- Biển số
- OF-423435
- Ngày cấp bằng
- 19/5/16
- Số km
- 13,572
- Động cơ
- 550,368 Mã lực
Vâng, gốc Văn hoá quan trọng hơn gốc Địa lý vì con người tồn tại và phát triển hay không phụ thuộc vào Văn hoá. Liệu có đúng không? Hà nội có thứ VH riêng để con người sống ở đó dường như cố trở thành hoặc nói khác đi là sống lâu bị hoà với Mầu Hà nội. ( em nói phét thôi nhé, chứ chẳng phải đâu) 
Ngày trước ở đồng bằng Bắc Bộ, một người đàn ông dời bỏ nơi họ sinh ra lớn lên đến sống ở một làng quê khác, những năm đầu họ sẽ không được ăn cỗ ở đình làng (một hình thức công nhận thân phận), không được tham gia việc làng cho dù họ vẫn đóng đủ các loại thuế. Con họ sinh ra ở làng mới gọi là thế hệ thứ hai. Những đứa trẻ này từ bé đi học, chăn trâu, chơi với trẻ con hàng xóm, lớn lên lao động với người làng mới nhưng ít nhiều còn ảnh hưởng văn hóa quê cũ qua người cha, hoặc những lần về thăm. Đến thế hệ thứ ba, giọng nói, ngôn ngữ hàng ngày hoàn toàn theo quê mới, văn hóa quê cũ nhạt nhòa (người Việt ở nước ngoài gọi thế hệ thứ ba là thế hệ chuối, vỏ vẫn vàng nhưng ruột trắng). Đến thế hệ thứ tư, dù còn liên hệ song văn hóa quê cũ mất hẳn. Và từ thế hệ này trở đi, đàn ông được ăn cỗ ở đình, được tham gia việc làng, tức là họ chính thức thành người của làng mới. Thế kỷ 15, khi nhà Lê chia ruộng cho nông dân gọi là “khẩu phần điền”, người thế hệ thứ tư được hưởng ngang bằng với người gốc làng đó. Nếu di cư ra Thăng Long-Hà Nội, mọi thứ đơn giản hơn nhưng họ vừa tự nguyện, vừa chấp nhận cưỡng bức theo cái “khung văn hóa” để hòa nhập. Và thế hệ con, cháu, chắt họ trong căn cước văn hóa là văn hóa Hà Nội. Gốc văn hóa quan trọng hơn gốc địa lý vì con người tồn tại và phát triển dựa vào văn hóa.

Ngày trước ở đồng bằng Bắc Bộ, một người đàn ông dời bỏ nơi họ sinh ra lớn lên đến sống ở một làng quê khác, những năm đầu họ sẽ không được ăn cỗ ở đình làng (một hình thức công nhận thân phận), không được tham gia việc làng cho dù họ vẫn đóng đủ các loại thuế. Con họ sinh ra ở làng mới gọi là thế hệ thứ hai. Những đứa trẻ này từ bé đi học, chăn trâu, chơi với trẻ con hàng xóm, lớn lên lao động với người làng mới nhưng ít nhiều còn ảnh hưởng văn hóa quê cũ qua người cha, hoặc những lần về thăm. Đến thế hệ thứ ba, giọng nói, ngôn ngữ hàng ngày hoàn toàn theo quê mới, văn hóa quê cũ nhạt nhòa (người Việt ở nước ngoài gọi thế hệ thứ ba là thế hệ chuối, vỏ vẫn vàng nhưng ruột trắng). Đến thế hệ thứ tư, dù còn liên hệ song văn hóa quê cũ mất hẳn. Và từ thế hệ này trở đi, đàn ông được ăn cỗ ở đình, được tham gia việc làng, tức là họ chính thức thành người của làng mới. Thế kỷ 15, khi nhà Lê chia ruộng cho nông dân gọi là “khẩu phần điền”, người thế hệ thứ tư được hưởng ngang bằng với người gốc làng đó. Nếu di cư ra Thăng Long-Hà Nội, mọi thứ đơn giản hơn nhưng họ vừa tự nguyện, vừa chấp nhận cưỡng bức theo cái “khung văn hóa” để hòa nhập. Và thế hệ con, cháu, chắt họ trong căn cước văn hóa là văn hóa Hà Nội. Gốc văn hóa quan trọng hơn gốc địa lý vì con người tồn tại và phát triển dựa vào văn hóa.
Chỉnh sửa cuối:

