[Funland] Ung thư phổi - Điều trị đích

xemay12345678

Xe buýt
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
847
Động cơ
266,300 Mã lực
BÀI SỐ 256: XẠ TRỊ CÓ THỂ GIÚP KÉO DÀI THỜI GIAN HỢP THUỐC ĐÍCH Ở NHỮNG BỆNH NHÂN XUẤT HIỆN TÌNH TRẠNG BỆNH TIẾN TRIỂN ÍT.




1
. Điều trị ung thư thư chia ra làm 2 loại:
->Liệu pháp điều trị cục bộ: Chỉ can thiệp vào duy nhất vị trí được chỉ định trên cơ thể bệnh nhân. Ví dụ: Phẫu thuật, Xạ trị.
->Liệu pháp điều trị toàn thân: Can thiệp vào toàn bộ cơ thể bệnh nhân. Ví dụ: Hoá trị, Miễn dịch, Thuốc Đích.

Thuốc đích tuy hình dáng nhỏ bé nhưng lại ẩn chứa trong mình một sức mạnh ghê gớm. Nó là liệu pháp điều trị toàn thân- vs mục tiêu điều trị bệnh từ chân đến đầu!!! Dù vậy, bản chất ung thư là không đồng nhất, các vị trí di căn CHƯA CHẮC đã có bản chất giống hoàn toàn với vị trí nguyên phát ở Phổi. Dẫn đến chuyện đáp ứng lồi lõm với điều trị, chỗ này đáp ứng thuốc đích nhưng chỗ kia lại ko, chỗ đó Thuốc Đích làm u bé đi nhưng chỗ khác u thậm chí còn to hơn sau khi dùng Thuốc Đích!!!

Để tối ưu hoá việc điều trị, nhiều biện pháp sẽ được thêm vào trong quá trình dùng Thuốc Đích nhằm xử lý việc đáp ứng lồi lõm đó- KHI CẦN THIẾT. Xạ Trị là một trong các biện pháp như vậy!



2. Vào hôm 13/4/2024, Chuyên gia David Chun Cheong Tsui cùng các đồng nghiệp tại Trung Tâm ung thư của Đại học Colorado, Mỹ đã công bố nghiên cứu về vai trò của Xạ Trị đối với BỆNH TIẾN TRIỂN ÍT ở những bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ đang điều trị bằng Thuốc Đích.

BỆNH TIẾN TRIỂN ÍT OPD được định nghĩa là xảy ra trong quá trình điều trị, với sự xuất hiện tiến triển ở một vài vị trí ( từ 5 trở xuống ) nội sọ hoặc ngoại sọ trong khi các vị trí khác trên toàn thân vẫn đang được kiểm soát tốt bởi Thuốc Đích.

Thời gian sống không bệnh tiến triển lần 1 được định nghĩa là là khoảng thời gian kể từ thời điểm bắt đầu điều trị Thuốc Đích cho tới thời điểm Xạ Trị lần đầu tiên do xảy ra bệnh tiến triển ít.

Thời gian sống không bệnh tiến triển mở rộng được định nghĩa là khoảng thời gian kể từ thời điểm bắt đầu Xạ Trị lần đầu tiên cho tới thời điểm thay đổi liệu pháp điều trị toàn thân, tử vong hoặc không thể theo dõi tiếp.

Nghiên cứu được thực hiện trong 6 năm, kể từ năm 2014 cho tới năm 2020. Tổng số 89 bệnh nhân đã được đưa vào nghiên cứu ( dương tính EGFR, ALK, ROS1, RET, BRAF V600E).
Kết quả cho thấy:
-> Tỷ lệ bệnh nhân xạ vô 1,2,3,4,5 vị trí bệnh tiến tiển lần lượt là 75.4%, 16.9%, 6.6%, 0.5% và 0.5%.
-> Não và Xương là 2 vị trí được xạ nhiều nhất khi lần lượt chiếm tới 28.5% và 28.5%. Tiếp theo đó là phổi chiếm 17.5% và hạch bạch huyết chiếm 15.4%.
-> Trung vị của thời gian sống không bệnh tiến triển lần 1 và thời gian sống không bệnh tiến triển mở rộng lần lượt đạt 10.2 tháng và 6.7 tháng. Thời gian sống không bệnh tiến triển mở rộng được nhận thấy là tương tự nhau ở các loại đột biến gen khác nhau trong nghiên cứu. Tỷ lệ bệnh nhân đã Xạ vô 1 vị trí và trong lần bệnh tiến triển tiếp theo chỉ có DUY NHẤT 1 vị trí bệnh tiến triển ít đạt 51.4%.



3. Nhóm nghiên cứu kết luận:” Nghiên cứu của chúng tôi chỉ ra rằng Xạ Trị có thể được sử dụng NHIỀU LẦN để kéo dài thời gian hợp Thuốc Đích của bệnh nhân khi họ xuất hiện tình trạng bệnh tiến triển ít, lợi ích này đặc biệt lớn đối với những bệnh nhân có bệnh tiến triển ít ở 1 vị trí”.

Hiện có 3 nghiên cứu ngẫu nhiên đang diễn ra với mục đích đào sâu hơn chủ đề này:
->Nghiên cứu STOP.
->Nghiên cứu PROMISE-004.
->Nghiên cứu HALT.

Chúng ta cùng chờ xem!





Radiation-Therapy_G_652842746.jpg
 

xemay12345678

Xe buýt
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
847
Động cơ
266,300 Mã lực
BÀI SỐ 257: CẬP NHẬT THÔNG TIN MỚI NHẤT VỀ THUỐC ĐÍCH EGFR THẾ HỆ 4.




1
.Cách đây 2 năm chúng ta đã từng bàn về Thuốc đích EGFR thế hệ 4 JIN-A02. Tại thời điểm đó, nghiên cứu chỉ đang diễn ra ở động vật chứ chưa được thực hiện trên người. Dù vậy, kết quả mà JIN-A02 đạt được là thực sự xuất sắc! Trong bài báo cáo tại Hội Nghị ESMO năm 2022, Giáo sư Cho- người đứng đầu nghiên cứu liên tục nhấn mạnh rằng JIN-A02 sẽ là viên thuốc đích thế hệ 4 tốt nhất, một kẻ thay đổi cuộc chơi thực sự trong cuộc chiến ung thư phổi.

Tin mừng là dự đoán của Giáo sư Cho đang dần trở thành hiện thực!


2. Vào hôm 11/4/2024, Tập đoàn dược phẩm J INTS BIO đã cập nhật kết quả mới nhất của Thuốc đích EGFR thế hệ 4 JIN-A02 khi được nghiên cứu trên người ở phase1. Kết quả cho thấy:

=>> Thuốc đích EGFR thế hệ 4 JIN-A02 cho thấy lợi ích lâm sàng ngay lập tức khi khởi đầu điều trị bằng một liều thấp trên bệnh nhân. Việc đáp ứng này đã được quan sát thấy khi sử dụng ở các liều tăng dần theo thứ tự là 25mg/ngày, 50mg/ngày và 100mg/ngày. Khi tăng liều- lợi ích lâm sàng mà bệnh nhân đạt được cũng TĂNG theo.

=>> Thuốc đích EGFR thế hệ 4 JIN-A02 sở hữu khả năng dung nạp rất tốt. Hiện tại, với liều 100mg/ngày và thời gian theo dõi trên 8 tháng, bệnh nhân hoàn toàn không mắc độc tính trên tim hay các tác dụng phụ điển hình như phát ban, tiêu chảy.

=>> Bắt đầu từ Quý 3 trong năm 2024, Thuốc đích EGFR thế hệ 4 JIN-A02 sẽ được nghiên cứu ở liều cao hơn, cụ thể là liều 150mg/ngày.


3. Trong ảnh là hình chụp khối u TRƯỚCSAU khi dùng Thuốc đích JIN-A02:
->Trước khi dùng Thuốc đích JIN-A02: khối u có kích thước 21mm.
->Sau khi dùng Thuốc đích JIN-A02: khối u co ngót còn 10mm, tức GIẢM HƠN MỘT NỬA!!!







Lung_CT_scan_image_lobe_tumor_lesion_21mm___10mm.jpg
 

xemay12345678

Xe buýt
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
847
Động cơ
266,300 Mã lực
BÀI SỐ 258: TIÊU CHUẨN CHĂM SÓC MỚI ĐƯỢC THIẾT LẬP TRONG CỘNG ĐỒNG ALK. THUỐC ĐÍCH ALECTINIB CHÍNH THỨC ĐƯỢC PHÊ DUYỆT LÀM BỔ TRỢ SAU MỔ!



Cách đây chưa đầy 24 tiếng, vào ngày 18/4/2024, Cục quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ FDA đã chính thức phê duyệt Thuốc đích Alectinib làm điều trị bổ trợ SAU mổ đối với bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn sớm dương tính ALK ( Giai đoạn từ 1B với kích thước u >=4cm cho đến giai đoạn 3A). Bệnh nhân được chỉ định dùng Alectinib ngày 2 lần, mỗi lần 600mg, uống kèm thức ăn. Thời gian dùng bổ trợ Alectinib lên đến 2 năm hoặc cho tới khi bệnh tái phát hay cơ thể người bệnh ko thể dung nạp được thuốc.


