- Biển số
- OF-70267
- Ngày cấp bằng
- 9/8/10
- Số km
- 101
- Động cơ
- 928,790 Mã lực
- Nơi ở
- Kim Liên
- Website
- www.maikha.vn
Có huân chương kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ mà chưa thấy có huân chương kháng chiến chống Tàu nhỉ cccm
Theo e thì Việt Nam đã trải qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, kéo dài từ năm 1945 đến năm 1975. Hai cuộc kháng chiến này đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử dân tộc và được ghi nhận thông qua các huân chương, danh hiệu vinh dự như Huân chương Kháng chiến chống Pháp và Huân chương Kháng chiến chống Mỹ.Có huân chương kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ mà chưa thấy có huân chương kháng chiến chống Tàu nhỉ cccm
Ko đúng rồi . Quan hệ với TQ nên chia làm 2 thời kỳ . Thời kỳ đầu 2 bên coi nhau là kẻ thù ( quá khứ) . Thời hiện tại thì quan hệ 2 bên là quan hệ láng giềng hữu nghị .Theo e thì Việt Nam đã trải qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, kéo dài từ năm 1945 đến năm 1975. Hai cuộc kháng chiến này đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử dân tộc và được ghi nhận thông qua các huân chương, danh hiệu vinh dự như Huân chương Kháng chiến chống Pháp và Huân chương Kháng chiến chống Mỹ.
Tuy nhiên, QH với Trung Quốc là một mối quan hệ phức tạp, vừa có hợp tác vừa có xung đột. Trong lịch sử, hai nước đã nhiều lần xảy ra chiến tranh, gần đây là 1979 và các xung đột biên giới sau đó. Tuy nhiên, quan hệ giữa hai nước cũng có nhiều giai đoạn hợp tác, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế và chính trị. Mình luôn đề cao chính sách ngoại giao hòa bình, ổn định và hợp tác với các nước láng giềng, trong đó có Trung Quốc nên ko có huân chương chống Tàu.
PS : Nội dung trả lời của e có tham khảo từ Deepseek.
Bài báo này viết hay các cụ này. Kết cục là VN cũng nhận được 3 bài học từ cuộc chiến tranh biên giới 1979 .Bài này đăng từ hồi 2019 nhưng em thấy rất đúng và rất trúng:
![]()
Biên giới phía bắc năm 1979: Bài học nằm lòng
<p><img class='logo-small' title='' src='https://vnn-imgs-f.vgcloud.vn/logo/tuanvietnam.gif' alt='' /> 40 năm đã trôi qua, song những bài học rút ra từ cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của Tổ quốc tháng 2/1979 vẫn vô cùng quý giá, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay.</p> <p> </p>vietnamnet.vn
Có lẽ bài học đầu tiên và lớn nhất có thể rút ra từ cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của tổ quốc tháng 2/1979 là không được phép đánh giá thấp nỗi lo sợ của một cường quốc. Các cường quốc vẫn có những mối lo ngại về an ninh và một khi lo sợ, rất có thể họ sẽ chủ động dùng vũ lực để trấn an bản thân.
Ở thời điểm Trung Quốc tấn công bành trướng chúng ta, tuy không mạnh như Mỹ hay Liên Xô nhưng nước này vẫn có thể được coi là một nước lớn ở khu vực Châu Á. Hơn nữa, Trung Quốc khi đó đã phát triển thành công vũ khí hạt nhân, đồng nghĩa với việc họ có thể răn đe mọi đối thủ có ý định tấn công lãnh thổ của mình.
Với lãnh thổ rộng lớn, Trung Quốc gần như là một “pháo đài bất khả xâm phạm” trước kẻ địch. Vì vậy trên lý thuyết, Trung Quốc có ít lý do để lo sợ trước Liên Xô, bất chấp căng thẳng giữa hai nước.
