Mục tiêu chiến lược của Nga đằng sau thương vụ mua tàu Mistral	 		
     	 			 			Thứ năm, 28 Tháng 7 2011 10:42		 	 			 			dinh tuan anh		 	  		
 	 		 								 			
			 			 						 			
			 			 						 			
			 						
 	 		 
    Trong bài phân tích “Russia’s Mistral purchases” đăng  trên tạp chí trực tuyến Diễn đàn Đông Á (EAF) ngày 20/7, giáo sư chuyên  về quan hệ quốc tế Leszek Buszynski thuộc Đại học Quốc tế Nhật Bản  (IUJ) cho rằng Thủ tướng Putin đã có một động thái khôn ngoan khi sử  dụng thỏa thuận nói trên để củng cố các quan hệ với Pháp và làm suy yếu  sự thù địch của NATO (vốn gia tăng trong cuộc chiến tranh với Grudia năm  2008) đối với Nga.    
  
 Cuối  tháng 6/2011, Nga đã ký một hợp đồng trị giá 1,2 tỉ euro (1,7 tỉ USD)  mua hai tàu đổ bộ tấn công mang trực thăng lớp Mistral của Pháp để trang  bị cho hải quân. Các tàu này sẽ được đóng với 20-40% phụ tùng do Nga  sản xuất và Mátxcơva sau đó có thể có giấy phép tự đóng hai tàu tương tự  trong tương lai. Theo dự kiến, chiếc tàu đầu tiên sẽ được bàn giao vào  năm 2014 và chiếc thứ hai vào năm 2015. Thỏa thuận này, được đề xuất khi  Thủ tướng Nga Vladimir Putin thăm Pháp hồi tháng 11/2009, đã gây nhiều  tranh cãi ở cả bên trong và ngoài nước Nga. Những chỉ trích trong nước  tập trung vào giá cả cao của việc mua bán này cũng như đóng góp của  chúng đối với sự phòng thủ đất nước. Một số nhà bình luận Nga cho rằng  dự án đó chỉ phục vụ cho mục tiêu chính trị là củng cố các quan hệ  Pháp-Nga. 
  
 Tại sao Nga muốn mua tàu Mistral? 
 Trong  bài phân tích đăng trên tạp chí trực tuyến Diễn đàn Đông Á (EAF) của  Ôxtrâylia ngày 20/7, giáo sư chuyên về quan hệ quốc tế Leszek Buszynski  thuộc Đại học Quốc tế Nhật Bản (IUJ) cho rằng Thủ tướng Putin đã có một  động thái khôn ngoan khi sử dụng thỏa thuận nói trên để củng cố các quan  hệ với Pháp và làm suy yếu sự thù địch của NATO (vốn gia tăng trong  cuộc chiến tranh với Grudia năm 2008) đối với Nga. 
 Với  Pháp ở bên cạnh, tình cảm chống Nga mà các thành viên mới của NATO ở  Đông Âu và vùng Bantích thường xuyên bày tỏ có thể được kiểm soát. Nga  cũng có thể hiện đại hóa và nâng cấp các hệ thống quốc phòng điện tử,  vốn trong tình trạng yếu kém kể từ thời Liên Xô. Thỏa thuận này gây ra  nhiều lo ngại từ Grudia và các quốc gia vùng Bantích (Látvia, Lítva và  Extônia) vì nó sẽ mang lại cho Nga khả năng đổ quân mà có thể được sử  dụng để chống lại họ. Grudia đặc biệt lo sợ vì những tàu này có thể được  sử dụng để đổ quân dọc theo bờ biển Đen nhằm hỗ trợ cho tỉnh ly khai  Ápkhadia nếu nổi lên một cuộc xung đột ở đó. 
 Tàu  Mistral là loại tàu chiến lưỡng dụng, có khả năng chỉ huy hạm đội. Tàu  này có thể đổ quân lên bờ trong những vùng chiến sự đặc biệt, và với  thiết bị điện tử được trang bị, tàu này có thể đóng vai trò trung tâm  thông tin để kiểm soát và điều phối các chiến dịch chiến đấu. Pháp có  hai tàu như vậy và đang đóng mới chiếc thứ ba cho hải quân nước này. 
