Tỷ lệ dư nợ tín dụng/GDP của Việt Nam đã trên 140%, trong nhóm nước có tỷ lệ cao nhất theo đánh giá của quốc tế.
Đây là một trong những nội dung mà Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Nguyễn Thị Hồng báo cáo lên Thủ tướng *************** trong buổi làm việc của Chính phủ với cơ quan này.
Theo Thống đốc Nguyễn Thị Hồng, nếu để tỷ lệ này tiếp tục tăng cao và vốn vay trung dài hạn cũng dựa nhiều vào ngân hàng thì sẽ tạo áp lực lớn đối với việc cân đối vốn của hệ thống ngân hàng và cân đối vĩ mô. Đây là một trong những khó khăn đối với hoạt động cấp tín dụng.
Nhận xét về quy mô dư nợ tín dụng/GDP, TS. Cấn Văn Lực, Thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách Tài chính Tiền tệ quốc gia cũng khẳng định là ngày càng lớn và đang ở mức khoảng 140%, do đó dẫn đến việc lựa chọn kiểm soát tín dụng thận trọng.
Năm 2020, tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế đạt 12,13%. Trong năm nay, các nhà hoạch định chính sách dự báo trước nhu cầu vốn của nền kinh tế có thể phục hồi mạnh mẽ hơn khi Việt Nam đã thành công kiểm soát Covid-19 và cùng với đó, vaccine đã bắt được sản xuất, dần phân phối trên toàn cầu. Theo đó, kịch bản tăng trưởng tín dụng đầu tiên được đặt ra ở 12-14%.
Tuy nhiên, căn cứ trên room tín dụng mà NHNN giao cho các Ngân hàng ở cuối quý I/2021, sau gần trọn một quý xem xét bối cảnh và chỉ giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng theo quý đầu năm, có thể thấy ở mức 10-12% mục tiêu toàn ngành đặt ra, NHNN đang thể hiện sự thận trọng cao. Mục tiêu này như một lãnh đạo NHNN thông tin, chia theo 3 kịch bản bắt đầu từ mức tăng trưởng tín dụng 8%. Và điều đó dường như cũng phản ánh đúng những khó khăn mà Thống đốc NHNN đã báo cáo lên Thủ tướng khi ngành – giữa động cơ mong muốn đạt được tăng trưởng tín dụng cao, tăng cung tiền để hỗ trợ nền kinh tế đạt mục tiêu tăng trưởng cao mà Quốc hội đã giao trong năm nay (6%) – với lo ngại trước nguy cơ suy giảm chất lượng tài sản của hệ thống ngân hàng.
Với tình cảnh này, một chuyên gia trong ngành ngân hàng nhận xét, mặc dù ngày càng có nhiều ngân hàng đạt chuẩn Basel II và thậm chí công bố đạt đủ 3 trụ cột Basel II, đang chuẩn bị tiến Basel III; song cần lưu ý rằng trên thế giới người ta đã áp dụng chuẩn Basel III từ lâu. Hơn nữa, sự bất ổn của Covid-19 vẫn còn tiếp diễn và có thể để lại những kệ lụy kéo dài bao gồm cả nợ xấu và yếu tố kỳ vọng lạm phát gia tăng.
Thông tư số 03/2021/TT-NHNN mà NHNN ban hành với lộ trình giãn nợ 3 năm đã cho cơ quan quản lý đón lường điều này và thận trọng để các ngân hàng có điều kiện xử lý nợ, giúp các thành phần vay nợ trong nền kinh tế cũng “dễ thở”.
Do đó, NHNN khó có thể phá vỡ thế thận trọng để thúc đẩy tỷ lệ dư nợ tín dụng/GDP lên một quy mô cao hơn nữa. Nói cách khác, dư địa tín dụng của ngành ngân hàng đang khá hẹp và cần những cú “đột kích” để phá vỡ những nút thắt này, giúp điều kiện rộng rãi hơn thúc đẩy tăng dư nợ mạnh mẽ hơn.
m.tapchitaichinh.vn
Đây là một trong những nội dung mà Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Nguyễn Thị Hồng báo cáo lên Thủ tướng *************** trong buổi làm việc của Chính phủ với cơ quan này.
