Mỹ hai bên cao, ở giữa thấp. Hạ lưu sông Mississippi lại bằng phẳng như một dải lụa, không thể cản được bão từ Vịnh Mexico và luồng không khí lạnh từ Bắc Băng Dương tràn xuống qua Vịnh Hudson.
Người Indian hoàn toàn không có khả năng phát triển khu vực này. Mãi đến khi người châu Âu đến, họ mới bắt đầu làm nông nghiệp ở đây. Cho đến ngày nay, bang Mississippi vẫn là một bang rất nghèo. Bang Louisiana có cửa biển thì khá hơn một chút. New Orleans vào năm 1850 còn có thể ngang hàng với New York, nhờ vào vị trí địa lý ở cửa sông Mississippi, vận chuyển bông đi khắp nơi.
Ngoài New Orleans, trên sông Mississippi còn có một thành phố từng rất quan trọng: St. Louis.
St. Louis nằm ở trung tâm của hệ thống sông ngòi và đường sắt của Mỹ.
Về đường thủy, nó nằm ở điểm giao nhau của sông Missouri và sông Mississippi. Về đường sắt, nó là điểm gặp gỡ của các tuyến đường sắt lớn đông-tây và bắc-nam của cả nước. Tuyến đường sắt bắc-nam từ Chicago đến New Orleans và tuyến đường sắt đông-tây từ New York đến Los Angeles đều giao nhau tại đây.
Trong quá trình tiến về phía tây, người Mỹ phụ thuộc vào đường sắt nhiều hơn rất nhiều so với sông Mississippi.
Trong những thập kỷ đó, rất nhiều người nhập cư mới từ châu Âu đã đến Mỹ, đông đến mức miền Đông không thể chứa nổi, họ phải mở rộng về phía tây, bảo họ đi tìm những vùng đất rộng lớn ở phía tây để kiếm sống.
Từ năm 1842, mỗi năm có ít nhất 100.000 người đến Mỹ kiếm ăn. Từ năm 1847 đến 1857, có 1,2 triệu người Ireland bị nạn đói, mang theo lòng căm thù sâu sắc đối với người Anh đến Mỹ. Từ năm 1852 đến 1854, lại có 500.000 người Đức đến để tránh nội loạn, cộng thêm những người nhập cư Pháp và Ý để tránh cách mạng trong nước, trong một thời gian ngắn, Mỹ đã tiếp nhận hơn 2 triệu người nhập cư.
Trong số này, thảm nhất là người Ireland. Sau khi Ireland bị Anh chinh phục, người Anh luôn đề phòng họ. Năm 1845, khoai tây, lương thực chính của Ireland, bị mất mùa do bệnh mốc sương, gây ra nạn đói, khiến hơn 1 triệu người chết đói. Anh không những không cứu giúp mà còn nhân cơ hội mua nhà cửa, ruộng đất của người Ireland với giá rẻ. Người Ireland buộc phải lưu lạc khắp nơi trên thế giới, phần lớn đến Mỹ. Ngày nay, có 40 triệu người Mỹ là hậu duệ của người Ireland, bao gồm cả tổ tiên của Clinton và Obama, vốn cũng là những người tị nạn.
Những người Ireland này đến nơi đất khách quê người đã trải qua muôn vàn khó khăn, một phần năm chết vì bệnh tật và suy dinh dưỡng. Sau khi đến Bắc Mỹ, họ lại nghèo đến điên cuồng, bất cứ công việc bẩn thỉu, cực nhọc nào cũng chịu làm, được mệnh danh là "tiện dân trong số người da trắng". Họ tiện đến mức các chủ đồn điền ở miền Nam, vì quý nô lệ da đen của mình, đã để người Ireland làm những công việc nguy hiểm nhất thay cho nô lệ da đen, vừa rẻ vừa dễ sai bảo. Người Ireland, ngoài việc có thân phận tự do, giá trị sinh mạng còn không bằng nô lệ da đen.
Người da trắng cũng có chuỗi khinh miệt của riêng họ: người da trắng hạng nhất là người Anglo-Saxon, hạng hai là người Pháp-Đức, hạng ba là người Tây Ban Nha-Ý-Bồ Đào Nha, hạng bốn là tiện dân Ireland và người Đông Âu.
Mỹ sau này có hai hệ thống băng đảng da trắng lớn: một là Mafia từ đảo Sicily của Ý, một là băng đảng Ireland. Hai nơi này sản sinh ra băng đảng, một là vì họ đến muộn, không giành được tài nguyên tốt, hai là quê hương của họ đều là nơi nghèo nhất, không có vốn, đành phải làm những nghề mờ ám.
Các bộ phim Mỹ "Bố già" và "Người đàn ông Ireland" đều kể về quá khứ của băng đảng Ý và băng đảng Ireland.
Đến nhiều người như vậy, miền Đông đã chật chội, nên sắp xếp họ ở đâu?
Mỹ vung tay một cái: "Đi về phía Tây!"
Nhưng bây giờ chỉ có đường thủy đến Ngũ Đại Hồ, làm sao để đi về phía tây?
Mỹ lại vung tay một cái: "Xây đường sắt!"
Miền Tây nước Mỹ ban đầu là một thế giới hoang vu. Pháp trên danh nghĩa thống trị nơi này, nhưng thực tế vẫn là lãnh địa của người Indian và thú dữ. Sau khi Mỹ mở thông Kênh đào Erie, họ đã thử dùng tàu hơi nước để di dân về phía tây. Dân số miền Tây tăng từ 290.000 người năm 1810 lên 3,3 triệu người năm 1840, nhưng vẫn chưa đủ. Những cánh đồng màu mỡ rộng lớn đang chờ đợi một lượng lớn người nhập cư mới đến khai hoang.
