Họ nói đúng mà cụ, người dân không có kiến thức tài chính thì hay nhầm lẫn. Trong một giao dịch phát hành trái phiếu thường có các bên sau:
1. Tổ chức phát hành: là bên phát hành trái phiếu, thu tiền, có nghĩa vụ trả nợ (vụ này là An Đông).
2. Nhà đầu tư/bên đặt mua/người sở hữu trái phiếu: là công ty ck hoặc quỹ hoặc ngân hàng mua, sau đó họ có thể phân phối thứ cấp cho nhà đầu tư khác (cả cá nhân).
3. Đại lý phát hành/tư vấn phát hành/môi giới: là công ty chứng khoán (ở đây là Tân Việt) và không có nghĩa vụ trả nợ.
4. Đại diện người sở hữu trái phiếu: vì người sở hữu trái phiếu public rất nhiều nên cần có tổ chức là đại diện người sở hữu trái phiếu, thường là cty chứng khoán (cũng là Tân Việt, nên họ mới đứng ra giải quyết, thu xếp để đòi nợ từ tổ chức phát hành cho nhà đầu tư, nhưng vai trò hạn chế lắm, phụ thuộc vào khả năng trả nợ của tc phát hành thôi).
5. Bảo lãnh phát hành: bảo đảm cho tổ chức phát hành thành công, nếu không phát hành hết trái phiếu thì sẽ có trách nhiệm mua. Thực ra trên thị trường hiện nay ít có giao dịch bảo lãnh phát hành mà thường là công ty chứng khoán/ngân hàng mua sơ cấp rồi phân phối thứ cấp cho nhà đầu tư khác như nói ở 2.
6. Bảo lãnh thanh toán: là bảo lãnh của ngân hàng hoặc bảo lãnh của công ty mẹ của tổ chức phát hành, để nếu tổ chức phát hành không trả được nợ trái phiếu thì tổ chức bảo lãnh trả thay. Cái này còn ít nữa. Bán trái phiếu private cho nhà đầu tư tổ chức thì còn có bảo lãnh thanh toán chứ phát hành public cho công chúng thì không có.
7. Tư vấn tài chính: thường là ngân hàng đầu tư, tư vấn về mặt tài chính cho một đợt phát hành trái phiếu ví dụ định giá, làm roadshow, tìm khách hàng… Đợt phát hành lớn hoặc có tính quốc tế thì cần, nếu không thì công ty chứng khoán/tổ chức định giá làm những việc này.
8. Đại lý quản lý tài sản bảo đảm: thường là ngân hàng, đứng ra thu nhận và quản lý, xử lý ts bảo đảm nếu trái phiếu có bảo đảm.
Ngoài ra còn các bên khác như tổ chức quản lý tài khoản (ngân hàng), tổ chức định giá, xếp hạng tín nhiệm, luật…
Để xảy ra những vụ việc trên diện rộng như thế này không thể chỉ trách nhà đầu tư thiếu hiểu biết hay tham lam như có cụ hả hê mà có trách nhiệm của cơ quan quản lý nữa. Cq quản lý phải có cơ chế phòng ngừa, giám sát, phát hiện kịp thời sai phạm chứ cảnh báo mồm trên báo trong khi doanh nghiệp vẫn được phát hành bình thường thì nói làm gì.
Em chơi FX, coins, cổ phiếu nhưng chưa bao giờ mua trái phiếu vì nhìn trái phiếu có vẻ ít rủi ro hơn cổ phiếu (lãi suất cố định và cao hơn lãi suất tiết kiệm, được ưu tiên thanh toán trước cổ phiếu vì trái phiếu là nợ, cổ phiếu là vốn chủ, lại toàn do đại gia tiềm lực mạnh phát hành…) nhưng trái phiếu trên thị trường Việt Nam có rủi ro thanh khoản cao, hầu như không chuyển nhượng được nên quyền exit rất hạn chế. Đấy là trong tình hình thị trường trái phiếu sơ khai của Việt Nam thì vậy chứ sau này tt phát triển, trái phiếu niêm yết mua bán dễ dàng như cổ phiếu thì em chẳng ngại đầu tư. TP là kênh huy động vốn nợ cho doanh nghiệp, cũng tốt cho nền kinh tế mà qua những vụ thế này dân nghe TP càng sợ