[Funland] Việt Nam xưa (Phần 1)

Ngao5

Vũ Trụ
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
51,127
Động cơ
1,072,531 Mã lực
Tam Đảo 1937


Tam Đảo 1937


Tam Đảo thập niên 1920


Tam Đảo 1937


Tam Đảo thập niên 1920


Tam Đảo 1937


Tam Đảo 1937


Tam Đảo tháng 8-1930


Thác Bạc, Tam Đảo thập niên 1920
 

Ngao5

Vũ Trụ
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
51,127
Động cơ
1,072,531 Mã lực
Những hình ảnh Tam Đảo năm 2008


































 

Ngao5

Vũ Trụ
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
51,127
Động cơ
1,072,531 Mã lực

1920-1929 – học sinh Trường Bưởi giờ tan học
Trường Trung học Bảo hộ (Trường Bưởi) (nay là Chu Văn An ở phố Thuỵ Khuê) là trường Trung học cho người bản xứ. Cách đó nửa km là trường Trung học Albert Sarraut dành cho con cái người Pháp con cái quan lại cao cấp Việt Nam


1920-1929 - giờ nữ công của trẻ con tại Trường nữ sinh tiểu học Pháp-Việt Ecole Brieux trên phố Takou (nay là phố Hàng Cót). Tấm vải sọc treo trên cao phía trước bàn cô giáo là cái quạt trần kéo bằng tay của thời chưa có điện (lúc này đã có bóng đèn điện nhưng quạt trần bằng điện có lẽ chưa có được nên vẫn giữ lại quạt này)
Trường nữ sinh tiểu học Pháp-Việt Ecole Brieux ban đầu ở phố Hàng Trống sau chuyển sang Hàng Cót


Nhà hát đầu tiên của Hà Nội. Từ năm 1910 là trường nữ sinh ECOLE BRIEUX và nay là trường THCS Thanh Quan (số 29 phố Hàng Cót, Quận Hoàn Kiếm)



Trường Nữ sinh tiểu học Brieux, số 29 rue Takou (phố Hàng Cót)
Nay là trường THCS Thanh Quan

Hình trái:
Nghị định số 2436 ngày 12-8-1910 của Toàn quyền Đông Dương về việc đổi tên Trường Nữ sinh Pháp – Việt Hà Nội thành Trường Brieux [Trường Hàng Cót, nay là Trường THCS Thanh Quan], kí hiệu GGI – A, hồ sơ 68, văn bản 379, tờ 383
Hình phải:
Năm 1910, Trường Nữ sinh tiểu học Pháp-Việt ở phố Takou (phố Hàng Cót) chính thức được đổi tên thành Trường Brieux (tên nhà viết kịch người Pháp) theo Nghị định ngày 12/8/1910 của Toàn quyền Đông Dương.


Hà Nội 1920-1929 - Trường Cao đẳng Tiểu học nữ sinh và nam sinh Hà Nội, thập niên 1920


Hà Nội 1920-1929 - Trường Cao đẳng Tiểu học nữ sinh và nam sinh Hà Nội, thập niên 1920


Hà Nội 1920-1929 -
Trường Cao đằng tiểu học (tương đương lớp 6 đến lớp 9 ngày nay) – môn học thêu


Hà Nội 1920-1929 -
Trường Cao đằng tiểu học (tương đương lớp 6 đến lớp 9 ngày nay) – môn học thêu


Hà Nội 1920-1929 -
Trường Cao đằng tiểu học (tương đương lớp 6 đến lớp 9 ngày nay) – môn học thêu


Hà Nội 1920-1929 -
Trường Cao đằng tiểu học (tương đương lớp 6 đến lớp 9 ngày nay) – môn học thêu


HÀ NỘI 1920-1929 - Chăm sóc vệ sinh ở trường tiểu học


Hà Nội 1920-1929 -
Trường Cao đằng tiểu học (tương đương lớp 6 đến lớp 9 ngày nay) Bài học về các đồ vật


Hà Nội 1920-1929 -
Trường Cao đằng tiểu học (tương đương lớp 6 đến lớp 9 ngày nay) Bài học về các đồ vật