Để kết nối và phát triển miền Tây, cần phải có đường sắt.
Năm 1828, người Mỹ ở Baltimore học theo người Anh xây dựng đường sắt. Lúc đó chưa có đầu máy hơi nước, họ định dùng ngựa để kéo toa xe. Hai năm sau, nhà máy đúc Tây Điểm ở New York mới chế tạo được đầu máy xe lửa đầu tiên có tốc độ 35 dặm/giờ.
Mặc dù lúc này công nghệ đúc sắt của Mỹ còn khá lạc hậu, cần phải mua thép từ Anh, nhưng tính đi tính lại, chi phí đường sắt vẫn thấp hơn nhiều so với kênh đào, mỗi dặm chỉ tốn 20.000 đô la.
Trở ngại chính cho sự phát triển của đường sắt là khó khăn trong việc huy động vốn và tranh cãi về quyền trưng dụng đất. Đến năm 1846, tổng chiều dài đường sắt của Mỹ chưa đến 5.000 dặm. Sau đó, người nhập cư mới liên tục đến, buộc đường sắt phải phát triển mạnh mẽ. Đến năm 1857, tổng chiều dài đường sắt của Mỹ đã tăng vọt lên 25.000 dặm.
Những người nhập cư Ireland và Đức tìm được cơ hội sống sót đã ở lại Mỹ. Sau khi ổn định, do trải nghiệm khác nhau, người Đức kiếm được tiền liền mua ruộng đất, người Ireland từng bị tổn thương vì trồng trọt nên thích làm công nhân công nghiệp hơn, vào nhà máy vặn ốc vít. Người Hoa thì thích mở cửa hàng và nhà hàng, thường có vẻ không màng thế sự.
Sau đó, người Đức lại đến từng đợt, có tổng cộng ba làn sóng nhập cư. Hiện nay, người gốc Đức có 58 triệu người, đã trở thành nhóm dân tộc lớn nhất ở Mỹ, thậm chí còn nhiều hơn người gốc Anh.
Người Đức ban đầu còn muốn giữ lại ngôn ngữ và văn hóa của mình, nhưng trong Thế chiến I, Mỹ tuyên chiến với Đức. Người Anglo-Saxon đã "chỉnh đốn" người gốc Đức, yêu cầu họ tuân thủ "chủ nghĩa yêu nước một trăm phần trăm", đập phá cửa hàng của người gốc Đức, lôi người gốc Đức ra đường bôi đầy lông vũ để đấu tố, cấm nói tiếng Đức ở nơi công cộng, thực hiện một cuộc "cách mạng văn hóa" với người gốc Đức. Điều này khiến người gốc Đức sợ hãi, phải sống khép nép, không còn dạy tiếng Đức cho con cháu nữa mà chuyển sang nói tiếng Anh.
Tổ tiên của cựu Tổng thống Mỹ Trump đến từ Đức vào năm 1885. Đến đời ông, ông hoàn toàn không biết nói tiếng Đức. Thực ra, ngay cả tiếng Anh của Trump cũng không tốt, vốn từ vựng hạn chế, khi gõ chữ trên mạng thường sai chính tả, hay bị giới tinh hoa Mỹ chế giễu là mù chữ.
Người Mỹ gốc Đức và người Đức đã hoàn toàn không phải là một loại người, cũng giống như người Singapore không phải là người Trung Quốc. Tướng sáu sao của quân đội Mỹ trong Thế chiến I, Pershing, và các tướng Eisenhower, Nimitz trong Thế chiến II đều là người gốc Đức. Họ chỉ huy quân đội đánh cho người Đức tan tác, hoàn toàn không thể thân thiết được, đừng cố gắng kéo gần quan hệ, làm vậy chỉ khiến cả hai bên khó xử.
05
Trong quá trình tiến về phía Tây, nhiều hệ sinh thái của nước Mỹ ngày nay đã được định hình.
Để khuyến khích người dân tiến về phía Tây, năm 1800, chính phủ Mỹ quy định đất đai ở phía Tây được bán theo lô, mỗi lô tối thiểu 320 mẫu Anh, giá 2 đô la mỗi mẫu, có thể trả góp trong 4 năm. Nhưng người dân không mấy hưởng ứng, ai mà muốn đến cái nơi hoang vu đó chứ. Chính phủ Mỹ thấy không ổn, liền liên tục giảm giá khuyến mãi. Năm 1820, quy định được đổi thành mỗi lô tối thiểu 80 mẫu Anh, giá 1,25 đô la mỗi mẫu, nhưng mọi người vẫn không muốn đi. Sống ở đó chẳng khác gì người hoang dã. Năm 1832, giá lại được hạ xuống, ai muốn đến trồng thì cứ trồng, mỗi mẫu 0,5 đô la.
Từ ngày 1 tháng 1 năm 1863, chính phủ Mỹ cắn răng tung ra chương trình khuyến mãi lớn: bất kỳ ai đủ 21 tuổi, chỉ cần trả 10 đô la là có thể nhận được 160 mẫu Anh đất, canh tác trong 5 năm thì đất sẽ thuộc về bạn.
10 đô la năm 1863 tương đương khoảng 3.000 đô la năm 2022, tức là khoảng 70 triệu VNĐ. 160 mẫu Anh đất tương đương 64,75 hecta. Điều này tương đương với việc tặng bạn cả một ngôi làng với giá 70 triệu VNĐ. Lợi ích về đất đai như vậy là chưa từng có trong lịch sử nhân loại, đi là thành địa chủ.