Thế nhưng từ góc nhìn của các nhà lãnh đạo Bắc Kinh khi đó thì mọi chuyện hoàn toàn khác. Điều duy nhất họ thấy là Liên Xô đang tìm cách vây hãm mình từ tứ phía và Việt Nam sẽ là cái chốt cuối cùng giúp Liên Xô hoàn thành “vòng kim cô” siết chặt Trung Quốc.
Lịch sử cho thấy người Trung Quốc đã không ít lần phải đối mặt với kẻ địch hùng mạnh nhưng không bị khuất phục. Dưới triều đại nhà Thanh, Trung Quốc thậm chí còn bị các cường quốc phương Tây đô hộ và chia năm xẻ bảy song dân tộc này vẫn tìm được lối thoát.
Ngày 17/2 đúng 40 năm trước, Trung Quốc đã tràn quân sang tấn công Việt Nam.
Nhưng đối với những nhà lãnh đạo Trung Quốc, bản thân việc bị bao vây chiến lược như vậy đã là một mối đe doạ an ninh nghiêm trọng. Đó là một mối lo sợ vô hình, vốn chỉ tồn tại trong tâm trí các nhà lãnh đạo Trung Quốc.
Cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của Tổ quốc tháng 2/1979 cho thấy Trung Quốc không chỉ dùng đến vũ lực khi họ muốn bành trướng lãnh thổ, mà họ còn phát động vũ lực để trấn an bản thân trước các mối đe doạ. Có ý kiến hiện nay cho rằng Trung Quốc nhiều khả năng sẽ không sử dụng vũ lực để giải quyết tranh chấp Biển Đông bởi dùng vũ lực để chiếm đảo vô cùng rủi ro mà lại có thể “lợi bất cập hại”.
Điều này tuy có thể đúng nhưng rút kinh nghiệm từ quá khứ, để duy trì được hoà bình, Việt Nam cần tính đến cả trường hợp Trung Quốc tiến hành xung đột vũ trang chớp nhoáng ở quy mô hạn chế để “dạy các nước khác một bài học” hay giành lợi thế trên bàn đàm phán ở các thời điểm nhạy cảm.
Bài học thứ hai rất đơn giản: một nước nhỏ như Việt Nam cần làm mọi cách để không bị coi là quân cờ trên bàn cờ nước lớn.
Năm 1965, quân đội Mỹ vượt Thái Bình Dương để đến Việt Nam với niềm tin rằng Việt Nam chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Liên Xô và Trung Quốc. Dưới ảnh hưởng của “học thuyết domino”, người Mỹ cho rằng Việt Nam là đạo quân tiên phong của khối xã hội chủ nghĩa và rằng nếu không đánh chặn chủ nghĩa cs ở Việt Nam, toàn bộ Đông Nam Á sẽ ngả theo Liên Xô.
Trong khi, thực chất Việt Nam là một nước độc lập và chúng ta nhận viện trợ từ các nước xã hội chủ nghĩa đơn thuần để phục vụ mục tiêu thống nhất đất nước chứ không phải để giúp cho Liên Xô giành lợi thế trong Chiến tranh Lạnh ở Châu Á.
Năm 1979, Trung Quốc sử dụng vũ lực bành trướng sang biên giới chúng ta cũng vì họ nghĩ rằng Việt Nam đưa quân sang Campuchia để lật đổ chế độ Khơ Me đỏ diệt chủng chỉ để giúp Liên Xô kiểm soát Đông Dương. Trong khi thực chất đây hoàn toàn là hành động tự vệ chứ không nhằm bao vây họ.
Hết lần này đến lần khác, chúng ta đều chịu thiệt bởi các nước không nhận ra rằng người Việt Nam chiến đấu vì lợi ích của dân tộc Việt Nam chứ không phải bất kỳ thế lực nào khác.
