Tàu 'tia chớp' VN và chiến thuật bầy sói Biển Đông
 19.02.2013 10:36
             
	
	
		
		
	
	
            
  Hải quân Việt Nam đã được biên chế và đang đóng thêm tàu tên lửa cao tốc  Molniya trang bị mạnh, được mệnh danh là 'tia chớp', cực kỳ thích hợp  với 'chiến thuật bầy sói' khi tác chiến trên Biển Đông... Tàu hộ tống tên lửa hạng nhẹ mẫu thiết kế 1241, tên gọi (Molniya) theo phân loại của NATO tàu có tên là tàu hộ tống lớp Tarantul (Tarantul class  corvettes) – thiết kế các lớp tàu hộ tống mang tên lửa – khinh hạm tên  lửa, các tàu hộ tống hạng nhẹ này được đóng trong các xưởng đóng tàu của  Liên bang Xô viết vào những năm 1979–1996 và được biên chế vào Lực  lượng hải quân Xô viết.
Hải quân Việt  Nam đã biên chế một số tàu tên lửa cao tốc Molniya (tia chớp) và hiện  đang đóng thêm hàng loạt chiến hạm loại này theo giấy phép của Nga.  Molniya có tốc độ cao, trang bị mạnh, cực kỳ thích hợp với chiến thuật  bầy sói kiểu 'hit and run' tấn công nhanh, bất ngờ từ nhiều hướng khiến  đối thủ không kịp trở tay. Chiến thuật này rất hữu dụng với lực lượng  hải quân của quốc gia có bờ biển dài, nhiều đảo và cửa sông dễ ẩn nấp,  thuận lợi cho việc phục kích ra đòn bất ngờ khiến đối thủ dù mạnh đến  đâu cũng phải khiếp sợ...
Đến năm  2011, các tàu hộ tống tên lửa này vẫn tiếp tục phục vụ trong lực lượng  hải quân của Liên bang Nga hiện nay. Lớp tàu Molniya có nhiều loại tàu,  với những đặc điểm khác biệt là vũ khí trang bị trên boong tàu và loại  động cơ trạm nguồn. Tàu hộ tống tên lửa thiết kế 1241 được biên chế  chính thức trong lực lượng hải quân và hạm đội Xô viết, đồng thời được  xuất khẩu sang các nước khác và được biên chế trong các hạm đội nước  ngoài. Trong lực lượng hải quân Xô viết, tàu hộ tống tên lửa 1241 được  sử dụng trong tất cả các hạm đội (Hạm đội Ban tích, Hạm đội Biển Đen,  ngoại trừ hạm đội Biển Bắc trong những năm 1980) và phục vụ trong lực  lượng phòng thủ bờ biển của Liên bang Xô viết.
	
	
		
		
	
	
		
			
		
		 
	 