Nếu là tôi, tôi cũng đi.
Lần này lại đúng vào lúc người nhập cư châu Âu ồ ạt kéo đến, không gian sống không đủ, không đi không được.
Để thu hút mọi người đến miền Tây, chính phủ Mỹ tập trung vào cơ sở hạ tầng, vừa điên cuồng xây dựng đường sắt, vừa điên cuồng đào kênh, ra sức cổ vũ người dân tiến về phía Tây.
Trạng thái cuộc sống khi tiến về phía Tây, mọi người có thể xem phim "True Grit" của anh em nhà Coen, "Dances with Wolves" của Kevin Costner, "Once Upon a Time in the West", "The Good, the Bad and the Ugly" của Leone, "3:10 to Yuma" của Mangold, v.v. Trò chơi nổi tiếng "Red Dead Redemption" kể về câu chuyện cuối thời kỳ khai hoang.
Tình cảm của người Mỹ đối với phim Viễn Tây cũng giống như tình cảm của người Trung Quốc đối với phim võ hiệp, đều là những ân oán được giải quyết một cách tự do ngoài vòng pháp luật.
Nhưng võ lâm của Trung Quốc thực ra không tồn tại, còn phim Viễn Tây của Mỹ lại bắt nguồn từ những trải nghiệm đẫm máu có thật.
Trong "True Grit" của anh em nhà Coen, môi trường sống của một thị trấn miền Tây thời đó đã được tái hiện rất tốt.
Trong phim, những người Mỹ tiến về phía Tây sống trong những ngôi nhà gỗ trong thị trấn, phần lớn sống bằng nghề trồng bông, ai cũng có hàm răng hỏng, ăn mặc cũ kỹ, rách rưới, người nào cũng nghèo kiết xác, phần lớn đều không được học hành, nói năng thẳng thắn, thô lỗ. Thị trấn bụi bặm, gặp phải tranh chấp pháp lý gì cũng phải thương lượng. Thứ duy nhất có thể tin tưởng chính là khẩu súng trong tay.
Một thị trấn như vậy nhất định phải có đường ray xe lửa đi qua mới có thể duy trì liên lạc với thế giới bên ngoài. Pháp luật chỉ tồn tại trong phạm vi thị trấn. Một khi phạm tội có thể chạy ra vùng hoang dã. Lúc này phải nhờ đến những thợ săn tiền thưởng. Cảnh sát trong thị trấn chỉ chịu trách nhiệm việc trong thị trấn, nhưng bạn có thể trả tiền thuê họ ra ngoài thị trấn bắt cướp.
Chưa từng thấy ở Trung Quốc cổ đại có chuyện thuê nha dịch lên núi bắt cướp. Nha dịch thuộc tài nguyên của chính phủ quốc gia, nhưng ở miền Tây nước Mỹ, nha dịch là tài nguyên của địa phương, làm việc ngoài phạm vi địa phương được coi là công việc làm thêm.
Một khi rời khỏi thị trấn, bên ngoài là cảnh quan thiên nhiên rộng lớn của miền Tây, có thung lũng, thảo nguyên, núi cao, tuyết lớn, cũng có bọn cướp, người Indian và thú dữ, côn trùng độc. Pháp luật và cảm giác an toàn hoàn toàn không tồn tại. Nhân vật nữ chính nhỏ tuổi trong phim sau khi ra khỏi thị trấn đã nhiều lần giao đấu với kẻ ác, lại bị rắn độc cắn, mất đi một cánh tay.
Cuộc khai hoang của người Mỹ khi tiến về phía Tây đã đặt nền móng sinh tồn cho rất nhiều người Mỹ, khiến họ ghi nhớ mãi mãi, nuôi dưỡng tính cách cứng rắn của người Mỹ.
Cuộc khai hoang của người Mỹ khi tiến về phía Tây cũng gần như đã giết sạch người Indian (bệnh truyền nhiễm tất nhiên phải tính vào đầu họ). Để cắt đứt kế sinh nhai của người Indian, họ còn tiện tay giết gần hết loài bò rừng bison Bắc Mỹ, từ 60 triệu con xuống chỉ còn 100 con.
Mọi người đều biết bít tết có nguồn gốc từ châu Âu, nhưng ở châu Âu chỉ có một số ít người ăn nổi. Trước đây, không có quốc gia nào ở lục địa Á-Âu có thể ăn thịt bò thoải mái. Người Mỹ ở Bắc Mỹ điên cuồng giết bò rừng, ngoài việc lấy da lông của chúng, chính là để ăn thịt. Vì bò rừng to khỏe, thịt bắp chân chắc nịch có nhiều gân, người Mỹ không có tài nấu nướng, không biết chế biến gân bò, nên chỉ chọn phần thịt không có gân trên mình bò để ăn, chính là phần thăn nội. Sau này, phần thịt này được gọi là bít tết thăn nội (filet mignon).
Sau này họ phát hiện lưỡi bò mềm hơn, lại thích cắt lưỡi bò để ăn.
Thói quen ăn bít tết của người Mỹ chính là từ đó mà ra, là do đã quen ăn thịt bò rừng Bắc Mỹ. Sau này, khi chăn nuôi có chi phí, họ không thể ăn bít tết một cách xa xỉ như vậy nữa. Phần thịt không ngon còn lại được làm thành bánh hamburger, vì vậy các món ăn nhanh của Mỹ như McDonald's và KFC mới có món bánh hamburger.
Tất cả những điều này đều bắt nguồn từ bò rừng Bắc Mỹ, từ cuộc tàn sát người Indian.