Nhìn vào vấn đề Biển Đông hiện nay, Việt Nam có lợi ích trong việc thắt chặt quan hệ quốc phòng với Mỹ và tất cả các nước muốn duy trì hoà bình cũng như tự do hàng hải trong khu vực. Nhưng cần tránh để bị hiểu lầm rằng Việt Nam đang ngầm phối hợp với nước này để kiềm chế nước kia. Để làm được điều này, chúng ta cần những sự hợp tác thực chất nhưng không khoa trương và đặc biệt tránh những tuyên bố dễ gây hiểu lầm về lập trường đối ngoại – quốc phòng của ta.
Cuối cùng, cách Trung Quốc chuẩn bị cho cuộc bành trướng biên giới cho thấy họ tuy sẵn sàng sử dụng vũ lực nhưng vẫn hết sức cẩn trọng. Trước khi đưa quân sang Việt Nam, lãnh đạo cao cấp của Trung Quốc đã đích thân sang Mỹ, Nhật Bản và các nước láng giềng chủ chốt để vận động ngoại giao và cô lập Việt Nam. Bắc Kinh đã chuẩn bị hết sức kĩ lưỡng cho cuộc chiến này và họ chỉ tấn công chúng ta khi đã chắc rằng cộng đồng quốc tế sẽ không lên án hay phản ứng một cách mạnh mẽ. Nói cách khác, việc cô lập chúng ta về mặt ngoại giao có thể xem như một trong những điều kiện cần để họ phát động cuộc bành trướng vào năm 1979.
Người Trung Quốc đặc biệt quan tâm tới dư luận quốc tế nên có lý do để tin rằng ngày nào Việt Nam còn được sự ủng hộ ngoại giao của cộng đồng quốc tế, đặc biệt là Mỹ và các nước phương Tây, ngày đó Trung Quốc còn động lực để hành xử kiềm chế. Để tránh rơi vào tình trạng cô lập, Việt Nam cần chứng minh rằng mình là một thành viên tích cực của cộng động quốc tế trong nhiều vấn đề dù không trực tiếp ảnh hưởng tới lợi ích của ta, đồng thời hành xử kiềm chế trong các cuộc khủng hoảng như sự kiện giàn khoan HD-981 năm 2014.
Những bài học trên có thể giúp Việt Nam tránh một cuộc đụng độ với Trung Quốc trong tương lai nhưng nó không thể giúp ta có được một môi trường thực sự hoà bình. Một dạng “hoà bình nóng” vốn chưa bao giờ là một trạng thái ổn định. Là nước nhỏ cạnh một nước lớn, chìa khoá để chúng ta có thể đảm bảo an ninh về lâu dài vẫn là quan hệ hữu hảo với láng giềng phương Bắc. Điều này chỉ đạt được khi hai bên có thể cùng nhau xây dựng lòng tin chiến lược, trước hết qua việc dám nhìn thẳng vào lịch sử, chấp nhận quá khứ nhưng bàn về tương lai.

Mình có các sư đoàn chủ lực của quân khu 1, quân khu 2 và các trung đoàn độc lập, bộ đội biên phòng (ngày đó gọi là công an vũ trang)Nghe các Cụ hiểu trí là cựu quân nhân nói . Năm 1979 bộ đội chủ lực đang đánh ở chiến trường miền nam nên. Tham chiến ở biên giới phía Bắc toàn dân quân tự vệ .. các lực lượng ko chính quy . Nếu đúng vậy thì Lãnh đạo bộ quốc phòng thời đó đúng Thiện chiến .
Vậy là quân chủ lực mình có tham chiến ở biên giới phía Bắc năm 1979hả Cụ . Có nguồn chính thống ko CụMình có các sư đoàn chủ lực của quân khu 1, quân khu 2 và các trung đoàn độc lập, bộ đội biên phòng (ngày đó gọi là công an vũ trang)
Sư đoàn chủ lực cơ động của bộ thì có sư đoàn 3 sao vàng ở Lạng Sơn, sau điều thêm các sư đoàn ở QK 3 và 4 lên và Quân đoàn 2 và quân đoàn 3 từ Cam ra Bắc
Về phía ta, khi ấy đương đầu với quân xâm lược hùng hậu trong những ngày đầu chỉ là các LLVT tại chỗ; lực lượng công an vũ trang (bộ đội biên phòng), cảnh sát và đông đảo dân quân, tự vệ ở khắp các làng, bản, huyện, thị, nông, lâm trường và nhà máy, xí nghiệp... được tổ chức ở quy mô từ cấp trung đội đến cấp trung đoàn. Tuy vậy, so về tương quan lực lượng chiến đấu, quân số của Trung Quốc gấp ta gần 10 lần. Vào thời điểm đó, lực lượng tinh nhuệ nhất của ta đứng chân trên khu vực biên giới Việt - Trung là Sư đoàn 3 đóng ở Lạng Sơn và Sư đoàn 316A đóng tại Sa Pa (Hoàng Liên Sơn). Ngoài ra còn có các Sư đoàn 346 ở Cao Bằng, 325B ở Quảng Ninh, 345 ở Lào Cai, 326 ở Phong Thổ (Lai Châu). Ta còn có các Trung đoàn 141, 147, 148, 197, Trung đoàn pháo binh 68; các Trung đoàn địa phương 95, 211, 192, 254 và 741.Vậy là quân chủ lực mình có tham chiến ở biên giới phía Bắc năm 1979hả Cụ . Có nguồn chính thống ko Cụ
Bài này cũng hay cụ:Bài này đăng từ hồi 2019 nhưng em thấy rất đúng và rất trúng:
![]()
Biên giới phía bắc năm 1979: Bài học nằm lòng
<p><img class='logo-small' title='' src='https://vnn-imgs-f.vgcloud.vn/logo/tuanvietnam.gif' alt='' /> 40 năm đã trôi qua, song những bài học rút ra từ cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của Tổ quốc tháng 2/1979 vẫn vô cùng quý giá, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay.</p> <p> </p>vietnamnet.vn
Có lẽ bài học đầu tiên và lớn nhất có thể rút ra từ cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của tổ quốc tháng 2/1979 là không được phép đánh giá thấp nỗi lo sợ của một cường quốc. Các cường quốc vẫn có những mối lo ngại về an ninh và một khi lo sợ, rất có thể họ sẽ chủ động dùng vũ lực để trấn an bản thân.
Ở thời điểm Trung Quốc tấn công bành trướng chúng ta, tuy không mạnh như Mỹ hay Liên Xô nhưng nước này vẫn có thể được coi là một nước lớn ở khu vực Châu Á. Hơn nữa, Trung Quốc khi đó đã phát triển thành công vũ khí hạt nhân, đồng nghĩa với việc họ có thể răn đe mọi đối thủ có ý định tấn công lãnh thổ của mình.
Với lãnh thổ rộng lớn, Trung Quốc gần như là một “pháo đài bất khả xâm phạm” trước kẻ địch. Vì vậy trên lý thuyết, Trung Quốc có ít lý do để lo sợ trước Liên Xô, bất chấp căng thẳng giữa hai nước.
Thế nhưng từ góc nhìn của các nhà lãnh đạo Bắc Kinh khi đó thì mọi chuyện hoàn toàn khác. Điều duy nhất họ thấy là Liên Xô đang tìm cách vây hãm mình từ tứ phía và Việt Nam sẽ là cái chốt cuối cùng giúp Liên Xô hoàn thành “vòng kim cô” siết chặt Trung Quốc.
Lịch sử cho thấy người Trung Quốc đã không ít lần phải đối mặt với kẻ địch hùng mạnh nhưng không bị khuất phục. Dưới triều đại nhà Thanh, Trung Quốc thậm chí còn bị các cường quốc phương Tây đô hộ và chia năm xẻ bảy song dân tộc này vẫn tìm được lối thoát.