Tàu Molnyia 1241RE.Từ những năm 1970 trong biên chế trang bị các nước khối quân sự NATO  được đưa vào sử dụng các chiến hạm mang tên lửa hạng nhẹ có trang bị  pháo hải quân 76mm ( "OTO Melara")và tên lửa chống tàu tầm gần, tầm  trung ("Exocet" sau đó là "Harpoon"), điều kiện tác chiến của các khinh  hạm tên lửa type 205, vốn được trang bị pháo hạng nhẹ và tên lửa tầm gần  trở nên rất xấu do không có khả năng tác chiến tương đương. Để tăng  cường năng lực tác chiến của các đơn vị tàu tên lửa hạng nhẹ và yểm trợ  hỏa lực cho các tàu hạng nhẹ lớp 205 và có thể tấn công tàu của đối  phương ngoài tầm hoạt động của các hệ thống radar trinh sát, nhà nước Xô  viết đã ra chỉ lệnh nghiên cứu phát triển các tàu hộ tống hạng nhẹ pháo  binh mang tên lửa thế hệ mới.
Thiết  kế tàu hộ tống tên lửa hạng nhẹ 1241P được bắt đầu vào năm 1969 tại  trung tâm nghiên cứu thiết kế tàu biển Almaz dưới sự lãnh đạo của kỹ sư  trưởng E.I.Yuknhin. Sau đó được thay thế bởi nhà thiết kế chính V.N.  Ustrinov. Người kiểm soát - đại diện của Hải quân là đại úy thuyền  trưởng cấp I YU.M.Osipov sau đó là đại úy hải quân cấp II V.I. Litovski.
Theo  yêu cầu kỹ chiến thuật cho các tàu hộ tống mang tên lửa của dự án 1241  được sử dụng để tiêu diệt các chiến hạm, tàu vận tải và các loại tàu  xuồng đổ bộ, tăng cường năng lực phòng không của các đơn vị binh chủng  hợp thành, bảo vệ các cụm tàu chiến, tàu phóng lôi, tàu tên lửa chống  lại các phương tiện tấn công đường không tầm thấp, chi viện hỏa lực bảo  vệ các lực lượng chống lại các phương tiện tấn công đường biển hạng nhẹ  của đối phương. Tàu hộ tống tên lửa chiến thuật lớp 1241 cần hiệp đồng  tác chiến với các tàu tên lửa hạng nhẹ lớp 205 và bảo vệ cho các tàu tên  lửa hạng nhẹ chống lại các khinh hạm của đối phương, có trang bị pháo  76 mm. Chính vì vậy tàu hộ tống lớp 1241 cần có tốc độ tương đương,  không thua tàu tên lửa lớp 205.
Theo  những yêu cầu chiến thuật đã nêu của Hải quân Liên xô, Trung tâm thiết  kế tàu chiến đã đưa ra hai mẫu thiết kế đầu tiên với lượng giãn nước  khoảng 500 tấn, với hệ thống tên lửa chống tàu bốn ống phóng Moskit.  Điểm trọng tâm của hai phiên bản tàu 1241 được các nhà thiết kế quan tâm  là hệ thống radar đa nhiệm có kích thước nhỏ gọn, có công suất lớn, đảm  bảo hỗ trợ cho tất cả các loại vũ khí bố trí trên tàu. Phương án 1 là  trang bị hệ thống radar "Gravel-M” đã vượt qua được những thử nghiệm đầu  tiên, phương án 2 là hệ thống radar "Monolith” đang trong quá trình  thiết kế chế tạo, cuối cùng các nhà thiết kế đã lựa chọn Monolit vì hệ  thống có đặc điểm khác hơn so với Gravel-M, có chế độ dẫn đường đạn tấn  công tầm xa và các kênh nhận thông tin chỉ thị mục tiêu từ hệ thống  "Uspec-U'. Tàu hộ tống tên lửa sẽ được trang bị hệ thống tên lửa phòng  không Osa – M, nhưng sau này, để đảm bảo độ ổn định, lượng giãn nước  tiêu chuẩn và và tốc độ 40 hải lý/ giờ, hệ thống tên lửa phòng không  không được lắp đặt. Nhiệm vụ yểm trợ trên không đối với các lực lượng  phòng thủ bờ biển, chống lại các phương tiện bay tầm thấp được giao cho  không quân Hải quân. Do không đặt nhiệm vụ phòng không cho tàu hộ tống,  mẫu thiết kế tàu hộ tống tên lửa chuyển từ tàu mang tên lửa hạng nhẹ  sang tàu hộ tống tấn công tên lửa hạng nhẹ.
	