Nước Mỹ vẫn luôn là một nước Mỹ như vậy. Từ khi lập quốc, nó đã pha trộn giữa ánh sáng và bóng tối, rộng lớn và đẫm máu, tàn nhẫn và hùng vĩ, tiên tiến và man rợ, tự do và nô lệ. Nó luôn là một quốc gia đa diện và phức tạp.
Phần trước, câu chuyện miền Đông đã nói về chế độ nô lệ và công nghiệp hóa của Mỹ. Cuộc tiến về phía Tây lại càng củng cố thêm vấn đề súng đạn và quyền tự trị địa phương của Mỹ.
Quốc gia này, chính là do người dân dùng súng mà tạo ra, súng đạn đã ăn sâu vào máu thịt họ, họ không thể rời xa súng.
Khi mới đặt chân lên mảnh đất Bắc Mỹ, người Mỹ cần súng để bắt nạt người Indian và thú dữ, để thiết lập các tiền đồn. Sau này, họ cần súng để đánh đuổi người Anh. Khi tiến về phía Tây, họ lại càng cần súng để xâm lược và tự vệ. Lúc này, không hề tồn tại một hệ thống pháp luật và cơ quan thực thi pháp luật hoàn chỉnh, chỉ có súng mới có thể mang lại cho người Mỹ cảm giác an toàn.
Năm 1787, Hội nghị Lập hiến Mỹ quy định công dân có quyền sở hữu và mang vũ khí, đây chỉ là thuận theo ý dân. Súng đạn của người Mỹ chưa bao giờ là để bảo vệ tự do gì cả, từ thời kỳ hoang dã, việc mang súng chỉ đơn giản là để bảo vệ tài sản tư nhân và tính mạng của họ.
Những người Mỹ đến miền Tây khai hoang thường sống cách hàng trăm dặm mới có một người hàng xóm, cưỡi ngựa ra ngoài mua một cái thìa cũng mất vài giờ đi về. Cảnh sát trong thị trấn lại không quan tâm đến sống chết của họ. Trong một môi trường đất rộng người thưa như vậy, ngoài súng ra, còn có gì đáng tin cậy?
Việc mang súng đã được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, đến nay 330 triệu người Mỹ sở hữu 400 triệu khẩu súng. Chỉ cần gặp phải một chút thù hận chủng tộc và tâm lý biến thái, người dân lại có thể gây ra một cuộc thảm sát trường học.
"Tôi vượt vạn dặm từ châu Âu đến, vừa nghỉ chân ở mười ba thuộc địa miền Đông, tôi được chính phủ Mỹ cổ vũ, cầm súng lên đường trở lại, vượt ngàn dặm đến miền Tây chiếm đất. Tôi đã khai hoang mấy chục năm, trước không có làng, sau không có quán, sống cùng rắn độc thú dữ, đuổi đánh người Indian. Tôi đã đánh cược cả tính mạng gia đình để biến đất hoang thành ruộng đồng màu mỡ. Cả nhà tôi già trẻ lớn bé gần như mất nửa mạng, ai dám động đến tài sản tư nhân của tôi, tôi sẽ liều mạng với kẻ đó. Kẻ nào muốn động đến quyền lực và tài sản của tôi, trước tiên phải hỏi khẩu súng trong tay tôi đã."
06
Cùng tồn tại với súng đạn là quyền tự trị địa phương của Mỹ.
Thực ra, cái gọi là tự trị chính là cảm giác bất an về tài sản hiện có, sợ rằng tài sản tư nhân mà mình đã vất vả gầy dựng sẽ bị các cơ quan quyền lực của chính phủ xâm phạm.
Khi bắt đầu xây dựng đất nước này, người Mỹ đã không tin tưởng chính phủ liên bang.
Họ thà liên tục "vá lỗi" cho hệ thống xã hội hiện có, xây dựng xã hội từ dưới lên, chứ không muốn giao quyền lực cho trung ương, để trung ương huy động và phân phối của cải xã hội, tránh việc bị quản lý "từ trên xuống dưới".
Nói cho cùng, là sợ trung ương động đến tài sản tư nhân của họ.
Mười ba thuộc địa miền Đông ban đầu giống như một thị trấn lớn hỗn loạn trong "True Grit", mọi việc đều được giải quyết thông qua thương lượng. Việc thành lập liên bang chỉ có thể làm tăng thêm lợi ích chung cho mọi người, tuyệt đối không được làm giảm đi, phải đảm bảo ngân khố quốc gia và tài chính của các bang tách biệt, tuyệt đối không được động đến lợi ích của các bang.
Theo ghi chép trong "The Federalist Papers", người Mỹ cho rằng "chi phí cao để duy trì quân đội đòi hỏi phải thu thuế, và thuế là một hình thức áp bức". Nếu không phải vì giao thương giữa các bang, vì việc thành lập quân đội thường trực để bảo vệ lợi ích của các bang, vì việc xây dựng đê chống lũ trên sông Mississippi sau này, họ thậm chí còn không muốn có liên bang.
Martin Doyle trong "Great Rivers and Great Nations" đã mô tả ý định ban đầu của người Mỹ khi thành lập liên bang như sau: "Năm 1787, khi các nhà lập hiến suy nghĩ về cấu trúc chính phủ, thách thức lớn nhất mà họ phải đối mặt là 'cân bằng giữa nhu cầu của một chính phủ quốc gia tập trung hóa với mong muốn tự trị của các bang và địa phương.'"
Nói một cách dễ hiểu là: có lợi thì chúng ta lập liên bang, không có lợi thì chúng ta tự trị theo bang.