Theo Thống đốc Nguyễn Thị Hồng, nếu để tỷ lệ này tiếp tục tăng cao và vốn vay trung dài hạn cũng dựa nhiều vào ngân hàng thì sẽ tạo áp lực lớn đối với việc cân đối vốn của hệ thống ngân hàng và cân đối vĩ mô. Đây là một trong những khó khăn đối với hoạt động cấp tín dụng.
Nhận xét về quy mô dư nợ tín dụng/GDP, TS. Cấn Văn Lực, Thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách Tài chính Tiền tệ quốc gia cũng khẳng định là ngày càng lớn và đang ở mức khoảng 140%, do đó dẫn đến việc lựa chọn kiểm soát tín dụng thận trọng.
Năm 2020, tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế đạt 12,13%. Trong năm nay, các nhà hoạch định chính sách dự báo trước nhu cầu vốn của nền kinh tế có thể phục hồi mạnh mẽ hơn khi Việt Nam đã thành công kiểm soát Covid-19 và cùng với đó, vaccine đã bắt được sản xuất, dần phân phối trên toàn cầu. Theo đó, kịch bản tăng trưởng tín dụng đầu tiên được đặt ra ở 12-14%.
Tuy nhiên, căn cứ trên room tín dụng mà NHNN giao cho các Ngân hàng ở cuối quý I/2021, sau gần trọn một quý xem xét bối cảnh và chỉ giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng theo quý đầu năm, có thể thấy ở mức 10-12% mục tiêu toàn ngành đặt ra, NHNN đang thể hiện sự thận trọng cao. Mục tiêu này như một lãnh đạo NHNN thông tin, chia theo 3 kịch bản bắt đầu từ mức tăng trưởng tín dụng 8%. Và điều đó dường như cũng phản ánh đúng những khó khăn mà Thống đốc NHNN đã báo cáo lên Thủ tướng khi ngành – giữa động cơ mong muốn đạt được tăng trưởng tín dụng cao, tăng cung tiền để hỗ trợ nền kinh tế đạt mục tiêu tăng trưởng cao mà Quốc hội đã giao trong năm nay (6%) – với lo ngại trước nguy cơ suy giảm chất lượng tài sản của hệ thống ngân hàng.
Với tình cảnh này, một chuyên gia trong ngành ngân hàng nhận xét, mặc dù ngày càng có nhiều ngân hàng đạt chuẩn Basel II và thậm chí công bố đạt đủ 3 trụ cột Basel II, đang chuẩn bị tiến Basel III; song cần lưu ý rằng trên thế giới người ta đã áp dụng chuẩn Basel III từ lâu. Hơn nữa, sự bất ổn của Covid-19 vẫn còn tiếp diễn và có thể để lại những kệ lụy kéo dài bao gồm cả nợ xấu và yếu tố kỳ vọng lạm phát gia tăng.
Thông tư số 03/2021/TT-NHNN mà NHNN ban hành với lộ trình giãn nợ 3 năm đã cho cơ quan quản lý đón lường điều này và thận trọng để các ngân hàng có điều kiện xử lý nợ, giúp các thành phần vay nợ trong nền kinh tế cũng “dễ thở”.
Do đó, NHNN khó có thể phá vỡ thế thận trọng để thúc đẩy tỷ lệ dư nợ tín dụng/GDP lên một quy mô cao hơn nữa. Nói cách khác, dư địa tín dụng của ngành ngân hàng đang khá hẹp và cần những cú “đột kích” để phá vỡ những nút thắt này, giúp điều kiện rộng rãi hơn thúc đẩy tăng dư nợ mạnh mẽ hơn.

Tỷ lệ dư nợ tín dụng/GDP Việt Nam ở top cao, dư địa tiền tệ ngày càng hẹp
Tỷ lệ dư nợ tín dụng/GDP của Việt Nam đã trên 140%, trong nhóm nước có tỷ lệ cao nhất theo đánh giá của quốc tế.