 Tàu  chiến lớp Mistral có trọng tải 21.300 tấn và thủy thủ đoàn 160 người,  có thể vận chuyển tối đa 700 lính và mang theo tới 16 máy bay lên thẳng  hạng nặng. Nga có thể sẽ trang bị máy bay trực thăng tấn công KA-50/52,  máy bay lên thẳng Ka-27K Helix của hải quân hoặc máy bay trực thăng  Ka-29K. Tàu Mistral cũng có thể mang theo 70 xe bọc thép, hai tàu đệm  khí và bốn xuồng đổ bộ. 
 Hai  tàu Mistral bán cho Nga sẽ được đóng tại các xưởng của Pháp ở St  Nazaire, trong khi hai tàu nữa dự kiến sẽ được đóng sau đó tại St  Petersburg trong một hợp đồng khác. Ban đầu, vấn đề chính trong các cuộc  thương lượng là hệ thống thông tin chiến thuật hải quân SENIT-9 và hệ  thống chỉ huy hạm đội SIC21 đi kèm, điều sẽ làm tăng đáng kể khả năng  của Nga trong việc điều phối các chiến dịch chiến đấu. Nga đòi chuyển  giao và cấp giấy phép chế tạo thiết bị điện tử được trang bị trên tàu  Mistral, nhưng dưới sức ép của các đối tác NATO, Pháp đã do dự. Nga  tuyên bố rằng Pháp sẽ xúc tiến việc bán công nghệ đó, nhưng vào giai  đoạn này vẫn chưa rõ liệu Pháp sẽ làm theo hay không? Để chống lại việc  chuyển giao những kỹ thuật chế tạo cần thiết, Pháp có thể khăng khăng  đòi tự lắp đặt và bảo dưỡng những hệ thống đó, điều sẽ làm chậm lại  (nhưng không thể ngăn cản) sự rò rỉ công nghệ sang Nga. 
 Nhằm  giảm bớt những lo ngại của NATO, Nga nói rằng tàu Mistral sẽ được triển  khai ở châu Á-Thái Bình Dương và cách xa khỏi phương Tây. Đầu tháng  2/2011, Itar-Tass dẫn lời một "nguồn tin" trong Bộ Quốc phòng Nga nói  rằng cả hai tàu nói trên sẽ được triển khai ở quần đảo Nam Kuril mà Nhật  Bản tuyên bố chủ quyền. Nguồn tin này cho biết cơ sở hạ tầng thích hợp  sẽ được xây dựng để đáp ứng hai chiếc tàu đó. Những tin tức khác nói  rằng một tàu Mistral sẽ được triển khai trong Hạm đội Thái Bình Dương  tại Vladivostok và tàu còn lại sẽ được phiên chế vào Hạm đội biển Bắc ở  Bắc Cực.
 Việc  tuyên bố rằng các tàu Mistral sẽ được triển khai ở quần đảo Nam Kuril  dường như là một thủ đoạn chính trị nhằm có thể lớn tiếng hơn trong các  cuộc tranh cãi với Nhật Bản về những hòn đảo đang tranh chấp. Kể từ khi  Tổng thống Nga Dmitry Medvedev đến thăm Kunashir, một trong những hòn  đảo đó, hồi tháng 11/2010, các quan hệ với Nhật Bản đã xấu đi. Ông  Medvedev đang xây dựng hình ảnh chính trị của mình với người Nga để  chuẩn bị cho cuộc bầu cử tổng thống vào năm tới và đã lấy việc tranh  chấp với Nhật Bản để làm tăng uy tín về sự yêu nước của mình. Ông  Medvedev tuyên bố rằng những hòn đảo đó là phần "không thể chuyển  nhượng" của nước Nga, nhưng lại tránh bình luận về việc triển khai tàu  Mistral. 
 Việc  triển khai các tàu Mistral ở Nam Kuril không mang nhiều ý nghĩa vì  những hòn đảo đó không phải đối mặt với bất cứ mối đe dọa quân sự nào từ  Nhật Bản và việc xây dựng cơ sở hạ tầng bổ trợ sẽ phải mất vài thập  niên. Ý tưởng phiên chế hai tàu này cho vùng Bắc Cực xa xôi thậm chí còn  vô nghĩa hơn. Hạm đội Thái Bình Dương ở Vladivostok có khả năng là căn  cứ cho hai tàu này hơn, vì điều đó sẽ tránh được một vòng căng thẳng mới  với NATO. Các chức năng thông tin và chỉ huy của tàu Mistral sẽ làm  tăng đáng kể khả năng cho các chiến dịch đổ bộ của Hạm đội Thái Bình  Dương, nhưng khó có thể dự tính được những kịch bản trong đó hai tàu này  có thể được sử dụng ở châu Á-Thái Bình Dương. Những lo ngại của Nga về  Trung Quốc liên quan đến biên giới trên bộ và những vùng rộng lớn ở Viễn  Đông và Xibêri, và người Nga không có tranh chấp trên biển nào với  người Trung Quốc. Việc triển khai tàu Mistral trong Hạm đội Thái Bình  Dương tại Vladivostok sẽ phục vụ một mục đích khác: chúng sẽ cho phép  Nga giương cờ không chỉ ở quần đảo Nam Kuril mà còn ở cả trong khu vực  ASEAN, một bước tiến hướng tới khôi phục sự hiện diện hải quân của Nga  trong khu vực này. 
   
 Những mục tiêu chiến lược của Nga ở châu Á 
 Cũng về vấn đề này, tác giả Kirill Nourzhanov thuộc Đại học Quốc gia Ôxtrâylia (ANU) có bài phân tích “Russia’s strategic objectives in Asia” trên  EAF ngày 17/6, nhận định khi xem xét kỹ hơn thì hợp đồng mua tàu  Mistral rất phù hợp với học thuyết quân sự đang phát triển của Nga và  không đe dọa Mỹ cũng như các đồng minh châu Âu của Oasinhtơn. Nga đã  thực hiện một chương trình hiện đại hóa vũ khí đầy tham vọng, với mục  tiêu nâng tỉ lệ các vũ khí và trang thiết bị hiện đại trong toàn bộ các  lực lượng vũ trang lên 70% vào năm 2020. Chương trình hiện đại hóa này  đặc biệt tác động đến hải quân. Trong vòng hai thập niên qua, Nga mới  chỉ đóng được bốn tàu nổi dựa trên các thiết kế lạc hậu thời Liên Xô,  nhưng sẽ nhận được 50 tàu hoàn toàn mới trong thời gian 2010-2020. Các  xưởng đóng tàu của Nga đơn giản là không thể đóng loại tàu hiện đại như  Mistral một cách nhanh chóng và độc lập vào thời điểm này. 
 Tàu  Mistral đầu tiên sẽ được phiên chế cho Hạm đội Thái Bình Dương, lực  lượng đang được chuyển hóa thành bộ phận cấu thành mạnh nhất của Hải  quân Nga và là yếu tố cốt lõi của Bộ chỉ huy Chiến dịch-Chiến lược phía  Đông được thành lập năm 2010. Theo Thứ trưởng Quốc phòng phụ trách trang  thiết bị, chính hệ thống thông tin chiến đấu SENIT-9 của tàu Mistral,  chứ không phải là khả năng tấn công, sẽ mang vai trò chỉ huy trong những  năm tới. Các tàu Mistral sẽ đóng vai trò đi đầu cho những khí tài hải  quân mới được trang bị cũng như những khí tài được chuyển sang Hạm đội  Biển Bắc, và sẽ có vai trò kiểm soát chiến dịch đối với các tàu nổi, tàu  ngầm cũng như các lực lượng phòng thủ trên không và duyên hải trải dài  từ Vladivostok tới Chukotka. 
 Trong  những ngày qua, các tướng lĩnh hàng đầu của Nga tiếp tục cung cấp thêm  những chi tiết về việc triển khai chiến thuật và những sứ mạng cụ thể  của hai tàu Mistral. Tham mưu trưởng quân đội ngụ ý rằng hai tàu này sẽ  được sử dụng để bảo vệ quần đảo Kuril, điều không gây ngạc nhiên vì lúc  Tổng thống Medvedev cùng Bộ trưởng Quốc phòng tới đó vào năm 2010 họ đã  sửng sốt khi phát hiện ra rằng những hòn đảo này được bảo vệ bởi các  binh sĩ không được huấn luyện tốt cùng với các trang bị từ thời Thế  chiến II. 