Vì vậy, cho đến ngày nay, quyền lực của các bang ở Mỹ lớn đến kinh ngạc. Họ có quyền lập pháp, hành pháp riêng và quyền chỉ huy Lực lượng Vệ binh Quốc gia.
20 năm trước, trên internet Trung Quốc tràn ngập những câu chuyện cười về việc "quân đội chỉ có thể dùng để đối ngoại, không thể dùng để đối nội", chuyên dùng để chế giễu việc Trung Quốc huy động quân đội cứu trợ lũ lụt. Thực ra, trung ương Mỹ cũng muốn làm như vậy, nhưng quyền lực của liên bang và các bang của họ là riêng biệt. Họ ghét việc trung ương cử quân đội đến địa phương, để cứu trợ thiên tai, họ có Lực lượng Vệ binh Quốc gia.
Năm 2005, khi cơn bão Katrina quét qua New Orleans, đã xảy ra rất nhiều vụ cướp bóc, giết người. Ngay cả trong tình huống đó, chính quyền bang vẫn từ chối để quân đội liên bang đến quản lý an ninh, chỉ cho phép Lực lượng Vệ binh Quốc gia duy trì trật tự. Dù quản lý không tốt, cũng không cho trung ương can thiệp.
Bởi vì các bang chỉ quan tâm đến lợi ích của riêng mình, thậm chí còn xảy ra chuyện kỳ lạ là những người tị nạn từ New Orleans chạy sang bang lân cận đã bị Vệ binh Quốc gia của bang đó dùng súng đuổi về.
Tất cả những điều này nếu xảy ra ở Trung Quốc đều là không thể tưởng tượng được.
Mỹ vẫn có thể gắn kết với nhau là nhờ kết quả của cuộc Nội chiến.
Nền công nghiệp Ngũ Đại Hồ ở miền Bắc phát triển, họ muốn dùng thuế quan cao để bảo vệ ngành công nghiệp trong nước. Trong khi đó, ngành dệt bông của miền Nam cần thuế quan thấp để giảm giá bông, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường và mua nô lệ da đen với giá rẻ. Nền công nghiệp miền Bắc cần lao động tự do và phản đối chế độ nô lệ. Vì vậy, hai bên đã lao vào cuộc chiến, đấu tranh quyết liệt, khiến 750.000 người thiệt mạng. Cuối cùng, miền Bắc với nền công nghiệp hùng mạnh đã đánh bại miền Nam.
Về mối quan hệ giữa liên bang và địa phương, chính quyền Lincoln đã đặt ra quy tắc: trong thời bình, các bang tự lo việc của mình, tự lập pháp, hành pháp, thành lập Lực lượng Vệ binh Quốc gia. Nhưng Điều 1, Khoản 8 của Hiến pháp chỉ rõ, khi trấn áp nổi loạn và đẩy lùi xâm lược, Quốc hội có thể ủy quyền cho Tổng thống trực tiếp trưng dụng Lực lượng Vệ binh Quốc gia, đặt dưới sự quản lý của chính phủ liên bang.
Điều này đã biến một liên minh lỏng lẻo thành một liên bang chặt chẽ hơn một chút. Đồng thời, nó cũng mang lại thân phận tự do cho nô lệ da đen.
Chúng ta cuối cùng đã quay lại chủ đề của chương hai: những nô lệ da đen được tự do sau này ở Mỹ ra sao?
Còn có thể ra sao nữa, họ vẫn là nhóm người sống khổ sở nhất.
Sau khi Nội chiến kết thúc, Mỹ có khoảng 4 triệu người da đen, chiếm khoảng 20% tổng dân số cả nước. Ban đầu, những người da đen được tự do vô cùng vui mừng, họ mở tiệc tùng điên cuồng trên các cánh đồng hoặc đường phố.
Sau một thời gian ăn mừng, họ lại rơi vào hoang mang, nhận ra mình không có bất kỳ tài sản hay công cụ sản xuất nào. Một số người da đen thậm chí không có một mảnh vải che thân, lang thang trần truồng trên đường phố.
Đột nhiên, chủ nhân không còn, áp bức không còn, nhưng cũng không ai quan tâm đến sống chết của họ nữa.
Chính phủ Mỹ đã bán đất đai của các chủ nô cũ cho các chủ doanh nghiệp lớn và chủ đồn điền, cũng dự định cho người da đen thuê một phần đất. Nhưng người da đen không có tiền. Sau một hồi lòng vòng, họ lại quay về ký hợp đồng lao động, tiếp tục làm công trong các trang viên, nhưng tiền lương ít ỏi đến đáng thương, không khác gì trước đây. Ngoài việc không còn bị đánh đập, tra tấn, về mặt kinh tế không có gì thay đổi. Vì vậy, ở đồng bằng sông Mississippi, đến nay vẫn còn rất nhiều người da đen.
Lúc đó, chính phủ Mỹ đã cho người da đen hưởng phúc lợi đi xe miễn phí để họ tự do tìm việc trên toàn quốc. Một bộ phận người da đen đã theo dòng người tiến về phía Tây. Những kỹ năng họ học được trong các đồn điền ở miền Nam đã phát huy tác dụng, họ trở thành những cao bồi da đen, sống bằng nghề chăn nuôi. Bộ phim "Django Unchained" kể về câu chuyện của những cao bồi da đen.
Dĩ nhiên, khi người da trắng tiến về phía Tây, họ cũng mang theo một số người da đen. Chúng ta thường thấy trong các bộ phim Viễn Tây hình ảnh những bà chủ da trắng mặc trang phục kiểu Victoria, bên cạnh thường có một nữ nô lệ da đen.