Ngày 17/2 đúng 40 năm trước, Trung Quốc đã tràn quân sang tấn công Việt Nam.
Nhưng đối với những nhà lãnh đạo Trung Quốc, bản thân việc bị bao vây chiến lược như vậy đã là một mối đe doạ an ninh nghiêm trọng. Đó là một mối lo sợ vô hình, vốn chỉ tồn tại trong tâm trí các nhà lãnh đạo Trung Quốc.
Cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của Tổ quốc tháng 2/1979 cho thấy Trung Quốc không chỉ dùng đến vũ lực khi họ muốn bành trướng lãnh thổ, mà họ còn phát động vũ lực để trấn an bản thân trước các mối đe doạ. Có ý kiến hiện nay cho rằng Trung Quốc nhiều khả năng sẽ không sử dụng vũ lực để giải quyết tranh chấp Biển Đông bởi dùng vũ lực để chiếm đảo vô cùng rủi ro mà lại có thể “lợi bất cập hại”.
Điều này tuy có thể đúng nhưng rút kinh nghiệm từ quá khứ, để duy trì được hoà bình, Việt Nam cần tính đến cả trường hợp Trung Quốc tiến hành xung đột vũ trang chớp nhoáng ở quy mô hạn chế để “dạy các nước khác một bài học” hay giành lợi thế trên bàn đàm phán ở các thời điểm nhạy cảm.
Bài học thứ hai rất đơn giản: một nước nhỏ như Việt Nam cần làm mọi cách để không bị coi là quân cờ trên bàn cờ nước lớn.
Năm 1965, quân đội Mỹ vượt Thái Bình Dương để đến Việt Nam với niềm tin rằng Việt Nam chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Liên Xô và Trung Quốc. Dưới ảnh hưởng của “học thuyết domino”, người Mỹ cho rằng Việt Nam là đạo quân tiên phong của khối xã hội chủ nghĩa và rằng nếu không đánh chặn chủ nghĩa cs ở Việt Nam, toàn bộ Đông Nam Á sẽ ngả theo Liên Xô.
Trong khi, thực chất Việt Nam là một nước độc lập và chúng ta nhận viện trợ từ các nước xã hội chủ nghĩa đơn thuần để phục vụ mục tiêu thống nhất đất nước chứ không phải để giúp cho Liên Xô giành lợi thế trong Chiến tranh Lạnh ở Châu Á.
Năm 1979, Trung Quốc sử dụng vũ lực bành trướng sang biên giới chúng ta cũng vì họ nghĩ rằng Việt Nam đưa quân sang Campuchia để lật đổ chế độ Khơ Me đỏ diệt chủng chỉ để giúp Liên Xô kiểm soát Đông Dương. Trong khi thực chất đây hoàn toàn là hành động tự vệ chứ không nhằm bao vây họ.
Hết lần này đến lần khác, chúng ta đều chịu thiệt bởi các nước không nhận ra rằng người Việt Nam chiến đấu vì lợi ích của dân tộc Việt Nam chứ không phải bất kỳ thế lực nào khác.
Nhìn vào vấn đề Biển Đông hiện nay, Việt Nam có lợi ích trong việc thắt chặt quan hệ quốc phòng với Mỹ và tất cả các nước muốn duy trì hoà bình cũng như tự do hàng hải trong khu vực. Nhưng cần tránh để bị hiểu lầm rằng Việt Nam đang ngầm phối hợp với nước này để kiềm chế nước kia. Để làm được điều này, chúng ta cần những sự hợp tác thực chất nhưng không khoa trương và đặc biệt tránh những tuyên bố dễ gây hiểu lầm về lập trường đối ngoại – quốc phòng của ta.