 Những  nhiệm vụ khác bao gồm bảo vệ cơ sở hạ tầng dầu khí, tuần tra các tuyến  đường thương mại, các hoạt động chống cướp biển và chống khủng bố, và  những sứ mạng tìm kiếm và cứu hộ trong các khu vực duyên hải có tiếng là  hay bị ảnh hưởng bởi hoạt động địa chấn và sóng thần. Có một sự đồng  thuận chung rằng hai tàu Mistral sẽ không được sử dụng để tung hỏa lực  ngoài khu vực trách nhiệm ở Viễn Đông. Hai tàu này không phải là những  vật báo hiệu cho sự khôi phục của hải quân viễn dương Nga mà một số  người lo ngại sẽ có khả năng thách thức sự bá chủ trên biển của Mỹ. Trên  thực tế, Nga đã ngừng công việc đối với các tên lửa hành trình hạng  nặng hoặc "những kẻ sát thủ đối với tàu sân bay". 
 Một  lý do chiến lược cho việc triển khai tàu Mistral ở Thái Bình Dương,  điều mà những người phát ngôn chính thức của Nga biết nhưng không nói  ra, là để ngăn chặn Trung Quốc. Kể từ thời Gorbachov, họ đã cẩn thận  tránh gán cho nước láng giềng khổng lồ là một kẻ thù tiềm tàng. Một  ngoại lệ hiếm thấy là câu trả lời được đưa ra vào năm 2009 của Tham mưu  trưởng Lục quân trước câu hỏi về dạng chiến tranh nào mà các lực lượng  vũ trang nên chuẩn bị sẵn sàng: "Nếu chúng ta nói về phương Đông, thì đó  có thể là một đội quân nhiều triệu người với một cách tiếp cận truyền  thống để tiến hành các chiến dịch chiến đấu". Cuộc tập trận quân sự  chiến lược Vostok-2010 được tiến hành năm ngoái với giả định đáp lại một  mối đe dọa không được nêu tên từ phương Đông, khác với sự né tránh  thường lệ của NATO. Đây là một sự kiện lớn nhất cùng loại kể từ năm 1991  và thừa nhận điều hiển nhiên là nước Nga không thể cạnh tranh với Trung  Quốc trong các lực lượng mặt đất thông thường, và sẽ phải dựa vào vũ  khí hạt nhân và một hải quân mạnh để chống lại mối đe dọa tiềm tàng từ  Bắc Kinh đối với Xibêri và vùng Viễn Đông./. 
  
  Hương Trà (gt)
Tìm hiểu siêu tàu chiến lớp Mistral của Pháp
VIT  - Các tàu thuộc lớp Mistral là loại tàu đổ bộ tấn công mới của hải quân  Pháp, cũng còn gọi là tàu sân bay trực thăng. Đây là loại tàu đổ bộ tấn  công, chỉ huy và cơ động lực lượng chớp nhoáng mới của Hải quân Pháp.  Chúng sẽ được dùng làm tàu chỉ huy, đổ bộ tấn công, hỗ trợ hậu cần, di  tản nhân đạo, bệnh viện dã chiến và thực hiện các sứ mệnh tác chiến hải  quân khác.
   Không vận
Trên boong tàu lớp Mistral có một sân  bay rộng khoảng 6.400 m2, với 6 điểm đỗ cho máy bay trực thăng, một  trong số đó có thể dùng cho máy bay nặng 33 tấn. Khoang chứa trên boong  có thể bố trí 16 trực thăng, gồm cả khu vực bảo dưỡng có cầu trục. Trên  tàu có một hệ thống radar DRBN-38A Decca Bridgemaster E250 và một hệ  thống quang học hỗ trợ cất, hạ cánh.
Sân bay trên tàu Mistral
Tất  cả các máy bay trực thăng đang được sử dụng trong quân đội Pháp, như  NH90, Tigre, Puma, Écureuil, Panther…, đều có thể cất cánh từ các tàu  này.
Kích thước sân bay cho phép số lượng máy bay có thể hoạt động được lên tới 30 chiếc.
Máy bay trực thăng trên tàu Mistral
Vận chuyển đổ bộ
Các  tàu Mistral có thể vận chuyển tới 450 quân, với các chiến dịch ngắn hạn  có thể tăng gấp đôi lên 900. Khoang chứa xe có diện tích 2.650 m2 có  thể chở một tiểu đoàn 40 xe tăng hạng nặng Leclerc, hoặc một thiết đội  13 xe tăng hạng nặng Leclerc và 46 xe các loại khác.
Tàu Mistral and Tonnerre mang đủ hàng cho 450 quân và thủy thủ đoàn
trong hành trình 45 ngày
Khoang  chứa trên tàu rộng 885 m2 có thể triển khai được 4 sà lan đổ quân. Các  tàu có thể mang 2 tàu đệm không khí (thủy phi cơ) LCAC, tính năng này là  để tương thích với Thủy quân lục chiến Mỹ và Hải quân Hoàng gia Anh.
Tàu Mistral mang được 2 tàu đổ bộ đệm không khí
Thủy  thủ đoàn của tàu được biên chế 160 người. Một hành trình trên biển thực  hiện nhiệm vụ kèm theo vận chuyển quân và trang bị điển hình mất khoảng  2 đến 3 tuần lễ. Tàu Mistral và Tonnerre mang đủ hàng hóa cho thủy thủ  đoàn và 450 quân trong 45 ngày giữa các đợt tiếp tế. Tốc độ tối đa là 19  hải lý/giờ và tầm hoạt động là 11.000 km ở tốc độ 14 hải lý / giờ.
Tàu đổ bộ đệm không khí Sabre
Chỉ huy và thông tin liên lạc
Các  tàu lớp Mistral có thể dùng làm tàu chỉ huy và điều khiển với một trung  tâm chỉ huy rộng 850 m2, có thể tiếp nhận 150 nhân viên công tác. Thông  tin từ các thiết bị thu nhận của tàu được tập trung vào hệ thống SENIT  (Hệ thống thông tin chiến thuật dùng cho Hải quân), một nhánh của Hệ  thống dữ liệu chiến thuật hải quân (NTDS) của hải quân Mỹ.
Hệ  thống SENIT 9 dùng trên tàu Mistral dựa trên radar 3 chiều đa chức năng  MRR3D-NG của hãng Thales, hoạt động trên băng tần C và tích hợp các khả  năng IFF (nhận dạng ta, địch). SENIT 9 cũng được liên kết với các định  dạng trao đổi dữ liệu của NATO thông qua các thiết bị kết nối.
Trong  chế độ giám sát bề mặt, MRR-3D NG có thể phát hiện các mục tiêu tầm  thấp và trung bình ở các khoảng cách tới 140km và các mục tiêu ở khoảng  cách tới 180 km ở chế độ cảnh giới không gian 3 chiều tầm xa; trong chế  độ tự vệ, nó có thể phát hiện và theo dõi mối đe dọa bất kỳ trong vòng  bán kính 60km.
Về thông tin liên lạc, tàu Mistral dùng hệ thống vệ  tinh Thales Syracuse III, dựa trên các vệ tinh Syracuse 3-A và Syracuse  3-B của Pháp, chúng đảm bảo cung cấp 45% lượng thông tin liên lạc tần  số siêu cao của NATO.
Hỏa lực
Tàu Mistral được trang bị 2 hệ  thống tên lửa phòng không MBDA Simbad dùng cho tên lửa Mistral. Hệ  thống này được tích hợp hệ thống ra đa dẫn đường hồng ngoại với tầm hoạt  động hơn 6 km.
Tàu cũng được trang bị hai khẩu đội pháo phòng không hải quân Breda-Mauser 30mm và bốn súng máy 12,7mm.
Bệnh viện
Trên  mỗi tàu trang bị một cơ sở y tế tương đương với một bệnh viện dã chiến  cấp sư đoàn hoặc quân đoàn, hoặc bệnh viện đa khoa của một thành phố  250.000 dân, đồng bộ cả nha khoa, chẩn đoán, chuyên gia phẫu thuật và  các khả năng y tế, vệ sinh thực phẩm và các khả năng tâm lý học.