Việc phê duyệt này được quyết định sau đúng 8 ngày kể từ ngày nhóm Chuyên gia Yi-Long Wu công bố dữ liệu mới nhất của nghiên cứu ALINA trên tạp chí y học số 1 thế giới NEJM ( mình đã bàn việc này ở bài cũ). Bệnh nhân trong nghiên cứu ALINA sẽ được chia làm 2 nhánh:
->Nhánh 1: Được điều trị bổ trợ sau mổ bởi Thuốc đích Alectinib trong 2 năm.
->Nhánh 2: Được điều trị bổ trợ sau mổ bởi Hoá trị Platinum 4 chu kỳ, mỗi chu kỳ 21 ngày.

Kết quả cho thấy:

->Ở phân nhóm bệnh nhân giai đoạn 2 hoặc giai đoạn 3A, tỷ lệ bệnh nhân vẫn sống và đạt tình trạng không bệnh tại mốc 2 năm ở nhánh 1 là 93.8% còn nhánh 2 là 63% ( HR 0.24; 95%CI 0.13-0.45; p<0.001). Khi phân tích dữ liệu theo dự định điều trị ITT, tỷ lệ ở nhánh 1 và nhánh 2 tương ứng đạt 93.6% và 63.7% ( HR 0.24; 95%CI 0.13-0.43; p<0.001).

->Ở phân nhóm bệnh nhân giai đoạn 1B, tỷ lệ bệnh nhân đạt tình trạng không bệnh tại mốc 2 năm ở nhánh 1 là 92.3% và nhánh 2 là 71.6%. Còn tại mốc 3 năm, tỷ lệ ở nhánh 1 và nhánh 2 lần lượt là 92.3% ( giữ nguyên) và 61.4%.

->Thuốc đích Alectinib cũng cho cải thiện đáng kể thời gian sống thêm không bệnh nội sọ khi so với Hoá trị, cụ thể tỷ số nguy hại HR là 0.22.

->Dữ liệu sống còn toàn bộ hiện chưa hoàn thiện và sẽ tiếp tục được cập nhật.

Thêm một tiêu chuẩn chăm sóc được thiết lập. Cơ hội chữa khỏi bệnh ung thư sẽ càng ngày càng nhiều!










Roche-s-Alecensa-smashes-phase-3-as-adjuvant-therapy-for-lung-cancer.jpg
 
Chỉnh sửa cuối:

xemay12345678

Xe buýt
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
847
Động cơ
266,300 Mã lực
BÀI SỐ 259: PHÁC ĐỒ ĐIỀU TRỊ TIÊU CHUẨN CHO BỆNH NHÂN UNG THƯ PHỔI KHÔNG TẾ BÀO NHỎ ÂM TÍNH ĐỘT BIẾN GEN. MIỄN DỊCH GỘP HOÁ TRỊ CHO THẤY LỢI ÍCH KỂ CẢ KHI BỆNH NHÂN ÂM TÍNH BỘC LỘ MIỄN DỊCH PDL1.



1
.Cách đây 1 năm chúng ta đã từng bàn về Nghiên cứu KEYNOTE-189. Nghiên cứu KEYNOTE-189 được thiết kế để đánh giá hiệu quả của phác đồ Thuốc miễn dịch Pembrolizumab+ Hoá trị so với phác đồ Hoá trị đơn độc khi điều trị BƯỚC ĐẦU cho bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn di căn ÂM TÍNH đột biến gen EGFR,ALK. Kết quả cho thấy:

-> Phác đồ Thuốc miễn dịch Pembrolizumab+ Hoá trị cho CẢI THIỆN thời gian sống không bệnh tiến triển và thời gian sống còn toàn bộ so với Phác đồ Hoá trị đơn độc bất kể tình trạng bộc lộ miễn dịch PDL1 của bệnh nhân. Điều này có nghĩa rằng đối với bệnh nhân âm tính EGFR,ALK thì dù PDL1 của họ cao hay thấp, dương tính ( PDL1>=1%) hay âm tính (PDL1<1%), việc điều trị cho họ bằng phác đồ Thuốc miễn dịch+Hoá trị sẽ có hiệu quả TỐT HƠN so với phác đồ hoá trị đơn độc.

-> Bởi vậy, Phác đồ Thuốc miễn dịch+ Hoá trị đã trở thành tiêu chuẩn chăm sóc bước đầu cho bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ ÂM TÍNH đột biến gen EGFR, ALK.


2. Như chúng ta đã biết bộc lộ miễn dịch PDL1 là một dấu ấn sinh học trong việc đánh giá hiệu quả của Thuốc miễn dịch- chỉ số PDL1 càng cao thì hiệu quả của thuốc miễn dịch càng cao. Nghiên cứu KEYNOTE-189 chỉ ra việc bổ sung miễn dịch vô với hoá trị đã cho thấy lợi ích trên cả những bệnh nhân âm tính PDL1 lẫn bệnh nhân dương tính PDL1.

Lợi ích của miễn dịch đối với bệnh nhân dương tính PDL1 trong phác đồ gộp là điều dễ hiểu. Vậy lợi ích của miễn dịch đối với bệnh nhân âm tính PDL1 trong phác đồ gộp là thế nào? ít hay nhiều? cụ thể ra sao?


3. Vào hôm 18/4/2024, Chuyên gia Shirish M. Gadgeel cùng các đồng nghiệp đã công bố nghiên cứu về hiệu quả của phác đồ gộp Thuốc miễn dịch Pembrolizumab+ Hoá trị trên những bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ ÂM TÍNH PDL1 ( <1%). Nghiên cứu được thực hiện trên dữ liệu của 4 nghiên cứu khác là:
->Nghiên cứu KEYNOTE-189.
->Nghiên cứu NCT03950674.
->Nghiên cứu KEYNOTE-407.
->Nghiên cứu NCT03875092.

Tổng số 442 bệnh nhân đủ điều kiện phân tích đã được đưa vào nghiên cứu. Trong đó:
->Có 255 bệnh nhân được điều trị bằng phác đồ Thuốc miễn dịch+Hoá trị.
->Có 187 bệnh nhân được điều trị bằng phác đồ Hoá trị đơn độc.

Tại trung vị thời gian theo dõi 5 năm ( 60.7 tháng ). Kết quả cho thấy:
->Phác đồ Thuốc miễn dịch+Hoá trị cho CẢI THIỆN thời gian sống còn toàn bộ so với phác đồ Hoá trị đơn độc, cụ thể tỷ số nguy hại HR là 0.64.

->Phác đồ Thuốc miễn dịch+Hoá trị cho CẢI THIỆN thời gian sống không bệnh tiến triển so với phác đồ Hoá trị đơn độc, cụ thể tỷ số nguy hại HR là 0.66.

->Tỷ lệ bệnh nhân đạt mốc sống còn 5 năm ở phác đồ Thuốc miễn dịch+Hoá trị cũng CAO HƠN khi so với phác đồ Hoá trị đơn độc, cụ thể là 12.5% so với 9.3%.

->Tỷ lệ bệnh nhân gặp tác dụng phụ từ cấp độ 3 trở lên ở phác đồ Thuốc miễn dịch+Hoá trị là 59.1% còn ở phác đồ Hoá trị đơn độc là 61.3%.


Nhóm nghiên cứu kết luận:” Với thời gian theo dõi lên đến 5 năm, Phác đồ thuốc miễn dịch+Hoá trị cho thấy CẢI THIỆN SỐNG CÒN ĐÁNG KỂ so với phác đồ Hoá trị đơn độc trong điều trị BƯỚC ĐẦU trên những bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn di căn sở hữu bộc lộ miễn dịch PDL1 ÂM TÍNH ( <1%). Kết quả này tiếp tục khẳng định phác đồ Thuốc miễn dịch+Hoá trị là tiêu chuẩn chăm sóc đối với phân nhóm bệnh nhân này”.






03-Immuno-Early-1500.jpeg
 

anhwin

Đi bộ
Biển số
OF-857866
Ngày cấp bằng
23/4/24
Số km
2
Động cơ
0 Mã lực
Tuổi
38
Cám ơn cụ ! Mẹ em bị k phổi di căn não từ hồi 9/2014 điều trị đích đến nay ! Lậy Trời Lậy Phật mọi việc hiện h rất ổn ! Em đi trước nên viết lên đây những kiến thức cần thiết để bệnh nhân đi sau tham khảo từ đó rút ra kinh nghiệm cho bản thân mình ! Nếu ko tự tìm hiểu mà trông chờ vào bác sĩ thì hiện h mọi thứ chỉ là kỉ niệm thôi cụ à ! em sẽ post bài sau về những sai lầm giết người của bs việt nam mình , có cả những vị như giáo sư bạch mai, viện phó tâm thần trung ương còn đâu tiến sĩ này nọ thì cả đống ! Mẹ em đen đủi khi phó mặc cho tụi họ , may là em đã từ bỏ kịp trước khi quá muộn !
Good ,Quá hay
 

xemay12345678

Xe buýt
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
847
Động cơ
266,300 Mã lực
BÀI SỐ 260: TÌNH TRẠNG THỂ CHẤT KÉM LÀM GIẢM HIỆU QUẢ CỦA THUỐC ĐÍCH. ĐẶC BIỆT KHI BỆNH NHÂN BỊ THÊM DI CĂN GAN VÀ GIẢM ALBUMIN MÁU.