Một bộ phận người da đen khác đã đến các khu công nghiệp phía Bắc tìm việc, trở thành những công nhân ngành thép và ô tô vất vả nhất. Thời đó, trong các nhà máy thép ở Ngũ Đại Hồ, người da đen chiếm đến một phần ba.
Năm đó, xe Mỹ cạnh tranh với xe Nhật, mọi người đều nói xe Mỹ làm rất ẩu, nên không đấu lại xe Nhật. Bạn hãy tưởng tượng những người da đen vác một cái loa lớn trong xưởng, đeo tai nghe to, vừa nghe hip-hop vừa làm việc hì hục, sao mà không ẩu được? Nhưng công việc này chỉ có người da đen mới chịu làm lâu dài, ẩu một chút thì cũng đành chịu.
Nói đến ô tô, chúng ta lại kết nối với Detroit đã đề cập ở trên.
Từ năm 1850 đến 1930, Detroit dựa vào ngành công nghiệp ô tô, tốc độ tăng dân số mỗi thập kỷ đều trên 30%. Vào những năm 1950, Detroit đạt đến đỉnh cao, dân số đạt 1,85 triệu người. Trụ sở của ba gã khổng lồ ô tô và các nhà cung cấp thượng nguồn, hạ nguồn đều chuyển đến Detroit, cung cấp 220.000 việc làm trong ngành sản xuất, trở thành thành phố lớn thứ tư của Mỹ.
Một phần lớn những người đến Detroit kiếm sống là người da đen.
Thời đó, Detroit là thiên đường để người da đen thực hiện giấc mơ Mỹ.
Nhưng giấc mơ đẹp nhanh chóng bị đánh thức.
Mỹ là một quốc gia bị chia rẽ nghiêm trọng. Họ đã lên mặt trăng vào năm 1969, nhưng cũng trong những năm 1960, người da đen vẫn phải đấu tranh cho quyền không phải nhường chỗ cho người da trắng trên xe buýt.
Sau Nội chiến, người da đen trên danh nghĩa được tự do, nhưng thực tế vẫn ở trong tình trạng bất bình đẳng. Năm 1896, Tòa án Tối cao Liên bang trong vụ "Plessy v. Ferguson" đã ra phán quyết, thiết lập chính sách phân biệt chủng tộc đối với người da đen.
Những năm 1950, Martin Luther King Jr. kêu gọi người da đen đứng lên đòi bình đẳng chủng tộc, kết quả là năm 1968, ông đã bị một kẻ phân biệt chủng tộc căm ghét người da đen ám sát tại Memphis.
Bản thân người da đen cũng thực sự không có chí tiến thủ. Bao nhiêu năm qua, phần lớn cộng đồng vẫn luẩn quẩn trong trạng thái sống buông thả, cẩu thả, hỗn loạn. Nghiện ma túy, nghiện rượu, quan hệ tình dục bừa bãi cũng là tình trạng thường thấy của nhiều người da đen ở Mỹ.
Một năm trước khi Tiến sĩ King qua đời, xung đột trắng-đen đã rất nghiêm trọng. Ngày 23 tháng 7 năm 1967, cảnh sát đã đột kích một quán bar không có giấy phép trên đường 12, xảy ra xung đột với những người da đen say rượu. Những người da đen cho rằng cảnh sát cố tình gây sự và đã đánh nhau với cảnh sát ngay tại chỗ.
Sự việc nhanh chóng biến thành một cuộc bạo loạn lớn. Người da đen đã đập phá, cướp bóc, đốt phá khắp thành phố, khiến 43 người chết, hơn 1.000 người bị thương, hàng nghìn phụ nữ da trắng bị hãm hiếp và hơn 2.000 tòa nhà bị phá hủy.
Thống đốc đã huy động 7.000 Vệ binh Quốc gia, Tổng thống cũng ra lệnh cho Sư đoàn Dù 82 đến trấn áp, đưa xe tăng ra đường phố Detroit, bắt giữ 7.200 người mới dập tắt được cuộc bạo loạn.
Với tính cách tự trị địa phương của Mỹ, lần này họ lại cho phép quân đội liên bang đến dẹp loạn, cho thấy tình hình nghiêm trọng đến mức nào.
Sau đó, người da trắng lũ lượt rời khỏi Detroit, dân số giảm xuống còn 700.000 người như hiện nay, và người da đen chiếm 81% dân số thành phố.
Người da đen đã thử tự quản lý thành phố của người da đen, nhưng hiệu quả không mấy khả quan.
Bắt đầu từ năm 1973, thông qua bỏ phiếu dân chủ, thị trưởng và các nghị viên của Detroit đều do người da đen nắm giữ. Sau khi lên nắm quyền, họ đầu tiên đã thay đổi tỷ lệ người da đen trong lực lượng cảnh sát từ 20% lên 85%, sau đó áp thuế nặng đối với người da trắng và người Hoa, và trợ cấp lớn cho người da đen. Người da trắng chạy đi nhanh hơn, người da đen tập trung lại đông hơn.
Cộng với việc ngành công nghiệp ô tô Mỹ thất bại trong cuộc cạnh tranh với ô tô Nhật Bản, ngành công nghiệp Detroit bị phá hủy, khiến Detroit phải tuyên bố phá sản vào năm 2013. Trong cuộc bầu cử thị trưởng năm 2017, trong số 8 ứng cử viên, một nửa là những kẻ từng phạm tội nặng, từng buôn bán ma túy, giết người.
Detroit chính là một hình ảnh thu nhỏ của việc Mỹ không thể hòa hợp chủng tộc, người da đen khó có thể tự trị, và công nghiệp ồ ạt rời đi. Nó tập hợp rất nhiều năng lượng tiêu cực của Mỹ, tạo nên một thành phố bị hủy diệt.