Cuối cùng, cách Trung Quốc chuẩn bị cho cuộc bành trướng biên giới cho thấy họ tuy sẵn sàng sử dụng vũ lực nhưng vẫn hết sức cẩn trọng. Trước khi đưa quân sang Việt Nam, lãnh đạo cao cấp của Trung Quốc đã đích thân sang Mỹ, Nhật Bản và các nước láng giềng chủ chốt để vận động ngoại giao và cô lập Việt Nam. Bắc Kinh đã chuẩn bị hết sức kĩ lưỡng cho cuộc chiến này và họ chỉ tấn công chúng ta khi đã chắc rằng cộng đồng quốc tế sẽ không lên án hay phản ứng một cách mạnh mẽ. Nói cách khác, việc cô lập chúng ta về mặt ngoại giao có thể xem như một trong những điều kiện cần để họ phát động cuộc bành trướng vào năm 1979.
Người Trung Quốc đặc biệt quan tâm tới dư luận quốc tế nên có lý do để tin rằng ngày nào Việt Nam còn được sự ủng hộ ngoại giao của cộng đồng quốc tế, đặc biệt là Mỹ và các nước phương Tây, ngày đó Trung Quốc còn động lực để hành xử kiềm chế. Để tránh rơi vào tình trạng cô lập, Việt Nam cần chứng minh rằng mình là một thành viên tích cực của cộng động quốc tế trong nhiều vấn đề dù không trực tiếp ảnh hưởng tới lợi ích của ta, đồng thời hành xử kiềm chế trong các cuộc khủng hoảng như sự kiện giàn khoan HD-981 năm 2014.
Những bài học trên có thể giúp Việt Nam tránh một cuộc đụng độ với Trung Quốc trong tương lai nhưng nó không thể giúp ta có được một môi trường thực sự hoà bình. Một dạng “hoà bình nóng” vốn chưa bao giờ là một trạng thái ổn định. Là nước nhỏ cạnh một nước lớn, chìa khoá để chúng ta có thể đảm bảo an ninh về lâu dài vẫn là quan hệ hữu hảo với láng giềng phương Bắc. Điều này chỉ đạt được khi hai bên có thể cùng nhau xây dựng lòng tin chiến lược, trước hết qua việc dám nhìn thẳng vào lịch sử, chấp nhận quá khứ nhưng bàn về tương lai.
Các sư đoàn của quân khu cũng là quân chủ lựcVậy là quân chủ lực mình có tham chiến ở biên giới phía Bắc năm 1979hả Cụ . Có nguồn chính thống ko Cụ
Những ngày đầu chiến tranh, với chiến dịch biển người làm cho quân ta bắn đỏ nòng súng... Từ hình ảnh đó cho thấy quân TQ thiệt mạng nhiều không kể xiết.Về phía ta, khi ấy đương đầu với quân xâm lược hùng hậu trong những ngày đầu chỉ là các LLVT tại chỗ; lực lượng công an vũ trang (bộ đội biên phòng), cảnh sát và đông đảo dân quân, tự vệ ở khắp các làng, bản, huyện, thị, nông, lâm trường và nhà máy, xí nghiệp... được tổ chức ở quy mô từ cấp trung đội đến cấp trung đoàn. Tuy vậy, so về tương quan lực lượng chiến đấu, quân số của Trung Quốc gấp ta gần 10 lần. Vào thời điểm đó, lực lượng tinh nhuệ nhất của ta đứng chân trên khu vực biên giới Việt - Trung là Sư đoàn 3 đóng ở Lạng Sơn và Sư đoàn 316A đóng tại Sa Pa (Hoàng Liên Sơn). Ngoài ra còn có các Sư đoàn 346 ở Cao Bằng, 325B ở Quảng Ninh, 345 ở Lào Cai, 326 ở Phong Thổ (Lai Châu). Ta còn có các Trung đoàn 141, 147, 148, 197, Trung đoàn pháo binh 68; các Trung đoàn địa phương 95, 211, 192, 254 và 741.