1
.Cách đây 1 tháng chúng ta đã bàn về việc khi điều trị Thuốc đích thế hệ 3 Osimertinib, thời gian sống còn của bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ sẽ GIẢM MỘT NỬA nếu họ sở hữu các yếu tố tiên lượng xấu. Hôm nay chúng ta cùng trở lại chủ đề các yếu tố tiên lượng xấu nhưng việc khảo sát sẽ được thực hiện trên bệnh nhân chủng tộc Nhật Bản và Thuốc đích mà họ sử dụng là Thuốc đích thế hệ 1.


2. Vào tháng 2/2024, Chuyên gia Yusuke Okuma cùng các đồng nghiệp đã công bố nghiên cứu về hiệu quả của Thuốc đích khi điều trị cho những bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ EGFR sở hữu tình trạng thể chất kém.

Chỉ số toàn trạng ECOG được dùng để đánh giá lâm sàng và hoạt động thể chất của bệnh nhân. Chỉ số ECOG được chia theo thang điểm 0,1,2,3,4,5. Trong đó:
-> 0 là bệnh nhân hoàn toàn ko có triệu chứng gì.
-> 1 là có triệu chứng nhưng vẫn đi lại được dễ dàng.
-> 2 là có triệu chứng và nằm giường ít hơn 50% thời gian trong ngày.
-> 3 là có triệu chứng và nằm giường lớn hơn 50% thời gian nhưng không liệt giường.
-> 4 là liệt giường.
-> 5 là tử vong.

Tình trạng thể chất kém được định nghĩa là khi chỉ số ECOG của bệnh nhân ở mức 3 và 4. Tình trạng thể chất tốt được định nghĩa là khi chỉ số ECOG của bệnh nhân ở mức 0,1,2.


Nghiên cứu được thực hiện trên dữ liệu của 9872 bệnh nhân. Có 1965 bệnh nhân ( chiếm 19.9%) dương tính đột biến gen EGFR đủ điều kiện để phân tích. Có 1846 bệnh nhân ( chiếm 93.9%) mang đột biến cổ điển và 119 bệnh nhân ( chiếm 6.1%) mang đột biến hiếm. Trong đó có 171 bệnh nhân ở tình trạng thể chất kém và 1794 bệnh nhân ở tình trạng thể chất tốt. Kết quả cho thấy:
->Trung vị thời gian sống còn toàn bộ của bệnh nhân có thể chất tốt GẤP ĐÔI bệnh nhân có thể chất kém, cụ thể là 31.5 tháng so với 15.5 tháng.

->Tỷ lệ bệnh nhân có thể chất tốt đạt mốc sống còn 1 năm là 82.4%, trong khi con số này ở bệnh nhân thể chất kém chỉ là 57.7%.

->Tỷ lệ bệnh nhân có thể chất tốt đạt mốc sống còn 2 năm là 60.3%, trong khi con số này ở bệnh nhân thể chất kém chỉ là 26.4%.

->Tỷ lệ bệnh nhân có thể chất tốt đạt mốc sống còn 3 năm là 40.5%, trong khi con số này ở bệnh nhân thể chất kém chỉ là 9.0%.


Trong phân nhóm bệnh nhân có thể chất kém, phân tích cho thấy:
->Bệnh nhân di căn xương KO có khác biệt sống còn với bệnh nhân ko di căn xương.
->Bệnh nhân di căn não KO có khác biệt sống còn với bệnh nhân ko di căn não.
->Bệnh nhân di căn gan tiên lượng xấu so với bệnh nhân ko di căn gan.
->Bệnh nhân bị giảm Albumin máu ( < 3.5g/dL) thường đi kèm với tiên lượng xấu mặc dù chưa đủ ý nghĩa thống kê.



Nhóm nghiên cứu kết luận:” Tình trạng thể chất kém sẽ làm giảm hiệu quả của Thuốc đích và là một yếu tố tiên lượng xấu đối với những bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ dương tính đột biến gen EGFR. KHÔNG NÊN áp dụng kết quả của các nghiên cứu CHỈ bao gồm những bệnh nhân có thể chất tốt sang cho những bệnh nhân có thể chất kém vì họ là những bệnh nhân KHÁC NHAU. Ngoài ra, di căn gan hoặc giảm Albumin máu là yếu tố tiên lượng xấu khi điều trị cho bệnh nhân thể chất kém bằng Thuốc đích EGFR”.






GettyImages-147219202-59b7e4e6054ad90011fdf006.jpg
 

xemay12345678

Xe buýt
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
847
Động cơ
266,300 Mã lực
BÀI SỐ 261: LƯU Ý TÁC DỤNG PHỤ VỀ MẮT KHI DÙNG THUỐC ĐÍCH.



1
.Cách đây hơn 2 thập kỷ, phương pháp điều trị chính cho ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn muộn là Hoá Trị. Hoá trị giúp tiêu diệt tế bào ung thư đồng thời cũng tiêu diệt luôn cả tế bào lành, điều này đã gây ra những tác dụng phụ đáng kể trên bệnh nhân. Vào đầu năm 2000, hàng loạt những phát hiện đột phá về cơ chế phân tử đã dẫn đến sự ra đời của nhiều loại Thuốc Đích có thể tiêu diệt tế bào ung thư mà ko làm tổn hại tới tế bào lành. Bệnh nhân khi điều trị đích sẽ đạt được hiệu quả cao mà không gặp phải bất cứ tác dụng phụ nào đáng chú ý, chất lượng sống đạt được như thời điểm trước khi có bệnh.


Có rất nhiều Thuốc đích nhưng loại được biết đến nhiều và sử dụng rộng rãi nhất là Thuốc đích dành cho đột biến gen EGFR. Thuốc đích EGFR có 3 thế hệ 1,2,3 và thế hệ 4 hiện đang được phát triển. Trong 3 thế hệ đích EGFR thì thế hệ 3 Osimertinib được ưa sử dụng hơn cả vì hiệu quả cao mà tác dụng phụ nếu có- chỉ ở cấp độ nhẹ, đều được xử lý một cách dễ dàng. Các tác dụng phụ điển hình có thể kể đến như khô da, lở miệng, đi ngoài, phát ban…


Viêm giác mạc là tình trạng giác mạc trở nên sưng phù hoặc viêm, làm cho mắt bị đỏ, đau và ảnh hưởng đến thị lực. Bệnh nhân bị viêm giác mạc có thể gặp các triệu chứng như chảy nước mắt, đau mắt, đỏ mắt, mờ mắt, cảm giác có sạn trong mắt, nhạy cảm với ánh sáng…


Theo báo cáo của Tập đoàn dược phẩm Astrazeneca, trong số 1479 bệnh nhân tham gia thử nghiệm lâm sàng sử dụng thuốc đích thế hệ 3 Osimertinib, tỷ lệ bệnh nhân mắc tác dụng phụ VIÊM GIÁC MẠC là 0.7%. Bắt đầu từ năm 2017, viêm giác mạc đã được Tập đoàn Astrazeneca thêm vào danh sách tác dụng phụ mà bệnh nhân dùng Thuốc Osimertinib có thể mắc phải. Dù vậy, tác dụng phụ viêm giác mạc vẫn chỉ dừng lại ở báo cáo mà chưa có bất kỳ nghiên cứu nào đủ tin cậy để đưa ra kết luận hiểu sâu hơn về tác dụng phụ này.

Mọi chuyện đã thay đổi theo chiều hướng rõ ràng vào đầu năm 2024!



2. Vào ngày 11/1/2024, Chuyên gia Pin-Chia Huang cùng các đồng nghiệp tại Trường Y Khoa Harvard đã công bố nghiên cứu về mối liên quan giữa Thuốc đích EGFR và nguy cơ VIÊM GIÁC MẠC.

Nghiên cứu được thực hiện trên dữ liệu của 1388108 bệnh nhân ung thư phổi. Trong đó có 22225 bệnh nhân sử dụng Thuốc đích EGFR làm phương pháp điều trị. Các loại thuốc đích EGFR mà bệnh nhân sử dụng trong nghiên cứu là Thuốc đích thế hệ 1 Gefitinib, Erlotinib; Thuốc đích thế hệ 2 Afatinib; Thuốc đích thế hệ 3 Osimertinib.
Kết quả cho thấy:
=>> Bệnh nhân điều trị bằng Thuốc đích EGFR có nguy cơ viêm giác mạc CAO HƠN so với bệnh nhân ko dùng thuốc, cụ thể tỷ số nguy hại HR là 1.520.

=>> Đặc biệt, những bệnh nhân dùng Thuốc đích thế hệ 2 Afatinib sẽ có nguy cơ viêm giác mạc còn cao hơn nữa, cụ thể tỷ số nguy hại HR là 2.229.


Điều trị đích là một quãng thời gian dài, có thể lên đến cả chục năm. Với kết quả nghiên cứu này, các bác sĩ cần lường trước tác dụng phụ viêm giác mạc có thể xảy ra xuyên suốt trong quá trình bệnh nhân điều trị. Viêm giác mạc nếu ko được phát hiện sớm và can thiệp kịp thời sẽ để lại những hậu quả vô cùng nghiêm trọng, thậm chí có thể khiến bệnh nhân hỏng thị lực, mù vĩnh viễn.








AJGP-08-2019-Focus-Lee-Microbial-Keratitis-Feature.jpeg
 

xemay12345678

Xe buýt
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
847
Động cơ
266,300 Mã lực
BÀI SỐ 262: THÊM TIN VUI CHO BỆNH NHÂN UNG THƯ PHỔI RƠI VÀO CẢNH HẾT BÀI!



1
.Kháng thuốc là cơn ác mộng của bệnh nhân ung thư trong quá trình điều trị. Điều gì sẽ chờ đợi bệnh nhân sau khi kháng thuốc? Một phác đồ sẽ được gối thêm vào ngay sau đó? hay đường cùng rồi, ko còn phác đồ gì nữa?

Năm 2024 là một năm bùng nổ về các liệu pháp được phê duyệt và tin vui lần này tiếp tục đến với những bệnh nhân đang rơi vào cảnh hết bài hoặc gần hết bài-> những bệnh nhân đã KHÁNG Miễn dịch và Hoá trị!


2. Vào hôm 25/4/2024, Tập đoàn sinh học ImmunityBio có trụ sở tại California, Mỹ đã cập nhật kết quả của Nghiên cứu QUILT 3.055. Nghiên cứu QUILT 3.055 được thiết kế để đánh giá hiệu quả của Thuốc Nogapendekin alfa inbakicept-pmln ( N803-Anktiva) trên 11 loại khối u:

->Ung thư phổi không tế bào nhỏ.
->Ung thư phổi tế bào nhỏ.
->Ung thư biểu mô tế bào chuyển tiếp ( bàng quang )
->Ung thư biểu mô tế bào vảy vùng đầu và cổ.
->Ung thư biểu mô tế bào Merkel.
->Ung thư tế bào hắc tố.
->Ung thư tế bào thận.
->Ung thư dạ dày.
->Ung thư cổ tử cung.
->Ung thư biểu mô tế bào gan.
->Các khối u thể rắn thiếu hụt protein sửa chữa bắt cặp sai (dMMR) có tính bất ổn định vi vệ tinh cao (MSI-H).

Khi phân tích trên nhóm bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ, kết quả cho thấy:
-> Phác đồ gộp Thuốc Nogapendekin alfa inbakicept-pmln + Thuốc miễn dịch có trung vị thời gian sống còn toàn bộ dài GẦN GẤP ĐÔI so với Phác đồ Hoá trị tiêu chuẩn trong điều trị bước 2 và bước 3 trên những bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ đã KHÁNG Thuốc miễn dịch và Hoá trị.

->Hiệu quả của Thuốc Nogapendekin alfa inbakicept-pmln được quan sát thấy trên cả những bệnh nhân dương tính PDL1 và bệnh nhân âm tính PDL1.


3. Cơ thể chúng ta tồn tại 2 vũ khí tự nhiên có khả năng tiêu diệt tế bào ung thư là tế bào NK và tế bào T sát thủ:
-> Tế bào NK là một bạch huyết bào trong hệ miễn dịch tự nhiên, có khả năng phản ứng nhanh với các tế bào nhiễm virus và tế bào dị biệt bao gồm các tế bào có khả năng hình thành ung thư. Chức năng của chúng là nhận biết và tiêu diệt các tế bào nhiễm virus kể cả các tế bào mới sinh ra.

-> Tế bào T sát thủ (hay tế bào T CD8+) là tế bào miễn dịch dòng lympho có nguồn gốc từ tủy xương, được biệt hóa và trưởng thành trong tuyến ức. Tế bào T sát thủ phân bố ở nhiều loại mô, cơ quan trong cơ thể như tủy xương, máu ngoại vi, gan, phổi, lá lách và hạch bạch huyết. Trong hệ miễn dịch, tế bào T sát thủ đóng vai trò quan trọng trong việc chống lại các tác nhân gây bệnh như tế bào nhiễm virus và tế bào ung thư.

Thuốc Nogapendekin alfa inbakicept-pmln được thiết kế với mục đích kích hoạt cũng như tăng cường khả năng giết tế bào ung thư của tế bào NK và tế bào T sát thủ.


4. Trái ngọt đầu tiên đã đến với Tập đoàn ImmunityBio khi vào ngày 22/4/2024, Cục quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ đã chính thức phê duyệt Thuốc Nogapendekin alfa inbakicept-pmln trong điều trị ung thư bàng quang chưa xâm lấn cơ.

Ngoài ra, với dữ liệu hiệu quả đột phá của Thuốc Nogapendekin alfa inbakicept-pmln trong điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ, Tập đoàn ImmunityBio dự kiến sẽ gặp FDA vào tháng 6 tới đây nhằm thảo luận về một lộ trình đăng ký thuốc mới cho Thuốc Nogapendekin alfa inbakicept-pmln trong điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ!

Chúng ta cùng chờ xem!





Anktiva-ImmunityBio.jpeg
 

xemay12345678

Xe buýt
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
847
Động cơ
266,300 Mã lực
BÀI SỐ 263: TIN VUI CHO BỆNH NHÂN KHÁNG ĐÍCH EGFR VÀ ALK.



Vào ngày 8/4/2024, Công ty sinh học NUVECTIS PHARMA, INC đã ra thông cáo báo chí về hiệu quả của Thuốc NXP900 trong điều trị KHÁNG thuốc đích EGFR thế hệ 3 Osimertinib và KHÁNG thuốc đích ALK thế hệ 2 Alectinib. Kết quả cho thấy:

=>> Thuốc NXP900 khi gộp với Thuốc đích thế hệ 3 Osimertinib đã khắc phục được tình trạng kháng thuốc khi dùng Thuốc đích thế hệ 3 Osimertinib đơn độc. Dữ liệu này tái khẳng định kết quả nghiên cứu trước đây của nhóm Chuyên gia tại Tập đoàn Astrazeneca- khi nghiên cứu của họ chỉ ra rằng việc thêm NXP900 vào với Thuốc đích thế hệ 3 Osimertinib có thể khắc phục được tình trạng kháng thuốc Osimertinib.

=>> Khi được gộp vào với Thuốc đích Alectinib, Thuốc NXP900 còn giúp làm TĂNG HIỆU QUẢ của Thuốc đích Alectinib khi so với việc chỉ dùng Thuốc đích Alectinib đơn độc. Hơn thế, Thuốc NXP900 còn tỏ ra hiệu quả trong việc trị KHÁNG Thuốc đích Alectinib.


Ron Bentsur, Chủ tịch kiêm giám đốc điều hành của Công ty NUVECTIS PHARMA, INC phát biểu trước báo giới:” Chúng tôi rất vui khi có thể xác nhận một cách độc lập dữ liệu trước đây đã từng được công bố bởi nhóm nghiên cứu tại Tập đoàn Astrazeneca- chứng minh rằng Thuốc NXP900 có khả năng giải quyết bài toán kháng Thuốc đích thế hệ 3 Osimertinib. Chúng tôi cũng vui mừng thông báo rằng Thuốc NXP900 có hiệu quả trong việc trị kháng Thuốc đích ALK thế hệ 2 Alectinib”.

Thuốc NXP900 được dùng qua đường uống và hiện đang được tiến hành nghiên cứu ở Phase1 với liều khởi đầu là 20mg/ngày.

Chúng ta cùng chờ xem!!!






NXP900.png
 

xemay12345678

Xe buýt
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
847
Động cơ
266,300 Mã lực
BÀI SỐ 264: VIÊM VÀ DINH DƯỠNG KÉM CÓ THỂ LÀM GIẢM THỜI GIAN SỐNG CÒN CỦA BỆNH NHÂN UNG THƯ PHỔI DƯƠNG TÍNH ĐỘT BIẾN GEN EGFR và ALK.


1
.Trong vòng hơn tháng đổ lại đây, chúng ta đã bàn về các yếu tố tiên lượng xấu đối với bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ. Hôm nay chúng ta cùng trở lại chủ đề các yếu tố tiên lượng xấu, nhưng lần này là tình trạng VIÊMDINH DƯỠNG của bệnh nhân ung thư!


2. Vào ngày 26/4/2024, Chuyên gia Burak Bilgin cùng các đồng nghiệp đã công bố nghiên cứu về tầm quan trọng của chỉ số PNI và Điểm mGPS trong tiên lượng sống còn trên bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ dương tính đột biến gen EGFR và ALK.

->Chỉ số dinh dưỡng tiên lượng PNI được tính theo công thức:
PNI= Albumin huyết thanh (g/L) + 5 x tổng lượng lympho (10^9/L)

->Tình trạng viêm của bệnh nhân tính bằng Điểm tiên lượng Glasgow được sửa đổi mGPS theo quy ước:
+mGPS=2 nếu bệnh nhân có CRP cao (≥10 mg/L) và Albumin thấp (<35 g/L)
+mGPS=1 nếu bệnh nhân có CRP cao (≥10 mg/L) và Albumin bình thường (≥35 g/L).
+mGPS=0 nếu bệnh nhân có CRP bình thường.

Tổng số 182 bệnh nhân đã được đưa vô nghiên cứu. Trong đó có 132 bệnh nhân dương tính EGFR và 50 bệnh nhân dương tính ALK.
=>> Ở phân nhóm bệnh nhân EGFR, số bệnh nhân sở hữu đột biến EXON19 và L858R lần lượt là 53% và 47%.
+Nếu lấy chỉ số PNI làm tiêu chí phân loại thì có 62 bệnh nhân( chiếm 47%) sở hữu PNI>= 50 và 70 bệnh nhân ( chiếm 53%) sở hữu PNI<50.
+Nếu lấy Điểm mGPS làm tiêu chí phân loại thì có 52 bệnh nhân ( chiếm 39.2%) có mGPS=0, có 63 bệnh nhân( chiếm 47.7%) có mGPS=1 và 17 bệnh nhân( chiếm 13.1%) có mGPS=2.

=>> Ở phân nhóm bệnh nhân ALK:
+ Nếu lấy chỉ số PNI làm tiêu chí phân loại thì có 21 bệnh nhân( chiếm 42%) sở hữu PNI>=50 và 29 bệnh nhân( chiếm 58%) sở hữu PNI<50.
+ Nếu lấy Điểm mGPS làm tiêu chí phân loại thì có 20 bệnh nhân( chiếm 40%) có mGPS=0, 22 bệnh nhân ( chiếm 44%) có mGPS=1 và 8 bệnh nhân( chiếm 16%) có mGPS=2.

Kết quả cho thấy:
=>> Đối với bệnh nhân dương tính EGFR:
+Khi lấy chỉ số PNI làm tiêu chí. Trung vị thời gian sống không bệnh tiến triển của nhóm sở hữu PNI>=50 DÀI HƠN ĐÁNG KỂ so với nhóm sở hữu PNI<50, cụ thể là 17.47 tháng so với 12.45 tháng. Nguy cơ tiến triển bệnh hoặc tử vong của nhóm sở hữu PNI>=50 cũng THẤP HƠN 50% so với nhóm sở hữu PNI<50, cụ thể tỷ số nguy hại HR là 0.51.

+Khi lấy Điểm mGPS làm tiêu chí. Trung vị thời gian sống không bệnh tiến triển GIẢM ĐÁNG KỂ khi điểm mGPS tăng, cụ thể khi mGPS là 0,1,2 thì trung vị thời gian sống không bệnh tiến triển lần lượt là 22.4 tháng, 15.1 tháng và 5.7 tháng. Nguy cơ tiến triển bệnh hoặc tử vong của nhóm có mGPS 1 và 2 CAO HƠN GẦN 2.5 LẦN so với nhóm có mGPS bằng 0.

=>> Đối với bệnh nhân dương tính ALK:
+ Khi lấy chỉ số PNI làm tiêu chí. Trung vị thời gian sống không bệnh tiến triển của nhóm sở hữu PNI>=50 DÀI GẦN GẤP BA so với nhóm sở hữu PNI<50, cụ thể là 24.9 tháng so với 8.8 tháng.

+ Khi lấy Điểm mGPS làm tiêu chí. Trung vị thời gian sống không bệnh tiến triển GIẢM ĐÁNG KỂ khi điểm mGPS tăng, cụ thể khi mGPS là 0,1,2 thì trung vị thời gian sống không bệnh tiến triển lần lượt là 24.9 tháng, 8.8 tháng và 5.9 tháng. Nguy cơ tiến triển bệnh hoặc tử vong của nhóm có mGPS 1 và 2 CAO HƠN GẦN 2.7 LẦN so với nhóm có mGPS bằng 0.



Nhóm nghiên cứu kết luận:” Đây là nghiên cứu ĐẦU TIÊN cho thấy tầm quan trọng của Điểm mGPS và chỉ số dinh dưỡng tiên lượng PNI trong vai trò phản ánh tình trạng viêm và dinh dưỡng ở bệnh nhân ung thư phổi giai đoạn tiến triển dương tính đột biến gen EGFR, ALK. Kết quả cho thấy PNI và mGPS là những dấu ấn ĐÁNG TIN CẬY, RẺ TIỀN cũng như DỄ ÁP DỤNG trong việc tiên lượng sống còn cho bệnh nhân dương tính EGFR, ALK- qua đó giúp tìm phương án điều trị tối ưu tới mỗi người bệnh”.









viêm.jpeg
 

xemay12345678

Xe buýt
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
847
Động cơ
266,300 Mã lực
BÀI SỐ 265: THÊM LỰA CHỌN CHO BỆNH NHÂN Ở NHỮNG NƯỚC CÓ THU NHẬP TRUNG BÌNH-THẤP. PHÁC ĐỒ GỘP ĐÍCH THẾ HỆ 1 + HOÁ TRỊ CHO LỢI ÍCH CẢI THIỆN SỐNG CÒN!



1
.Vào hôm 25/4/2024, Chuyên gia Vanita Noronha cùng các đồng nghiệp đã báo cáo kết quả nghiên cứu được thiết kế NGẪU NHIÊN với mục đích đánh giá hiệu quả của Phác đồ gộp Thuốc đích thế hệ 1 Gefitinib + Hoá trị so với Thuốc đích thế hệ 1 Gefitinib đơn độc trong điều trị BƯỚC ĐẦU cho bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ dương tính đột biến gen EGFR.


2. Nghiên cứu được thực hiện trên chủng tộc Ấn Độ. Tổng cộng 350 bệnh nhân đã được đưa vô nghiên cứu. Bệnh nhân trong nghiên cứu được chia làm 2 nhánh:
-> Nhánh 1: điều trị bằng Thuốc đích thế hệ 1 Gefitinib đơn độc( 176 bệnh nhân).
-> Nhánh 2: điều trị bằng Thuốc đích thế hệ 1 Gefitinib + Hoá trị ( 174 bệnh nhân).

Tại trung vị thời gian theo dõi 5 năm, kết quả cho thấy:

=>> Trung vị thời gian sống còn toàn bộ của bệnh nhân điều trị bằng Phác đồ gộp Thuốc đích thế hệ 1 Gefitinib+ Hoá trị CAO HƠN so với bệnh nhân điều trị bằng Thuốc đích thế hệ 1 Gefitinib đơn độc, cụ thể là 27.5 tháng so với 17.6 tháng.

=>> Tỷ lệ bệnh nhân đạt mốc sống còn 5 năm khi điều trị bằng phác đồ gộp Thuốc đích thế hệ 1 Gefitinib+ Hoá trị CAO HƠN so với bệnh nhân điều trị bằng Thuốc đích thế hệ 1 Gefitinib đơn độc, cụ thể là 13.04% so với 4.42%.

=>> Tỷ lệ bệnh nhân đạt mốc sống không bệnh tiến triển 5 năm khi điều trị bằng phác đồ gộp Thuốc đích thế hệ 1 Gefitinib+ Hoá trị CAO HƠN so với bệnh nhân điều trị bằng Thuốc đích thế hệ 1 Gefitinib đơn độc, cụ thể là 6.67% so với 1.71%.

=>> Khi so với Thuốc đích thế hệ 1 Gefitinib đơn độc, Phác đồ gộp Thuốc đích thế hệ 1 Gefitinib+ Hoá trị cho cải thiện sống còn BẤT KỂ tình trạng di căn não cũng như loại biến thể phân tử đột biến gen EGFR mà bệnh nhân sở hữu.


Nhóm nghiên cứu kết luận:” Kể từ ngày ra đời, Thuốc đích thế hệ 3 đã mang lại cải thiện sống còn đáng kể cho bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ dương tính đột biến gen EGFR. Dù vậy, rào cản về chi phí đã hạn chế khả năng tiếp cận Thuốc đích thế hệ 3 của bệnh nhân ở các nước có thu nhập trung bình-thấp. Đối với tình huống này, việc sử dụng Phác đồ gộp Thuốc đích thế hệ 1+Hoá trị là một lựa chọn hợp lý trong việc cải thiện sống còn cho bệnh nhân”.






FBZMzu4GQICsgEQe5gzB_Smile.jpeg
 

xemay12345678

Xe buýt
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
847
Động cơ
266,300 Mã lực
BÀI SỐ 266: XUẤT HIỆN THUỐC ĐÍCH BOM TẤN TRONG ĐIỀU TRỊ UNG THƯ PHỔI KHÔNG TẾ BÀO NHỎ DƯƠNG TÍNH ĐỘT BIẾN GEN KRAS G12C!



1
.Cách đây chưa đầy 24 tiếng-tức vào ngày 30/4/2024, Tại phiên họp toàn thể của Hiệp hội ung thư lâm sàng Hoa Kỳ ASCO, Chuyên gia Yuankai Shi đã cập nhật kết quả mới nhất của nghiên cứu NCT05009329. Nghiên cứu NCT05009329 được thiết kế để đánh giá hiệu quả của Thuốc đích Glecirasib khi điều trị cho bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ dương tính đột biến gen KRAS-G12C giai đoạn tiến triển cục bộ hoặc di căn trước đó ĐÃ trải qua điều trị Hoá trị platinum và Thuốc miễn dịch.