	
		
		
	
	
		
			
		
		 
	 
Tàu hộ tống tên lửa Molniya 1241.1M.Vào  năm 1973 theo nghị định của Chính phủ Liên bang Xô viết, đặt ra nhiệm  vụ chế tạo tàu tên lửa với hệ thống tên lửa chống tàu tốt nhất thế giới "  Moskit”, tăng cường năng lực tác chiến của tàu, khả năng phòng thủ và  bảo vệ tốt, được trang bị các thiết bị đấu tranh điện tử hiện đại, đồng  thời làm điều kiện hoạt động trên tàu tốt hơn và tăng cường khả năng  hoạt động độc lập trên biển.
Mẫu  thiết kế 1241 đưa vào thực tế hệ thống các tàu hộ tống hạng nhẹ và nhờ  có giải pháp thiết kế tổ hợp, tích hợp trên thân tàu các thiết kế của  tàu phóng tên lửa, khinh hạm chống ngầm và tàu tuần tiễu vùng bờ biển  dành cho lực lượng hải quân Xô viết và xuất khẩu cho các nước bạn bè và  các nước thuộc khối XHCN. Tính toán đến môi trường tác chiến khác nhau,  trình độ và khả năng sẵn sàng chiến đấu của các lực lượng khác nhau, các  tổ hợp thiết bị (tên lửa chống tàu, hệ thống thiết bị điện tử, hệ thống  trạm nguồn, năng lượng) đã dẫn đến hàng loạt các mẫu tàu hộ tống khác  nhau của thiết kế 1241 với thân tàu và cùng một nguồn động lực. Ý tưởng  một tàu hộ tống với thân tàu và động lực trạm nguồn cố định, nhưng có  nhiều kiểu loại thiết kế trang bị cho nhiều mục đích sử dụng chưa hề  được đặt ra khi đặt mục tiêu thiết kế ban đầu.
	
	
		
		
	
	
		
			
		
		 
	 
Tàu hộ tống tên lửa Molniya 1241.8."Dự  án 12411 tàu hộ tống tên lửa và dự án 12412 tàu chống ngầm nhận được  không chỉ là các loại vũ khí trang thiết bị khác nhau mà khi đưa vào  thực hiện với điều kiện mua bản quyền sản xuất, cũng có nhiều khung sườn  khác nhau và nguồn động lực khác nhau (có thể từ Nga, Belarusia,  Ucraina..) Có nơi gọi là khinh hạm hạng nhẹ, có nơi gọi là chiến  hạm…Nhưng theo thực tế sử dụng chủ yếu với mục đích bảo vệ biên giới và  lãnh hải- tên được sử dụng nhiều nhất vẫn là khinh hạm hạng nhẹ chống  tàu".
Lịch sử đóng tàu
Những  tàu hộ tống tên lửa 2 mẫu thiết kế chủ yếu được giao cho tổ hợp đóng  tàu Almaz. Mẫu thiết kế 1241.1-T và 1241-M được đóng hàng loạt cùng một  lúc trên 3 xưởng đóng tàu từ năm1979 của Liên bang Xô viết. Đến cuối năm  1991 đối với Hải quân Xô viết đã đóng được 41 tàu hộ tống mang tên lửa  bao gồm: 12 tàu hộ tống lớp 12411-T (4 chiếc do các xưởng Primorye,  Khabarovsk và Mid-Neva đóng) 31 tàu hộ tống mang tên lửa lớp 12411 trong  đó Khabarovsk đóng 17, Mid-Neva đóng 13 chiếc và 1 chiếc 12417. Đến  cuối năm 1991, trong quá trình đóng tàu hàng loạt đã có thêm 6 tàu hộ  tống tên lửa với độ sẵn sàng từ 28% đến 93%, dự kiến sẽ xuất xưởng năm  1996. Một tàu hộ tống mẫu thiết kế 1241Т ngay trong quá trình đóng tàu  đã theo mẫu 12417 (pháo 30mm được thay thế bằng hệ thống tên lửa phòng  không "Kortik" và radar phát hiện mục tiêu trên không "Positive" để phục  vụ cho điều khiển hỏa lực phòng không thân tàu. Lực lượng biên phòng  của Liên bang Xô viết cũng nhận được 12 tàu tuần tiễu tên lửa mẫu 1241.2  có một số những thay đổi về thiết kế kỹ thuật nếu so sánh với mẫu tiêu  chuẩn 1241.
Các nhà máy tại Rybinsk  và Yaroslavl triển khai đóng các mẫu thiết kế tàu 1241 RE, đây là mẫu  tàu phục vụ cho nhiệm vụ xuất khẩu cho các nước trong khối XHCN. Trong  thời gian này, đã đóng được 22 tàu hộ tống tên lửa mẫu 1241RE ) 5 chiếc  dành cho Cộng hòa dân chủ Đức và Ấn độ, 3 chiếc Rumania, 4 chiếc cho  Balan, 2 chiếc cho Bungaria và Iemen, 1 chiếc cho Việt Nam, đồng thời có  3 chiếc mẫu thiết kế 1241 RE được sử dụng trong biên chế của Hải quân  Xô viết với nhiệm vụ làm giáo cụ huấn luyện cho các học viên quân sự  nước ngoài. Ngoài ra, Ấn độ đã được nhận bản quyền sản xuất tàu hộ tống  tên lửa lớp Monliya cho hai nhà máy đóng tàu ở Bombay và Goa.
Thân tàu và các buồng công tác trên boong
Thân  tàu hoàn toàn nhẵn bóng và trơn, được ghép bằng thép tấm đóng tàu biển,  có những đường ghép nối nhỏ thắng. 8 vách ngăn không thấm nước chia  thân tàu ra làm 9 khoang. Các buồng khoang được làm bằng vật liệu kim  loại nhẹ (hợp kim nhôm) ngoại trừ ống xả khí gas. Các hệ thống động lực quan trọng nằm trong 2 khoang liền kề phía đuôi tàu..
Các  kích thước tiêu chuẩn của tàu; Chiều dài thân: 56,1m, chiều rộng nhất  của tàu là: 10,2m. Mức ngấn nước thân tàu là: 2,5m (2,3m đối với thiết  kế 1241RE). Mực ngấn nước đối với chân vịt khi đủ tải trọng là 4,15m,.  Mức ngấn nước khi sử dụng là 2,65m ( đối với thiết kế 12411). Lượng dãn  nước các mẫu thiết kế theo model có khác nhau, nhưng nằm trong giới hạn cho phép của 500 tấn. Chiều cao boong tàu ở khoảng chính giữa thân tàu là 5,31m.
Động cơ và trạm nguồn
Do chậm trễ trong quá trình chế tạo động cơ diesel  gasturbin cho hệ thống động lực, các tàu hộ tống tên lửa đầu tiền sử  dụng hệ thống động cơ gas-turbin M-15, đây là hệ thống động cơ bao gồm 2  động cơ tuốc bin tăng tốc M-70 công suất 12000 sức ngựa mỗi động cơ, và  2 động cơ tuốc bin hành trình công suất 5000 sức ngựa mỗi động cơ, với 4  bộ phận giảm tốc. Hệ thống động cơ tuốc bin có những ưu điểm quan  trọng, bao gồm cả yếu tố tiết kiệm nhưng với động cơ tuốc bin gặp khó  khăn trong điều khiển tàu khi chạy tốc độ thấp với vòng quay nhỏ, đặc  biệt khi cập cảng. Các động cơ chính được nối liền với chân vịt bằng  trục quay 3 bậc tự do, tốc độ tối đa của tàu là: 42 hải lý, tốc độ tiết  kiệm là 13 hải lý. Tầm hoạt động xa bờ liên tục với tốc độ cao là 760  dặm, tầm hoạt động tiết kiệm là 1400 dặm.
Đông cơ trạm nguồn các tàu hộ tống tên lửa thiết kế 1241M- là động cơ diesel – gas tuốc bin 2 trục khuỷu. Hệ thống động lực bao gồm 2 động cơ tuốc bin tăng áp M-70 có công suất 12000 mã lực và 2 động cơ diesel M-510 có công suất 4000 mã lực (mỗi tổ hợp động cơ diesel  có động cơ M-504 với hộp giảm tốc 2 tốc độ và ly hợp thủy lực. Các động  cơ chính hoạt động với một trục chân vịt và chân vịt. Tốc độ cực đại  của tàu là 41 hải lý/giờ, tốc độ tiết kiệm là 14 hải lý/giờ. Tầm hoạt  động với tốc độ hải trình là 36 hải lý/giờ sẽ là 400 dặm, tốc độ tiết  kiệm là 1600 dặm, với tốc độ 12 hải lý/giờ tầm hoạt động là 2400 dặm.
Trên  mỗi tàu chiến lắp đặt 2 động cơ trạm nguồn DG-200 công suất 200kWh và  một động cơ trạm nguồn diesel DGR-75 công suất 100kWh.
Các bộ phận trang thiết bị chính của tàu.
Hệ thống truyển động và điều khiển lái: Thầu hộ tống tên lửa 1241 được lắp 2 chân vịt trục cứng 3 bậc tự do.
Bộ  phận neo buộc tàu, Neo tàu và kéo tàu: Trong thùng sắt phía trước tàu  có lắp hệ thống điện- thủy lực để thả xích neo và thu neo, đồng thới có  trống quấn dây cáp buộc tàu phía mũi. Trên boong tàu phía sau có động cơ  điện và bộ phận cơ khí giảm tốc với bánh răng vô tận để quấn cáp buộc  neo tàu ở phía sau, trên boong có tất cả 4 trống quấn dây cáp buộc neo  tàu.
Phương tiện cứu hộ: Phương tiện  cứu hộ trên các tàu hộ tống tên lửa 1241 có 5 xuồng cứu hộ, 3 trong số  đó được đặt trên tầng thứ nhất của boong chính ( phía đằng đuôi tàu,  giữa bệ pháo AK-630) và hai chiếc được đặt ở phía mũi của buồng chuyển  động.
Khả năng hải hành.
Tính năng kỹ thuật của tàu cho phép các tàu lớp Monliya có thể hoạt động trên biển với vận tốc thấp khi biển động đến cấp 7-8.
Điều kiện làm việc và thủy thủ đoàn
Thủy  thủ đoàn của tàu hộ tống 12411T biên chế là 41 người ( trên tàu 12411-M  quân số giảm xuống còn 40 người. trong đó có 5 sĩ quan, bao gồm cả  thuyền trưởng. Thuyền trưởng được sử dụng buồng riêng hai người, bố trí  trên tầng thứ nhất của boong tàu, dưới buồng cơ động phía bên trái mạng  tàu. Các sĩ quan còn lại được bố trí trong các buồng 2 người dọc theo  thành tàu. Thủy thủ nghỉ ngơi trong 3 buồng tập trung, bố trí ở khoang  chính phần mũi tàu. Buồng phía mũi tàu (7 gường đôi) bố trí ở phần mũi  tàu cạnh buồng đạn của pháo AK-176, hai buồng ngủ còn lại nằm ở phía sau  cạnh sườn của pháo AK-176. Phòng ăn rộng 5x4m được bố trí trong khoang  chính của thân tàu. Lương thực, thực phẩm, nước uống dự trữ cho 10 ngày.  Để lưu trữ cơ sở vật chất trên tàu bố trí kho dự trữ thực phẩm khu vực  mũi tàu, cạnh khoang ngủ của thủy thủ, dưới tầng khoang đạn của tháp  pháo AK-176 là thùng đựng nước uống.
Vũ khí trang bị
- Vũ khí chống tàu
Vũ khí cơ bản được biên chế cho mẫu thiết kế đầu tiên: P-15, 3M-80 Moskit
	
	
		
		
	
	
	
	
		
		
	
	
Tên lửa chống tàu X-41 Moski.Trong  hệ thống vũ khí của tàu hộ tống tên lửa 12411 được biên chế 4 tên lửa  chống tàu R-15 Termit, tàu hộ tống 12411 M được biên chế 4 tên lửa chống  tàu loại 3M-80 Moskit (R-270), các tên lửa chống tàu được lắp trong 2  bộ ống phóng tên lửa KT-152. Tên lửa được bố trí trên hai bệ phóng cố  định gắn gắn 2 bên sườn boong tàu. Bệ phóng tên lửa được gắn với một góc  phòng cố định so với sàn tàu.
- Vũ khí phòng không
Để  phòng thủ trên khống, về lý thuyết kỹ chiến thuật nhiều hơn là thực tế  tác chiến, chống lại các đòn tấn công từ trên không, trên các tàu hộ  tống được trang bị các tên lửa phòng không tầm thấp (Strela-3) cơ số  biên chế là 16 tên lửa, hoặc Igla với cơ số biên chế tương đương. Tên  lửa phòng không được bố trí bệ phóng trên boong phía đuôi tàu, giá đứng  bắn có bệ tỳ hướng ra 4 hướng bắn.
- Pháo hải quân
	
	
		
		
	
	
Pháo hạm cơ bản : АК-176, АК-630М.Pháo  hạm của tàu hộ tống tên lửa 1241 là pháo hạm một nòng tự động 76/59 АU  kiểu tháp pháo АК-176, tháp pháo được bố trí trên phần mũi tàu của boong  tàu. Cơ số đạn pháo là 316 viên. Tháp pháo được chế tạo từ hợp kim nhôm  và magnesium Amr-61 với độ dày 4mm. Kíp trắc thủ - 2 người ( nạp đạn  bằng tay – kíp trắc thủ là 4 người). Khối lượng của pháo là: 10,45 tấn.
Trên  boong tàu phía đuôi tàu của thiết kế 1241 để chống lại các tên lửa hành  trình chống tàu, được lắp đặt hai súng máy 6 nòng 30/54 AK-630M, với  hai dây băng đạn 2000 viên đạn – 1000 viên cho mỗi băng đạn. Khối lượng  của toàn bộ ụ súng không có đạn và phụ tùng là 1,85 tấn. Toàn bộ ụ súng  máy với hệ thống điều khiển là 9114kg. Tầm bắn của súng là 4000m. Chế độ  bắn thông thường 4-5 loạt bắn với mỗi loạt từ 20 – 25 viên đạn từ tầm  bắn max, trên tầm bắn hiệu quả, loạt bắn có thể kéo dài với số lượng lên  đến 400 viên ngắt đoạn ngắn từ 3-5 giây.
Hệ thống radar và thiết bị tác chiến điện tử
- Radar truy tìm, phát hiện, bắt và bám mục tiêu.
Rà  quét, kiểm soát và phát hiện mục tiêu chủ động hoặc thụ động, xử lý tín  hiệu thông tin và chuyển thông số chỉ thị mục tiêu cho ban chỉ huy  trưởng và các kíp trắc thủ trên tàu, giải quyết các bài toàn về dẫn  đường, định vị tàu, điều hành các hoạt động tác chiến liên kết phỗi hợp  với các hàm tàu khác trong phân đội tàu 1241 được thực hiện bởi hệ thống  radar Monolit (hệ thống radar này là nâng cấp của hệ thống Titanit, hệ  thống radar được bố trí trên nóc của boong chính của tàu dười chụp radar  chủ động hình bán cầu. Những tàu hộ tống đầu tiên được sản xuất kể cả  tàu chỉ huy P-5 và những tàu hộ tống tên lửa xuất khẩu không được lắp hệ  thống Monolit mà lắp hệ thống radar bám, dẫn bắn Garpun. ( Hệ thống  radar xuất khẩu: Garpun-E). Các tàu hộ tống tên lửa thiết kế 1241T được  lắp radar Monolit với thiết bị điều khiển tên lửa Korral từ hệ thống  phóng tên lửa Termit. Hệ thống radar điều khiển hỏa lực pháo binh  MP-123/176 Vimpel được bố trí trong khoang trên boong tàu, bên dưới cột  ăn ten.
- Hệ thống thiết bị trinh sát và tác chiến điện tử
Tàu  hộ tống tên lửa thiết kế 1241 được trang bị hệ thống tác chiến điện tử  Vimpel –P2 , đảm bảo cho các thiết bị điện tử trên ầu có khả năng ngăn  chặn và chống gây nhiễu điện từ.
Đối  với những mục tiêu cần gây nhiễu điện tử trên tàu được bố trí hai bệ  phóng đạn gây nhiễu, mỗi bệ phóng gồm có ống phóng lựu 16 nòng có điều  khiển từ xa PK-16 để gây nhiễu thụ động, ống phóng lựu phóng đạn phản xạ  lưỡng cực hoặt mồi bẫy hồng ngoại. Cơ số đạn biên chế là 128 quả đạn  82mm. Bệ phóng được đặt ở phía đuôi tàu, trên mặt boong tàu. các tàu thế  hệ sau có thể lắp tới 4 bệ phóng đạn mồi bẫy hoặc phản xạ đa cực PK-10  các bệ phóng này cũng được lắp ở trên các giá đỡ phía đuôi tàu, khu vực  khoang quạt gió làm mát buồng máy giữa boong tàu và súng máy 6 nóng AK  630. và trên các giá đỡ nằm giữa buồng cơ động trên boong tàu và tháp  pháo AK 176. Trên các tầng trên boong tàu từ quá trình sửa chữa vừa và  các tàu mới đóng thế hệ mới được lắp các cảm biến chiếu xạ lases, nhằm  phát hiện tàu bị chiếu xạ laser từ các thiết bị dẫn đường cho tên lửa  chống tàu dẫn động bằng laser.
	
	
		
		
	
	
		
			
		
		 
	 
1  – Khoang phía trước mũi tàu; 2 – Buồng kho tàng đựng cơ sở vật chất  khác nhau; 3 – Thùng chứa xích mỏ neo; 4 – Buồng ngủ của thủy thủ đoàn; 5  – Pháo hạm 76-mm АУ АК-176; 6 – Trống chuyển nạp đạn 76-mm AU; 7 –Vị  trí chiến đấu đa chức năng; 8 – Thùng đựng nước ngọt ; 9 –Thùng đựng dầu  diesel nhiên liệu; 10 – Hệ thống radar Monolit «Монолит»; 11 – Khoang  cơ động lên boong tàu; 12 –Phòng nghỉ sỹ quan chỉ huy; 13 –Hành lang р;  14 – Phòng nhỏ lắp các thiết bị điện - điện tử; 15 – Phòng trung tâm  điều khiển các thiết bị động lực, trạm nguồn và bảng mạch phân phối cho  các khoang phía mũi tàu.; 16 –Khoang máy tàu phía đằng mũi tàu МО; 17 –  Ống xả khói tàu ; 18 – Ống thông khí và quạt thông gió khoang máy tàu;  19 – Khoang chứa thùng dầu; 20 – Động cơ đẩy của tàu ; 21 – Buồng điều  khiển điện thân tàu và phòng buồng bảng điện đuôi tàu; 22 – Khoang máy  phía đuôi tàu МО; 23 – Phòng ăn của tàu; 24  – Súng máy chống tên lửa АК-630М; 25 – Khoang xả khí thải đuôi tàu; 26 –  khoang máy cuối đuôi tàu; 27 –Khoang bánh lái đuôi tàu.
Mẫu thiết kế 12417
	
	
		
		
	
	
Lượng  giãn nước tiêu chuẩn , Tấn: 436 (tiêu chuẩn), 493 (đầy đủ)Tốc độ cực  đại, hải lý/giờ. 41 (max), 12 (tiết kiệm)Tầm xa hải hành max, dặm 1600  (Ve 12 hải lý)Lượng dự trữ hành trình. 10 ngàyVũ khí trang bị:
Tên  lửa chống tàu 2х2 Ống phóng tên lửa chống tàu "Моskit"; 1х4 ống phóng  tên lửa vác vai Igla "Игла"; Pháo hạm 1х1 76-mm АК-176; Súng máy chống  tên lửa 2х6 30-мм АК-630radar điều khiển hỏa lực Vimpel , radar chỉ thị  kiểm soát và dẫn bắn mục tiêu Monolit, Radar hàng hải dẫn đường trên hải  đồ và định vị vệ tinh. Hệ thống tác chiến điện tử và cảnh báo sớm. Động  lực của tàu là hệ thống tổ hợp động cơ diesel – tuốc bin khí ga 2х GTD  М-70 và 2хМ510Kích thước, m 56,1х10,2х2,5Nguồn điện: Đông cơ phát điện 3  pha diesel theo thiết kế. Công suất động cơ kW 4000 sức ngựa.х 2 М510;  12000 sức ngựa .х 2 GTD
Mẫu thiết kế Monliya 1241.8
	
	
		
		
	
	
Chiều dài thân tàu 56.1 m
Chiều rộng nhất thân tàu 10.2 m
Chiều cao của sàn tàu (trung bình) 5.31 m
Mức ngấn nước đủ tải trọng 2.38 m
Lượng giãn nước 510 T
Thông số chiến thuật tàu hộ tống tên lửa Tốc độ cực đại; 39-40 kn
Tốc độ tiết kiệm 12-13 kn với khoảng cách xa hoạt động xa nhất 2300 dặm
Lượng dự trữ lương thực thực phẩm hành trình 10 ngày Thủy thủ đoàn: 42
Động lực thân tàu:
Động cơ tổ hợp diesel-gas turbine M15: Với nhiệt độ khoảng 15oC. 23530 kW
Với nhiệt độ lớn hơn 34o C 17430 kW
Nguồn điện thân tàu: kWh máy phát điện diesel 2x200. và một máy phát điện diesel 1X100.
Vũ  khí trang bị: 16 tên lửa chống tàu X-35 Uran 3M24 Tên lửa phòng không  vác vai Igla: 12 Hỏa lực pháo binh:1xAK-176M 76.2 mm với cơ số 316 viên  đạn pháo. 2xAK-630M1-2 30 mm với cơ số 4000 viên đạn
Hệ  thống tác chiến điện tử Hệ thống radar GARPUN-BAL Radar bao gồm: Radar  điều khiển hỏa lực MR-123-02. Radar truy tìm, phát hiện mục tiêu trên  không và trên biển POZITIV-E MP-405 ESM
Hệ  thống radar cảnh báo sơm Radar ID system: Hệ thống radar xác định chủ  quyền Radar hàng hải định vị và dẫn đường điều khiển tàu
Hệ thống súng phóng lựu gây nhiễu điện từ và quang hồng ngoại PK-10
	
	
		
		
	
	
 
Tên lửa Uran X-35 (Mô phỏng 3D).
	
	
		
		
	
	
Ống phóng tên lửa Uran (Mô phỏng 3D).
	
	
		
		
	
	
Tên lửa chống tàu X-35 Uran 3M24
Tốc độ bay, km/h 1100
Tầm bắn xa nhất, km 130
Tầm bắn gần nhất, km 5
Trần bay trên mực nước biển, m 5-10
Trần bay tiếp cận mục tiêu (giai đoạn cuối), m 3-5
Chiều dài tên lửa, mm: 3750
Đường kính của tên lửa,mm: 420
Sải cánh tên lửa: mm 930
Khối lượng đầu đạn, kg 145
Tải trọng phóng kg 630
Theo QPAN