Sau khi Trung Quốc nổ súng tiến công, đến ngày 18 và 19/2, chúng ta lần lượt bổ sung 2 Sư đoàn 317 của Quân khu 3 gồm Trung đoàn bộ binh 42, 75, 540 và Trung đoàn pháo binh 120 từ Quảng Ninh lên tiếp viện Quân khu I và Sư đoàn 337 của Quân khu IV gồm Trung đoàn bộ binh 4, 52, 92 và Trung đoàn pháo binh 108 hành quân từ Nghệ An ra tiếp viện thẳng cho mặt trận Lạng Sơn... Những trận đánh oanh liệt của quân và dân Việt Nam diễn ra liên tục trong 30 ngày kể từ khi quân Trung Quốc đặt chân sang xâm lược đất nước ta.
Theo cuốn lịch sử Đảng bộ Quân sự tỉnh Hòa Bình (1947 - 2012), trong cuộc chiến này, thực hiện Lời kêu gọi của T.Ư, mệnh lệnh của Bộ Tư lệnh Quân khu cũng như đáp ứng yêu cầu cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc, tỉnh ta đã bàn giao Trung đoàn 541 cho Sư đoàn 326 Quân khu 2 tham gia chiến đấu tại Pa Tần (Lai Châu); giao Trung đoàn 169 cho tỉnh Cao Bằng; giao phần lớn CB, CS Trung đoàn 87 tăng cường cho hướng Tây Bắc với 6.780 người. Cùng với đó, tỉnh tuyển chọn 7.500 thanh niên nhập ngũ năm 1979, giao trực tiếp cho các Quân khu làm nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ biên giới.
![]()
Cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc 1979 - 1989: “Kẻ thù buộc ta ôm cây súng”
(HBĐT) -Những ngày này đúng 40 năm về trước, hơn 600.000 quân xâm lược Trung Quốc bất ngờ tấn công trên toàn tuyến biên giới phía Bắc nước ta. Quân xâm lược không ngờ được rằng, tuy bị bất ngờ nhưng cũng giống như 14 lần xua quân xâm chiếm nước Nam của các triều đại phong kiến phương Bắc trước...www.baohoabinh.com.vn
Ở đâu em không biết. Phía Lào cai sư đoàn 316 đánh trả bọn Tầu ngay từ sáng ngày 17-2-1979.Vậy là quân chủ lực mình có tham chiến ở biên giới phía Bắc năm 1979hả Cụ . Có nguồn chính thống ko Cụ
e nghe nói, thằng bạn tốt cũng viện trợ khá nhiều cho VN trong giải phóng miền nam VN. đúng là thằng bạn thâm độc khốn nạn nó muốn đánh mỹ bằng người VN ấy đâyBài này cũng hay cụ:
4. Như trên đã nói, TQ không bao giờ muốn VN được thống nhất? Do đó họ không ngừng "khuyên" ta không nên vội giải phóng miền Nam, mà coi đó là công việc lâu dài? nên tập trung xây dựng miền Bắc vững mạnh rồi tính sau?
Bởi thế, sau khi ta giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc thì họ tỏ ra rất tức giận, cho rằng ta đã làm trái với ý họ! Vì vậy họ đã kích động và ra sức giúp đỡ chính quyền Pônpot tiến hành gây hấn và xâm lược VN nhằm làm suy yếu VN một bước! Khi VN đưa quân trừng trị Pônpot thì họ lấy cớ VN xâm lược CPC, và họ đã đưa 60 vạn quân đánh ồ ạt trên toàn tuyến biên giói phía Bắc VN để "dạy cho VN một bài học" và để "trả thù" cho CPC ?? Đây chỉ là cái cớ, thực chất gây chiến tranh với VN là họ muốn làm suy yếu một nước VN thống nhất, đồng thời cũng muốn lấy lòng Mỹ, tranh thủ sự giúp đỡ về vốn và công nghệ của Mỹ để thực hiện giấc mơ "4 hiện đại hoá" Trung Quốc !
Việt- Trung !