Nghiên cứu diễn ra ở phase2, tại Trung Quốc. Có tổng cộng 119 bệnh nhân từ 43 Trung tâm Y Tế trên toàn Trung Quốc đã được đưa vô nghiên cứu. Toàn bộ bệnh nhân trong nghiên cứu trước đó đều đã trải qua 1 cho đến 3 phác đồ điều trị. Có 112 bệnh nhân ( chiếm 94%) đã từng điều trị Hoá trị platinum và Thuốc miễn dịch. Thuốc đích Glecirasib được dùng qua đường uống với liều dùng 800mg/ngày.

Kết quả cho thấy:
=>> Thuốc đích Glecirasib cho tỷ lệ đáp ứng khách quan đạt 48%. Tỷ lệ kiểm soát bệnh đạt 86%.

=>> Tại trung vị thời gian theo dõi 10.4 tháng, Thuốc đích Glecirasib cho trung vị thời gian sống không bệnh tiến triển đạt 8.2 tháng và trung vị thời gian sống còn toàn bộ đạt 13.6 tháng.

=>> Thuốc đích Glecirasib sở hữu khả năng dung nạp tốt khi KO có tác dụng phụ cấp độ 5 nào được ghi nhận và chỉ 5% bệnh nhân phải ngừng thuốc do tác dụng phụ.

Với dữ liệu này, chúng ta cùng làm một phép so sánh:
=>> Hiện tiêu chuẩn chăm sóc trong điều trị cho bệnh nhân đã kháng Hoá trị và Miễn dịch là Thuốc Docetaxel. Thuốc Docetaxel chỉ sở hữu những con số rất KHIÊM TỐN là tỷ lệ đáp ứng khách quan 14%, trung vị thời gian sống không bệnh tiến triển 3.0 tháng và trung vị thời gian sống còn toàn bộ 9.1 tháng. Nhìn sang Thuốc đích Glecirasib- mọi thông số đều cho thấy sự VƯỢT TRỘI!

=>> Hiện có 2 loại Thuốc đích được phê duyệt là Sotorasib và Adagrasib. Hai thuốc này cho tỷ lệ đáp ứng khách quan từ 37% đến 43%, trung vị thời gian sống không bệnh tiến triển từ 6.5 đến 6.8 tháng, trung vị thời gian sống còn toàn bộ từ 12.5 đến 12.6 tháng. Hiện chưa có nghiên cứu đối đầu, nhưng những thông số mà Thuốc đích Glecirasib đang sở hữu đều tốt hơn- đặc biệt là thời gian sống không bệnh tiến triển!

=>> Tuy có cùng nguyên lý hoạt động như Thuốc đích Sotorasib và Adagrasib, nhưng với cấu trúc phân tử khác biệt, Thuốc đích Glecirasib thậm chí còn có hiệu quả TRỊ KHÁNG Sotorasib, Adagrasib trong một số trường hợp. Cụ thể là Thuốc đích Glecirasib có hiệu quả trên các đột biến KRAS khác như H95D/Q/R và R68S- đây đều là những đột biến KHÁNG với Sotorasib và Adagrasib!



2. Dữ liệu của Nghiên cứu NCT05009329 sẽ được gửi tới Cơ quan quản lý trong quý 2 năm 2024 nhằm tìm kiếm sự phê duyệt hoàn toàn Thuốc đích Glecirasib tại thị trường Trung Quốc.

Chúng ta cùng chờ xem!






unnamed.jpeg
 

xemay12345678

Xe buýt
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
847
Động cơ
266,300 Mã lực
BÀI SỐ 267: PHÁT TRIỂN VACCINE NGỪA UNG THƯ PHỔI ĐẦU TIÊN TRÊN THẾ GIỚI!



1.
Chúng ta đã từng bàn về cách giật tít của báo giới khi nói về Vaccine trong điều trị ung thư. Việc giật tít này lợi dụng sự ko rõ ràng giữa khái niệm NGỪA bệnh với khái niệm CHỮA bệnh. Vaccine theo cách mà mọi người vẫn hiểu là giúp PHÒNG NGỪA bệnh- được dùng từ khi chúng ta còn CHƯA bị bệnh. Hiện có một số loại Vaccine đang được phát triển nhưng là để dùng cho những người ĐÃ bị ung thư-tức Vaccine mang vai trò chữa bệnh chứ ko phải ngừa bệnh!

Dù vậy, mọi việc đã bắt đầu thay đổi theo chiều hướng tích cực hơn!


2. Vào tháng 3/2024, Các nhà khoa học tại Đại học Oxford, Đại học UCL và Viện Francis Crick tuyên bố họ đang hợp tác để phát triển một loại Vaccine PHÒNG NGỪA ung thư phổi đầu tiên trên thế giới với tên gọi là LungVax.

LungVax sẽ sử dụng công nghệ tương tự với công nghệ đã được dùng để tạo ra vaccine COVID-19 của Tập đoàn dược phẩm Astrazeneca.

Nhóm nghiên cứu được Tổ chức nghiên cứu ung thư Anh Quốc và Quỹ ung thư CRIS tài trợ chi phí nghiên cứu trong 2 năm để sản xuất ra 3000 liều vaccine tại một cơ sở của Đại học Oxford.

Giáo sư Tim Elliott, người đứng đầu nghiên cứu phát biểu:” Ung thư là căn bệnh của chính cơ thể chúng ta khi hệ miễn dịch không thể phân biệt được đâu là lành và đâu là ung thư, giúp hệ miễn dịch nhận ra và tấn công ung thư là một trong những thách thức lớn nhất của nghiên cứu ung thư hiện nay”.

Michelle Mitchell, Giám đốc điều hành của Tổ chức nghiên cứu ung thư Anh Quốc bày tỏ:” Dự án này là một bước tiến thực sự quan trọng, hướng tới một tương lai có thể PHÒNG NGỪA được bệnh ung thư nhiều hơn”.

Giáo sư Sarah Blagden, người sáng lập dự án phát biểu:” LungVax là loại vaccine được chúng tôi phát triển với mục đích ngăn chặn sự hình thành ung thư ở những người có NGUY CƠ CAO mắc ung thư phổi. Đây là một bước tiến quan trọng trong việc ngăn chặn căn bệnh tàn khốc này”.

Lola Manterola, Chủ tịch Quỹ ung thư CRIS phát biểu:” Chúng ta đang ở một thời khắc quan trọng trong lịch sử nghiên cứu và điều trị ung thư. Lần đầu tiên trong lịch sử, công nghệ và những hiểu biết về hệ miễn dịch đã cho phép chúng ta thực hiện những bước đầu tiên trong việc NGĂN NGỪA ung thư”.

Mong một ngày ko xa, Ung thư sẽ chỉ là câu chuyện kể- giống như bệnh dịch hạch hay đậu mùa…






oxford.jpeg
 

xemay12345678

Xe buýt
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
847
Động cơ
266,300 Mã lực
BÀI SỐ 268: THUỐC ĐÍCH THẾ HỆ MỚI VỚI KHẢ NĂNG LÊN NÃO VƯỢT TRỘI ĐƯỢC THIẾT KẾ DÀNH RIÊNG CHO BỆNH NHÂN UNG THƯ PHỔI DI CĂN NÃO.


1
. Não là một trong những bộ phận quan trọng nhất trên cơ thể người. Não là trung tâm điều khiển của hệ thần kinh trung ương, đảm nhận vai trò quản lý các hoạt động của cơ thể. Não là một bộ phận ĐẶC BIỆT ƯA THÍCH của ung thư phổi, ước tính có tới 50% bệnh nhân ung thư phổi sẽ bị di căn não trong suốt quá trình điều trị. Bệnh nhân di căn não thường có tiên lượng xấu vì 2 lý do:
-> Bản thân vị trí di căn là não bộ- một nơi trọng yếu. Não bị ung thư tàn phá sẽ để lại những hậu hoạ khôn lường đến toàn bộ cơ thể.
-> Bản thân các thuốc điều trị RẤT KHÓ tiếp cận được não để xử lý ung thư do não là 1 bộ phận đặc biệt- não sở hữu hàng rào máu não có vai trò ngăn ngừa sự xâm nhập của các yếu tố lạ đến từ bên ngoài.

Mọi việc đã thay đổi rất nhiều kể từ kỷ nguyên của Thuốc đích, với khả năng lên não rất tốt, một số loại Thuốc đích thậm chí đủ khả năng dọn sạch di căn não chỉ trong một thời gian ngắn ngủi.

Hôm nay, chúng ta sẽ bàn đến một loại Thuốc đích được thiết kế dành RIÊNG cho đối tượng bệnh nhân di căn não- Thuốc đích Zorifertinib. Thuốc đích Zorifertinib ban đầu do Tập đoàn Astrazeneca nghiên cứu và phát triển nhưng sau đó đã bán lại cho Tập đoàn Alpha Biopharma có trụ sở tại Trung Quốc.