Tàu Mistral được trang bị một bệnh viện với 69 giường
Một hệ thống điều khiển y học từ xa dựa trên vệ tinh Syracuse cho phép thực hiện các phẫu thuật chuyên ngành phức tạp.
Bệnh  viện có diện tích 900 m2 cung cấp 20 phòng và 69 giường bệnh, trong đó 7  phòng để chăm sóc đặc biệt. Có hai phòng mổ với đầy đủ phòng chụp X  quang và siêu âm số, và nó có thể được gắn với một máy quét CT điều  khiển từ xa.
Ngoài ra còn có 50 giường bệnh được đặt trong nhà  chứa máy bay trực thăng để tăng cường năng lực của bệnh viện trong  trường hợp khẩn cấp.
Dẫn động
Mistral là loại tàu chiến đầu  tiên của hải quân Pháp hoàn toàn chạy điện và được trang bị 2 bộ dẫn  động phương vị điện hình hạt đậu, có khả năng thích ứng với bất kỳ góc  độ nào. Công nghệ dẫn động này tạo cho các tàu có khả năng linh hoạt  đáng kể, cũng như giải phóng không gian thông thường giành cho máy móc  và các trục cánh quạt (chân vịt).
Tàu Mistral được dẫn động bằng 2 bộ dẫn động điện POD
Việc  sử dụng các POD là một đột phá mới (thường được dùng trong chế tạo tàu  chở khách và tàu thương mại), nhờ nó mà tàu Mistral với vận tốc khá  khiêm tốn là 19 hải lý/h vẫn có thể di chuyển dễ dàng trong điều kiện  sóng to, gió lớn.
Hệ thống máy phát điện gồm 3 máy 16V32 và một máy 18V200 chạy diesel cung cấp công suất 20.8 MW.
Hai trong số các máy phát điện 16 V32
Không gian sinh hoạt
Việc  dùng các POD cho phép bố trí các không gian sinh hoạt thích hợp mà  không bị vướng bởi các đường ống hoặc máy móc. Được bố trí ở phía trước  tàu, các khoang của thủy thủ đoàn có thể so sánh được với các khoang  hành khách của các tàu du lịch về mức độ thoải mái
Khả năng tác chiến
Người  đứng đầu lực lượng Hải quân Nga cho hay, trong vòng 40 phút, tàu lớp  Mistral có thể đưa một lượng binh sỹ tới Gruzia mà Hạm đội Biển Đen Nga  phải mất 26 tiếng để làm việc đó trong cuộc xung đột ngắn vào tháng  8/2008.
Các thông số cơ bản
Chiều dài: 199m
Chiều rộng: 32m
Mớn nước: 6.2m
Trọng tải tối đa: 21,300 tấn
Tốc độ: 19 hải lý /giờ
Máy phát điện: 3 máy phát chạy diesel 16 V32 (6,2 MW) + 1
 máy phát phụ trợ chạy diesel 18V200 (3 MW)
Động cơ đẩy: 2 động cơ điện (2 × 7 MW) dẫn động
 các chân vịt 2x5
Phạm vi hoạt động: 10.800 km (5.800 hải lý) tại tốc độ 18
 hải lý / giờ (33 km / h), 19.800 km
 (10.700 hải lý) tại 15 hải lý /giờ
Chuyên chở phương tiện: 4 sà lan đổ quân CTM, 2 tàu đệm
 không khí (LCAC), 59 xe (bao gồm cả
 13 xe tăng Leclerc) hoặc 1 tiểu đoàn
 40 xe tăng Leclerc hạng nặng.
Thủy thủ đoàn: 160
Chở quân: 450 (có thể lên 900 trong thời gian ngắn)
Hệ thống thu nhận và xử lý: Radar cảnh giới MRR3D-NG,
 radar dẫn đường DRBN-38A,
 2 hệ thống điều khiển hỏa lực
Hỏa lực: 2 hệ thống tên lửa phòng không MBDA
 Simbad, 2 khẩu đội pháo phòng không
 hải quân Breda-Mauser 30mm, 4 súng
 máy 12,7mm Browning M2-HB.
Máy bay: 16 trực thăng hạng nặng hoặc 35 máy bay
 trực thăng hạng nhẹ; 6 điểm hạ cánh.