Đến ngày nay, một bộ phận rất nhỏ người da đen chơi NBA, hát rap và sống khá tốt. Nhưng đại đa số người da đen, về bản chất không khác nhiều so với tổ tiên của họ ở thế kỷ 17. Họ chỉ có thể làm những công việc chân tay như công nhân sửa đường, công nhân vệ sinh, nhân viên phục vụ, tài xế xe tải. Chỉ là năng suất lao động đã tăng lên, họ không cần phải làm nô lệ trên đồng ruộng nữa. Trong đó vừa có nguyên nhân từ sự áp bức của người da trắng, vừa có nguyên nhân từ sự thiếu nỗ lực của chính họ.
Hiện nay, người da đen chiếm khoảng 13-14% dân số Mỹ, nhưng lại chiếm 50% số tù nhân. 75% người da đen trưởng thành lớn lên trong gia đình đơn thân, một phần ba người da đen hoặc đang ở trong tù, hoặc đang trong thời gian quản chế.
Chúng ta thường thấy cảnh sát Mỹ chặn người da đen trên đường, nói không hợp là rút súng, một khi nổ súng là bắn hết cả băng đạn.
Đó là bởi vì Mỹ sẽ không bao giờ giải quyết được vấn đề súng đạn, cũng sẽ không bao giờ giải quyết được vấn đề tỷ lệ tội phạm của người da đen. Khi vấn đề súng đạn và vấn đề người da đen trùng lặp, nó sẽ hình thành nên việc thực thi pháp luật với áp lực cao, và sẽ liên tục xuất hiện những tin tức về việc cảnh sát bắn nghi phạm da đen như tổ ong.
07
Khi bạn đọc đến đây, bạn đã đọc được hơn 10.000 từ, tôi biết bây giờ bạn đã hơi mệt.
Nhưng hãy đợi một chút, cuối cùng tôi muốn nói về một đặc điểm lớn nhất của Mỹ: Mỹ là một quốc gia không ngừng "chắp vá" (vá lỗi).
Khái niệm "chắp vá" này là một từ tôi đã nhắc đi nhắc lại trong các bài viết trước đây về Mỹ.
Năm 1607, tổ tiên của người Mỹ đến Jamestown, bắt đầu thiết lập các cứ điểm ven biển. Sau đó, các cứ điểm lan rộng như những hạt đậu dọc theo bờ biển phía đông, dần dần có các làng, thị trấn, thành phố, và các thành phố lại dần dần trở thành các bang.
Vì là người mới, sân chơi mới, mọi người khi khởi nghiệp đều bình đẳng, nên không ai phục ai, mọi việc đều được giải quyết thông qua thương lượng.
Sau này, người Anh thấy Bắc Mỹ phát triển, lại thiếu tiền, muốn thu thêm thuế. Những người thuộc địa ở Bắc Mỹ liền nổi giận, không muốn nộp. Với sự giúp đỡ của Pháp, họ đã đánh đuổi cấp trên của mình.
Lần này, họ càng không muốn có ai quản lý mình, không muốn có một chính phủ trung ương đến thu thuế của họ. Nhưng một số việc vẫn cần có một trung ương đứng ra giải quyết, nên họ đã thành lập một liên minh (confederation).
Sau đó, vận may bùng nổ, lục địa Á-Âu hỗn loạn, không ai quan tâm đến họ nữa, lãnh thổ của họ tự nhiên ngày càng lớn, người nhập cư cũng ngày càng nhiều.
Người Mỹ liền thực hiện cuộc khai phá miền Tây vĩ đại, lặp lại kịch bản của miền Đông, trước tiên xây dựng làng, thị trấn, rồi đến thành phố, rồi đến bang ở miền Tây.
Vì lại là người mới, sân chơi mới, mọi người khi khởi nghiệp đều bình đẳng, không ai phục ai, mọi việc đều được giải quyết thông qua thương lượng.
Có chính quyền bang cũng được, có chính phủ liên bang cũng được, nhưng trước tiên phải đảm bảo không động đến tài sản tư nhân của tôi, nếu không thì chúng ta đừng lập bang và liên bang nữa.
Vẫn là câu nói đó, làm phép cộng thì được, làm phép trừ thì không.
Khi tôi liều mạng ở miền Tây, anh cũng chẳng hề quan tâm. Chỉ cần anh có thể đảm bảo tôi sở hữu mảnh đất tôi đã khai phá, cho phép tôi mang súng để bảo vệ tài sản tư nhân của mình, sống chết của tôi anh cũng không cần quan tâm nhiều, dù sao thì quyền lực tôi đồng ý giao cho bang và liên bang cũng không nhiều.
Vì vậy, Covid đã giết chết 1 triệu người dân, thì tôi cũng đành chấp nhận số phận, tôi chưa bao giờ trông mong trung ương có thể làm được gì, tôi cũng không tìm các anh để quy trách nhiệm.
Logic cơ bản của Mỹ chính là như vậy: súng đạn, tự trị, liên bang, tất cả đều được xây dựng trên nền tảng bảo vệ tài sản tư nhân của họ.
Vì những thứ cốt lõi không thể động đến, nên họ chỉ có thể "chắp vá" hệ thống xã hội.