2. Nghiên cứu EVEREST được thiết kế ở phase3 để đánh giá hiệu quả của Thuốc đích Zorifertinib khi so sánh với Thuốc đích thế hệ 1 Gefitinib hoặc Erlotinib trong điều trị BƯỚC ĐẦU cho bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ di căn hệ thần kinh trung ương dương tính đột biến gen EGFR EXON19 hoặc L858R- ÂM TÍNH T790M, KRAS, cMET và CHƯA trải qua xạ não. Tổng cộng 492 bệnh nhân đã được đưa vào nghiên cứu, trong đó có 439 bệnh nhân đủ điều kiện để phân tích. Nghiên cứu được thực hiện trên 55 Trung tâm y tế ở 4 quốc gia là Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc và Singapore. Bệnh nhân trong nghiên cứu được chia làm 2 nhánh:
->Nhánh 1: Điều trị bằng Thuốc đích Zorifertinib( có 220 bệnh nhân).
->Nhánh 2: Điều trị bằng Thuốc đích thế hệ 1 Gefitinib hoặc Erlotinib( có 219 bệnh nhân).

Kết quả cho thấy:
=>> Tại trung vị thời gian theo dõi 20.4 tháng, nhóm bệnh nhân điều trị bằng Thuốc đích Zorifertinib cho thấy sự CẢI THIỆN ĐÁNG KỂ- lên tới 28% thời gian sống không bệnh tiến triển so với nhóm bệnh nhân điều trị bằng Thuốc đích thế hệ 1, cụ thể là 9,6 tháng so với 6.9 tháng!

=>> Trung vị thời gian sống không bệnh tiến triển nội sọ của Thuốc đích Zorifertinib DÀI GẦN GẤP ĐÔI so với Thuốc đích thế hệ 1, cụ thể là 15.2 tháng so với 8.3 tháng!

=>> Tỷ lệ đáp ứng khách quan của nhóm bệnh nhân điều trị bằng Thuốc đích Zorifertinib cũng CAO HƠN so với nhóm điều trị bằng Thuốc đích thế hệ 1, cụ thể là 68.6% so với 58.4%.

=>> Tỷ lệ bệnh nhân mắc tác dụng phụ liên quan đến điều trị là tương tự nhau ở nhóm bệnh nhân điều trị bằng Thuốc đích Zorifertinib và nhóm bệnh nhân điều trị bằng Thuốc đích thế hệ 1, cụ thể là 97.7% so với 94.0%. Tuy vậy, nhóm bệnh nhân điều trị bằng Thuốc đích Zorifertinib mắc tác dụng phụ từ cấp độ 3 trở nên cao hơn so với nhóm bệnh nhân điều trị bằng Thuốc đích thế hệ 1, cụ thể là 65.9% so với 18.3%. Dữ liệu này cho thấy Thuốc đích Zorifertinib có độc tính GIỐNG VỚI Thuốc đích thế hệ 2!


3. Eric Zhang, Giám đốc điều hành của Tập đoàn dược phẩm Alpha Biopharma phát biểu trước báo giới:” Sau nhiều năm nghiên cứu, chúng tôi rất vui mừng với việc Thuốc đích Zorifertinib sở hữu khả năng lên não cao, dung nạp tốt, an toàn và có lợi thế trong việc kiểm soát di căn hệ thần kinh trung ương. Chúng tôi mong muốn được hợp tác vs các cơ quan quản lý trên toàn cầu để mang Thuốc đích Zorifertinib đến với những bệnh nhân thuộc nhóm KHÓ điều trị khi họ mắc di căn hệ thần kinh trung ương”.


QUAN ĐIỂM CỦA CHUYÊN GIA:

=>>
Dữ liệu này cho thấy Thuốc đích Zorifertinib sở hữu khả năng lên não rất tốt. Dù vậy, nhánh chứng lại là Thuốc đích thế hệ 1! Bởi vậy, câu hỏi là kết quả sẽ thế nào nếu Thuốc đích Zorifertinib đối đầu với Thuốc đích thế hệ 3 Osimertinib-một loại thuốc đích khác cũng sở hữu khả năng lên não rất tốt?

=>> Chưa có nghiên cứu đối đầu giữa Zorifertinib và Osimertinib, nhưng với dữ liệu RIÊNG từ FLAURA và EVEREST, Tôi nghĩ Zorifertinib KHÓ có thể đánh bại được Osimertinib. Ở những quốc gia KO thể tiếp cận được thuốc đích thế hệ 3 Osimertinib, Thuốc đích Zorifertinib sẽ là một lựa chọn rất tốt cho bệnh nhân di căn não.

=>> Toàn bộ bệnh nhân trong nghiên cứu EVEREST đều ÂM TÍNH với T790M. Vậy, chiến lược điều trị TUẦN TỰ- Dùng Thuốc đích Zorifertinib ở bước đầu rồi bước sau là Osimertinib liệu có là một phương án tối ưu cho nhóm bệnh nhân di căn não?






cnsss.jpeg
 
Chỉnh sửa cuối:

xemay12345678

Xe buýt
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
847
Động cơ
266,300 Mã lực
BÀI SỐ 269: BÀN VỀ HIỆU QUẢ CỦA PHÁC ĐỒ HOÁ TRỊ PLATINUM KHI ĐIỀU TRỊ CHO BỆNH NHÂN KHÁNG ĐÍCH EGFR.


1
.Kháng Thuốc đích vẫn là cơn ác mộng đối với bệnh nhân đang điều trị đích EGFR.

-> Đối với bệnh nhân kháng đích thế hệ 1 hoặc thế hệ 2, có tới 60% trong số họ sẽ chuyển lên dùng được đích thế hệ 3. Những bệnh nhân còn lại sẽ phải tìm đường khác hoặc Hoá trị.
-> Đối với bệnh nhân kháng đích thế hệ 3, bài toán kháng thuốc lúc này KO còn đổ dồn về 1 hướng như hồi dùng thế hệ 1 hoặc thế hệ 2 nữa. Lúc này, Ung thư kháng thuốc chia nhỏ li ti các hướng rẽ khiến việc trị kháng trở nên cực kỳ phức tạp. Đa số bệnh nhân khi kháng đích thế hệ 3 đều sẽ dùng Hoá trị làm phương pháp trị kháng.

Qua đó chúng ta thấy, dù trong bối cảnh nào, Hoá trị sẽ luôn là con bài được tính đến khi ko có cửa nào sáng hơn!

Hôm nay, chúng ta cùng bàn đến hiệu quả của Hoá trị khi được dùng làm phương pháp trị kháng cho bệnh nhân kháng đích EGFR.


2. Vào ngày 18/4/2024, Chuyên gia Balazs Halmos cùng các đồng nghiệp đã công bố nghiên cứu về hiệu quả của phác đồ Hoá Trị Platinum khi điều trị cho bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ không vảy dương tính đột biến gen EGFR EXON 19, L858R ĐÃ KHÁNG Thuốc đích. Thuốc đích mà bệnh nhân đã sử dụng là Gefitinib, Erlotinib, Afatinib, Dacomitinib, Osimertinib.

Nghiên cứu được thực hiện trên dữ liệu trong 10 năm, kể từ 1/1/2011 cho tới 30/6/2020. Tổng số 2975 bệnh nhân đã được đưa vào nghiên cứu. Trong đó có 311 bệnh nhân đủ điều kiện để phân tích, cụ thể:
-> Phác đồ Hoá trị Platinum+ Pemetrexed được sử dụng cho 119 bệnh nhân.
-> Phác đồ Hoá trị Platinum ( có sử dụng hoặc ko sử dụng Pemetrexed, có sử dụng hoặc ko sử dụng Thuốc miễn dịch) được sử dụng cho 311 bệnh nhân.

Thuốc Platinum ở đây được định nghĩa là Thuốc Carboplatin hoặc Thuốc Cisplatin.

Kết quả cho thấy:
=>> Trung vị thời gian sống còn toàn bộ của nhóm bệnh nhân điều trị bằng Phác đồ Hoá trị Platinum+ Pemetrexed và Phác đồ Hoá trị Platinum lần lượt là 10.3 tháng và 12.4 tháng.

=>> Tỷ lệ bệnh nhân đạt mốc sống còn 1 năm ở nhóm điều trị bằng Phác đồ Hoá trị Platinum+ Pemetrexed và Phác đồ Hoá trị Platinum lần lượt là 47.5% và 51.2%.

=>> Tỷ lệ bệnh nhân đạt mốc sống còn 2 năm ở nhóm điều trị bằng Phác đồ Hoá trị Platinum+ Pemetrexed và Phác đồ Hoá trị Platinum lần lượt là 23.3% và 27.5%.

=>> Có 260 bệnh nhân tử vong vào thời điểm nghiên cứu kết thúc ( chiếm 84%).


Nhóm nghiên cứu kết luận:” Kết quả sống còn ko được như kỳ vọng ở trong nghiên cứu đã chứng tỏ NHU CẦU HIỆN CHƯA ĐƯỢC ĐÁP ỨNG của nhóm bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ không vảy dương tính đột biến gen EGFR KHÁNG Thuốc đích. Cần nhiều phác đồ điều trị hiệu quả hơn cho nhóm bệnh nhân này”.





chemo.jpeg
 

gadi2banh

Xe điện
Biển số
OF-167353
Ngày cấp bằng
18/11/12
Số km
2,178
Động cơ
418,119 Mã lực
Càng ngày y học càng hiện đại, mong rằng ra thêm được nhiều thuốc, giá hợp lý cho nhiều người sử dụng chứ giá thuốc đích còn cao quá
 

xemay12345678

Xe buýt
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
847
Động cơ
266,300 Mã lực
BÀI SỐ 270: DÙNG VIRUS ĐỂ TIÊU DIỆT UNG THƯ-HY VỌNG CHO NHỮNG BỆNH NHÂN UNG THƯ PHỔI ĐANG RƠI VÀO CẢNH HẾT BÀI!



1
.Vào Năm 1904, một phụ nữ người Ý được chẩn đoán mắc bệnh ung thư cổ tử cung. Mọi việc thêm tồi tệ khi Cô còn bị chó cắn. Sau khi tiêm vắc xin phòng bệnh dại, chuyện lạ xảy ra- khối u ung thư biến mất và Cô sống khoẻ mạnh mà không bị ung thư trong 8 năm trời!!!

Từ đầu những năm 1900, các nhà khoa học đã bắt đầu quan sát thấy Virus có thể tiêu diệt được ung thư. Tuy nhiên, do hạn chế về kỹ thuật đã khiến lĩnh vực Virus diệt ung thư đứng im lìm trong nhiều thập kỷ. Mọi việc thay đổi một cách chóng mặt kể từ năm 1990, những khám phá đột phá về cơ chế phân tử cùng bản đồ gen người đã cho phép các nhà khoa học hiểu rõ, từ đó đẩy nhanh việc phát triển Liệu pháp Virus tiêu diệt ung thư.

Liệu pháp Virus diệt ung thư sử dụng Virus đã được thiết kế đặc biệt để xâm nhập vào các tế bào ung thư nhằm tạo ra các bản sao của chính nó. Kết quả là các tế bào ung thư vỡ ra và chết. Khi các tế bào ung thư chết, chúng giải phóng ra các kháng nguyên. Điều này giúp hệ miễn dịch nhận ra ung thư rồi giết tất cả đồng đội của tế bào ung thư đã chết kia. Cách hoạt động này an toàn đối với bệnh nhân khi Virus chỉ nhằm vào các tế bào ung thư mà không làm ảnh hưởng tới tế bào lành.

Hiện nay đã có nhiều loại Virus được thiết kế riêng để tiêu diệt ung thư. Có thể kể đến các Virus như Zika, Polio, Vaccinia...Đặc biệt vào năm 2015, Virus Herpes ( biến đổi gen) đã được Cục quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ phê duyệt chính thức làm phác đồ điều trị cho ung thư hắc tố giai đoạn cuối!

Hôm nay, chúng ta sẽ cập nhật thông tin mới nhất của Liệu pháp Virus diệt ung thư trong điều trị ung thư phổi!



2. Vào ngày 30/4/2024, Trung Tâm Ung Thư Moffitt có trụ sở tại Florida, Mỹ đã ra thông cáo báo chí về việc thực hiện phase tiếp theo của Thử nghiệm lâm sàng Thuốc MEM-288.

-> Thuốc MEM-288 là một loại Virus được phát triển để tiêu diệt ung thư. Phác đồ gộp bao gồm Thuốc MEM-288 + Thuốc miễn dịch Nivolumab được sử dụng để điều trị cho những bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ ĐÃ KHÁNG phác đồ điều trị tiêu chuẩn-tức những bệnh nhân đang rơi vào cảnh hết bài! Phác đồ điều trị tiêu chuẩn được định nghĩa là Thuốc miễn dịch ( ức chế PD1/PDL1 ), Hoá trị, Thuốc đích EGFR, Thuốc đích ALK, Thuốc đích ROS1, Thuốc đích BRAF, Thuốc đích RET, Thuốc đích MET, Thuốc đích KRAS…


-> Việc thực hiện này được quyết định sau thành công ĐẦY HỨA HẸN của Thử nghiệm lâm sàng Thuốc MEM-288 ở phase 1A với kết quả chưa xuất hiện độc tố giới hạn liều và có tới 40% bệnh nhân trong nghiên cứu cho thấy kích cỡ khối u thu nhỏ sau điều trị ( thu nhỏ từ 26% cho tới 54%), 30% bệnh nhân đáp ứng một phần và 10% bệnh nhân có tình trạng bệnh ổn định.


Chuyên gia Andreas Saltos, người đứng đầu nghiên cứu phát biểu trước báo giới :” Phác đồ gộp Thuốc MEM-288 + Thuốc miễn dịch Nivolumab là một Liệu pháp đầy hứa hẹn trong cuộc chiến chống lại ung thư phổi. Chúng tôi hy vọng rằng Thuốc MEM-288 sẽ là một biện pháp điều trị hiệu quả đối với phân nhóm bệnh nhân KHÁNG thuốc- khi họ đang có ÍT lựa chọn”.

Chúng ta cùng chờ xem!






7-oncolytic-viral-therapy-kateryna-konscience-photo-library.jpeg
 

xemay12345678

Xe buýt
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
847
Động cơ
266,300 Mã lực
BÀI SỐ 271: BÀN VỀ LIỆU PHÁP TẾ BÀO MIỄN DỊCH THÂM NHIỄM KHỐI U TIL-MỘT PHƯƠNG PHÁP ĐẦY HỨA HẸN DÀNH CHO BỆNH NHÂN UNG THƯ PHỔI ĐANG RƠI VÀO CẢNH HẾT BÀI!



1
.Tế bào Lympho là một loại tế bào bạch cầu trong hệ miễn dịch của cơ thể. Tế bào Lympho có chức năng chống nhiễm trùng và bệnh tật, bao gồm cả ung thư. Tế bào miễn dịch thâm nhiễm khối u là những tế bào Lympho được tìm thấy ở bên trong khối u. Liệu pháp Tế bào miễn dịch thâm nhiễm khối u ( TIL ) là một liệu pháp sử dụng tế bào Lympho để tiêu diệt ung thư. Đầu tiên, các nhà khoa học thực hiện tiểu phẫu để loại bỏ khối u ung thư. Sau đó, các tế bào Lympho sẽ được tách khỏi khối u và được nhân lên với số lượng lớn trong phòng thí nghiệm. Khi số lượng đạt yêu cầu, các tế bào Lympho sẽ được truyền trở lại cơ thể người bệnh nhằm săn lùng và tiêu diệt ung thư trên khắp cơ thể!

Liệu pháp TIL đã được Cục quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ FDA phê duyệt chính thức trong điều trị ung thư hắc tố da.

Hôm nay, chúng ta sẽ bàn đến Liệu pháp TIL trong điều trị ung thư phổi. Đi tiên phong ứng dụng Liệu pháp TIL trong điều trị ung thư phổi là Trung Tâm ung thư Memorial Sloan Kettering có trụ sở tại New York, Mỹ!



2. Vào ngày 1/5/2024, Chuyên gia Schoenfeld cùng các đồng nghiệp tại Trung Tâm ung thư Memorial Sloan Kettering đã cập nhật kết quả Nghiên cứu Liệu pháp TIL trong điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ.

Nghiên cứu được diễn ra ở phase2, thực hiện tại nhiều Trung Tâm Y Tế ở Mỹ và Châu Âu. Tổng số 28 bệnh nhân đã được tuyển vô nghiên cứu. Toàn bộ 28 bệnh nhân đều là bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn muộn và đã kháng với nhiều phác đồ điều trị trước đó, bao gồm cả Thuốc miễn dịch ức chế PD1/PDL1/CTLA-4.

Chuyên gia Schoenfeld phát biểu:” Những bệnh nhân tham gia nghiên cứu của chúng tôi đều đang ở trong tình trạng bệnh RẤT NẶNGKO còn phác đồ điều trị nào khác. Trong hoàn cảnh như vậy, kết quả 21% bệnh nhân cho đáp ứng điều trị với Liệu pháp TIL là một con số đáng kể. Một số bệnh nhân thậm chí còn không bị ung thư tái phát trong thời gian hơn 2 năm SAU điều trị. Liệu pháp TIL đã được nghiên cứu rất nhiều năm trong ung thư hắc tố da và cho đến gần đây vẫn chưa có bằng chứng về hiệu quả trong điều trị ung thư phổi. Nghiên cứu của chúng tôi là nghiên cứu ĐẦU TIÊN chứng minh rằng Liệu pháp TIL có hiệu quả trong điều trị ung thư phổi!”.


Chuyên gia Schoenfeld còn cho biết thêm, kể từ khi Liệu pháp TIL được nghiên cứu sử dụng trong ung thư phổi tại Trung tâm ung thư Memorial Sloan Kettering 4 năm về trước, nhiều nghiên cứu khác đã chỉ ra những bệnh nhân ở tình trạng bệnh cảnh SỚM HƠN- khi họ CHƯA KHÁNG Thuốc miễn dịch thì tỷ lệ đáp ứng điều trị sẽ TĂNG GẤP ĐÔI nếu điều trị cho họ bằng Liệu pháp TIL ( Dữ liệu này đã được báo cáo tại Hội nghị thế giới về ung thư phổi WCLC vào tháng 9/2023 ).



3. Trong ảnh là hình chụp khối u TRƯỚC khi điều trị và SAU khi điều trị bằng Liệu pháp TIL được 6 tuần.
-> Kết quả cho thấy kích cỡ khối u đã co ngót một cách ngoạn mục!





TIL.jpg
 
Thông tin thớt
Đang tải
Top