Em thấy bài này viết khách quan và khá hay:
....Cho rằng “Ngài Minh Tuệ không chỉ thực hành Giới mà Ngài còn sống như chính Giới luật, bởi thầy MT đã thực hiện được trọn vẹn toàn bộ 13 Hạnh Đầu Đà” là một nhận định chủ quan, võ đoán, thiếu căn cứ.
Thứ nhất, theo quy định của Giới luật thì việc tự tu tập Hạnh Đầu Đà (tức không có người đi trước truyền pháp) đã là không đúng Pháp. Các Kinh Tạng về Hạnh Đầu Đà đều nhấn mạnh rằng:
• Chỉ Tỳ-kheo là người đã chính thức xuất gia được thọ giới đầy đủ mới có thể thực hành đầy đủ Hạnh Đầu Đà (Luật Tạng Vinaya Pitaka);
• Khẳng định vai trò và cấu trúc của Tăng đoàn như một cộng đồng tu hành chuyên nghiệp mới đảm bảo đủ điều kiện truyền giới và giữ giới cho những người tu theo Hạnh Đầu Đà (Kinh Trường Bộ (Dīgha Nikāya), Kinh Tạng Dhutanga Katha và Kinh Đại Bát Niết Bàn (Mahāparinibbāna Sutta).
• Cần lưu ý đến ý nghĩa của Hạnh thứ 3 về “Đi khất thực từng nhà” và Hạnh thứ 9 về “Ở nơi hoang vắng” là:
Hạnh “Đi khất thực từng nhà”, “đi” được hiểu là “di chuyển”, trong đó “khất thực” là mục đích, “đi” chỉ là phương tiện, nhằm mục đích “biểu hiện cho sự bình đẳng và từ bỏ tâm phân biệt, không chọn nhà giàu hay nghèo giúp người tu hành dẹp bỏ sự thiên vị và giữ tâm thanh tịnh”.
Như vậy trong Pháp môn 13 Hạnh Đầu Đà, không có bất kỳ nội dung nào quy định người xuất gia tu theo “pháp đi bộ” hoặc bắt buộc phải đi bộ, hoặc chỉ được đi bộ. Do đó có thể coi “đi bộ” là một pháp tu do Ngài Minh Tuệ tự phát minh, hoặc đơn giản, như ông đã nhiều lần giải thích là “đi bộ để rèn luyện thân thể và thử thách lòng kham nhẫn”. Từ đó thấy rằng việc kiên trì thực hành đi bộ của Ngài Minh Tuệ trong 6 năm qua, mặc dù rất đáng khâm phục, nhưng không thể coi là “để giữ giới” hoặc gọi đó là “Pháp” của 13 Hạnh Đầu Đà do Đức Phật chế định.
Hạnh “Ở nơi hoang vắng” không hàm ý về nơi ăn, chốn ngủ mà nhấn mạnh việc người tu Hạnh Đầu Đà cần sống và tu tập ở những nơi hoang vắng như rừng sâu, núi cao để tránh bị xã hội tác động làm sao nhãng tu tập, ảnh hưởng đến tập trung thiền định. Những người tu theo phương pháp khổ hạnh ở các tôn giáo khác như Kito giáo, Hindu giáo, Đạo giáo... đều ưu tiên dành thời gian cho việc thiền định, nhập thất và thường chọn sống ở những nơi dân cư vắng vẻ nhất. Ở các quốc gia Phật giáo như Srilanka, Mianma, Lào, Thái Lan rất ít khi thấy hình ảnh những đoàn tu sĩ khổ hạnh diễu hành hết ngày này qua ngày khác trước sự chứng kiến của công chúng, gây ồn ào, thường xuyên tiếp xúc với công chúng để nhận đảnh lễ.
Thứ hai, việc tuyên bố rằng “Thầy Minh Tuệ không cần phải cố gắng giữ giới bởi vì thầy Minh Tuệ chính là Giới luật sống, Giới luật chính là thầy Minh Tuệ, Minh Tuệ chính là Giới!” không phải là “tán thán” mà là một sự bốc đồng quá đà, lẽ ra không nên có.
Phát ngôn như vậy khác nào coi Ngài Minh Tuệ đã là bậc đại trí, đại giác ngộ, sánh ngang với Đấng Thế tôn. Đức Phật sau khi giác ngộ vẫn kiên trì giữ Giới cho đến ngày nhắm mắt để thân tâm luôn thanh tịnh và để làm gương cho mọi người. Có lẽ Ngài cũng chưa bao giờ dám tuyên bố “Giới luật chính là ta, ta chính là Giới!”
“Giữ Giới” là làm theo lời dạy được đúc kết từ cuộc đời tu tập của Đức Phật để tránh làm những điều vốn dĩ là bản năng tiêu cực vốn có trong con người, để tu hành đạt thành tựu. Đối với các bậc tu đạt đến mức thượng thừa thì việc giữ Giới có thể trở thành bản năng. Vậy thì “bản năng giữ giới” vẫn phải gọi là GIỮ chứ sao, nếu không thì gọi là gì? Tại sao lại dị ứng và thành kiến với tinh thần nghiêm túc giữ gìn, bảo vệ Giới đến như vậy nhỉ? Nên nhớ rằng càng muốn được “tự do như con nai trong rừng” như Ngài Minh Tuệ mong muốn thì càng phải giữ Giới. Đối với người tu hành thì Tự do thật sự là tự do trong Giới luật, Tự do chỉ đến sau khi Giới vững chãi như kim cương. Cái đó chỉ bậc giác ngộ mới làm được, không phải là một người mới đi tu.
Nên lưu ý Giới là dành cho người tu hành, để tự đánh giá về bản thân khi được chất vấn về việc giữ giới. Giới không phải là cái để người tu hành để đem ra so đo, đánh giá người khác khi được hỏi về việc giữ giới của bản thân. Do đó khi được hỏi về việc giữ 250 giới, mà lại đưa ra cách giải đáp bằng ngôi thứ ba “Ai chấp vào đó (giữ giới) thì không được gọi là giữ giới” dễ gây cảm nhận là người trả lời đang chống chế, thiếu trung thực. Do vậy, đây là điều không nên tuyên truyền và tán dương, làm cho mọi người càng lầm lạc trong thời buổi nhận thức nhiễu nhương như hiện nay.
Nói rằng “dù bạn có giữ 250 giới chứ 2.500 giới đi nữa mà nếu các bạn không diệt được tham, sân, si thì...” là lẫn lộn nhân quả. Người xuất gia sẽ “diệt tham, sân, si” bằng cách nào nếu không nghiêm cẩn kiên trì giữ Giới, bởi giữ Giới là con đường duy nhất chế ngự, mới diệt dược tham, sân, si. Việc lấy con số “2500 giới’ nào đó để so sánh với 250 Giới của Đạo Phật đã được gìn giữ suốt hai mươi lăm thế kỷ qua là cách so sánh tuỳ tiện, lộng ngôn, thậm chí là mạo phạm sự tôn nghiêm của Chánh pháp, đó thật sự là việc làm không đáng có đối với một nhà nghiên cứu.
Nếu quả thật “Giới luật chính là Minh Tuệ, Minh Tuệ chính là Giới” thì Ngài Minh Tuệ cần gì phải tu tập, làm gì phải đi bộ hết năm này qua năm khác? Ca tụng Ngài Minh Tuệ đến mức đó thì không những không phản ánh đúng đức hạnh khiêm cung của một người tu tập cần phải có, mà đã làm cho hình ảnh của Ngài Minh Tuệ trở nên rất khó coi trong con mắt những người hiểu biết, rất có hại cho con đường tu tập tiếp theo của ông.
Thứ ba, không riêng gì tiến sĩ thần học mà hiện nay đang xuất hiện trào lưu cổ xúy và tuyên truyền về “năng lực tâm linh huyền bí”, những “thành tựu tu tập đặc biệt” là những điều không có cơ sở để kiểm chứng của Ngài Minh Tuệ (ví dụ khả năng thần thông, hay khả năng tiếp xúc với cõi âm vốn là điều cấm kỵ trong Đạo Phật). Việc tán tụng này đã đẩy Ngài Minh Tuệ vào tình thế rất bất lợi. Có thể Ngài Minh Tuệ quả thực không biết dư luận tán tụng về mình như vậy, nhưng ngược lại nếu biết mà không cải chính thì sẽ phạm Giới cấm thuộc nhóm 13 Giới Sanghadisesa – tức nhóm Giới “cấm nghiêm trọng”, đó là “Cấm Ngụy Thông dưới mọi hình thức về Giác Ngộ hoặc đã đạt được các trạng thái tâm linh đặc biệt”.
3. Không nên gán ghép quan điểm và mong muốn của mình để tăng sức thuyết phục
Thật sự khó hiểu khi tác giả thường thuyết giảng rằng “Thầy Minh Tuệ chỉ muốn nhắc nhở mọi người là ...”, “Ý thầy Minh Tuệ chỉ muốn nhắc nhở các bạn rằng...”
Không nên cố gắng thuyết phục mọi người phải theo chủ kiến của mình bằng cách áp đặt lời lẽ của mình cho người khác, không nên ném chữ vào… Ngài Minh Tuệ, vì làm như vậy không phải là đề cao mà là thất kính đối với Ngài Minh Tuệ.
4. Có nên so sánh Ngài Minh Tuệ với một tài xế giỏi “không bao giờ phải đọc luật giao thông, bởi vì việc tuân thủ luật giao thông đã trở thành bản năng”?
Ai cũng biết rằng Luật Đạo khó thực hiện hơn “Luật phàm” rất nhiều, nếu dễ thì ai cũng có thể thành Phật. Dẫu vậy “luật phàm” dù dễ nhưng không tùy tiện và ở đâu cũng có những điểm khắt khe giống nhau, ở Hoa Kỳ cũng như Việt Nam, nếu ai đó tự học lái xe mà không qua sát hạch, không thuộc luật giao thông, không qua thi cử đàng hoàng thì đố lấy được bằng lái xe. Có bằng rồi, lái xe giỏi đến mấy mà chỉ một giây phút chủ quan không tuân thủ luật giao thông, như ở Việt Nam hiện nay chẳng hạn, thì không những bị phạt rất nặng mà nguy cơ còn bị rút bằng.
.........
Nguồn:
https://ngaynay.vn/thoi-ky-mat-phap-va-mot-cach-nhin-post157316.html