Đầu tiên có thị trấn, chúng ta có cảnh sát thị trấn; trong thị trấn có trường học, để bảo vệ học sinh, liền trao quyền thực thi pháp luật cho cảnh sát trường học. Sau này, bên ngoài thị trấn ngày càng có nhiều người, không ai quản lý, liền thêm một chức danh cảnh sát trưởng (sheriff) vào hệ thống cảnh sát. Bên ngoài thị trấn có một con kênh chảy qua, vậy chúng ta lại lập lực lượng vũ trang kênh đào. Đột nhiên bên ngoài thị trấn lại có thêm một con đường cao tốc, thế là có cảnh sát tuần tra cao tốc. Các thành phố ngày càng nhiều, giữa mỗi thành phố có rất nhiều khoảng trống, vậy thì lập một bang, rồi lại có cảnh sát bang.
Quyền lực ở cơ sở được mở rộng vô hạn, hết lớp vá này đến lớp vá khác.
Tại sao không trực tiếp tạo ra một hệ thống cảnh sát thống nhất trên toàn quốc, có cần phải phức tạp như vậy không?
Không được, chúng ta phải tự trị địa phương, trung ương không thể quản lý bang, bang không thể quản lý thị trấn của chúng tôi. Thị trấn này có đất của nhà chúng tôi, mảnh đất này là do ông cố của ông cố tôi cầm súng liều mạng đổi lấy, các người đừng hòng động đến!
Sự tự trị của Mỹ không chỉ thể hiện ở chính quyền địa phương mà còn ở sự tự trị của các nhóm người khác nhau.
Mặc dù tầng lớp dưới rất yếu kém, nhưng sự tự trị của tầng lớp tinh hoa lại làm rất tốt. Sự tự trị này đã giúp Mỹ giải phóng tối đa tiềm năng trong khoa học công nghệ và hoạt động thương mại. Vì vậy, trong những năm qua, Mỹ vẫn có thể lên mặt trăng, chế tạo tàu sân bay, và dẫn đầu cuộc cách mạng internet.
Mỹ là một quốc gia có giới hạn trên cực cao và giới hạn dưới cực thấp. Nguồn gốc của những điều này nằm ở quyền tự trị địa phương và tự trị của các nhóm người.
Sự khác biệt cốt lõi giữa Trung Quốc và Mỹ là gì?
Trung Quốc là nhượng lại một phần quyền lực cá nhân để trung ương chịu trách nhiệm điều phối. Trung ương phải đảm bảo an toàn cá nhân, nếu trung ương không bảo vệ được, người dân sẽ oán hận ngút trời.
Mỹ là tuyệt đối không nhượng bộ quyền lực cá nhân, nhưng nếu có chuyện gì xảy ra, ví dụ như Covid, thì sống chết có số, giàu sang do trời, chết bao nhiêu người tôi cũng không tìm anh tính sổ, nhưng anh tuyệt đối không được động đến tài sản tư nhân mà tổ tiên tôi đã gầy dựng.
08
Bài viết hôm nay đã điểm lại lịch sử phát triển từ đông sang tây của Mỹ.
Mỹ bắt đầu từ Jamestown, từng bước tiến về phía tây, đến đường thác nước, dãy Appalachian, Kênh đào Erie, Ngũ Đại Hồ, sông Mississippi, và cuối cùng đến tận Los Angeles, hình thành nên nước Mỹ ngày nay.
Nhiều việc làm có vẻ như tâm thần phân liệt của Mỹ ngày nay đều là những logic xã hội bất di bất dịch được hình thành trong quá trình phát triển của đất nước.
Nó hơi giống như "tổ chế" của mỗi triều đại phong kiến Trung Quốc, một khi đã hình thành thì không thể thay đổi.
Bốn trăm năm của nước Mỹ, thực ra phần lớn thời gian nó là một quốc gia nông nghiệp với chế độ nông nô. Sự phất lên của nó đến quá đột ngột, quá mạnh mẽ, khiến đất nước không có đủ thời gian để tiêu hóa, không san bằng được những mâu thuẫn xã hội.
Mâu thuẫn chủng tộc, vấn đề súng đạn, phân hóa giàu nghèo, hệ thống cảnh sát, v.v., tất cả đều là một thể thống nhất, không thể tách riêng bất kỳ vấn đề nào ra để xem xét, nếu không sẽ chỉ thấy điểm mà không thấy diện, thấy cành mà không thấy cây.
Chỉ khi hiểu được quá trình phát triển của Mỹ, chúng ta mới có thể nhìn thấy toàn bộ bức tranh về các vấn đề xã hội của Mỹ, bạn mới hiểu tại sao Mỹ xảy ra nhiều vụ xả súng như vậy mà tuyệt đối không thể cấm súng, tại sao người da đen ở Mỹ luôn gây ra những chuyện lớn nhưng không bao giờ giải quyết được.
Trừ khi san bằng nước Mỹ và xây dựng lại từ đầu, nếu không những vấn đề này không thể giải quyết được.
Tôi có một quan điểm, Mỹ đang ở trong vòng đời đầu tiên của họ. Trước khi vòng đời này kết thúc, mọi thứ hiện có của Mỹ đều không thể thay đổi.
Các quốc gia như Trung Quốc, Pháp, Anh, Nga, Nhật Bản, thực ra đã trải qua nhiều vòng đời, đất nước đã được tái thiết nhiều lần. Chỉ có Mỹ vẫn đang ở trong vòng đời đầu tiên, vẫn chưa đi hết.
Việc Mỹ tuyệt đối không cấm súng chỉ là một nhánh trong vòng đời đầu tiên đó.
Dù có thêm bao nhiêu vụ xả súng, bao nhiêu máu đổ thành sông, đây là quốc bản hiện tại của Mỹ, là cái giá cho sự phát triển của Mỹ. Đây là một sự thật mà không ai có thể thay đổi trước khi vòng đời đầu tiên kết thúc./.