Hà Nội 1920-1929 - Học sinh
Trường Cao đằng tiểu học
 

Ngao5

Vũ Trụ
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
51,127
Động cơ
1,072,531 Mã lực

1883 – một phụ nữ Bắc Kỳ. Ảnh: Thiếu tá quân y Charles-Edouard Hocquard (1853-1911)


1883 – Những vũ công Bắc Kỳ. Ảnh: Thiếu tá quân y Charles-Edouard Hocquard (1853-1911)


1883 - một phụ nữ thanh lịch ở Hà Nội. Ảnh: Thiếu tá quân y Édouard Hocquard (1853-1911)


Hà Nội 1883 - Trại lính tập bên bờ Hồ Gươm. Ảnh: Thiếu tá quân y Édouard Hocquard (1853-1911)


1930 - một khu phố ở Hà Nội


1930 - một khu phố ở Hà Nội



1930 - một thày bói ở Hà Nội. Ảnh: Mots Clefs


1930 – cảnh thôn quê Bắc kỳ


Một nhà thờ Cơ đốc giáo tại Bắc kỳ thập niên 1920


17-4-1948 – Hội chợ triển lãm ở Sài gòn
 

Ngao5

Vũ Trụ
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
51,127
Động cơ
1,072,531 Mã lực
Nam Định









Bưu điện tỉnh Nam Định đầu thế kỷ 20


Bưu điện tỉnh Nam Định đầu thế kỷ 20


Bưu điện tỉnh Nam Định đầu thế kỷ 20


Nam Định 1920-1929 – Lễ hội Phủ Giày (nơi thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh), huyện Vụ Bản, Nam Định, cách thành phố Nam Định 15 km


1920-1932 – Lễ hội Phủ Giày (nơi thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh), huyện Vụ Bản, Nam Định, cách thành phố Nam Định 15 km


Nam Định 1920-1929 - Đền Phủ Giày, nơi thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh, huyện Vụ Bản, Nam Định, cách thành phố Nam Định 15 km.
 

LaSE

Xe tải
Biển số
OF-375983
Ngày cấp bằng
1/8/15
Số km
212
Động cơ
249,030 Mã lực
Thớt hấp dẫn quá, hay quá. Cám ơn cụ chủ. Em ngồi hóng tiếp
 

Ngao5

Vũ Trụ
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
51,127
Động cơ
1,072,531 Mã lực
THI CỬ DƯỚI THỜI PHONG KIẾN
Dưới thời phong kiến, quan lại được bổ nhiệm theo Khoa Cử
Khoa là Thi. Cử là tiến cử (nay ta gọi là giới thiệu). Người tiến cử phải chịu trách nhiệm về người mình tiến cử. Hay thì được nhở, rủi người được tiến cử "làm loạn hoặc theo giặc" thì người tiến cử chịu hình phạt tương xứng, nặng nhất có thể là "tru di tam tộc"
Dưới thời Nguyễn có ba mức thi:
Thi Hương: 3 năm, một lần
Thi Hội: 3 năm một lần
Thi Đình: không quy định
Bắc Kỳ có 2 trường thi Hương:
Ban đầu trường thi ở chỗ Thư viện Quốc gia ngày nay (phố Tràng Thi, Hà Nội) gọi là Trường Hà. Sau khi Pháp chiếm Hà Nội, mở rộng thành phố nên chuyển về thi ở Nam Định, gọi là Trường Nam
Trường thi là một bãi đất trống, sau khi thi lại trở thành nơi cày cấy, trồng trọt. để ba năm sau lại dọn dẹp phát quang cây cối thành trường thi
Trường Nam nay là khu vực Phường Trường Thi, thành phố Nam Định
 

Ngao5

Vũ Trụ
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
51,127
Động cơ
1,072,531 Mã lực
THI HƯƠNG
Thi Hương là một khóa thi cử về nho học do triều đình phong kiến tổ chức để tuyển chọn người có tài, học rộng ở các địa phương. Người thi đỗ được cấp bằng và có thể nhờ đó mà được vào làm quan chức trong triều chính. Kỳ thi Hương là kỳ thi sơ khởi nhất. Sau khi đỗ thi Hương thì năm sau mới được dự thi kỳ thi cao cấp hơn, tức thi Hội (cao hơn nữa là thi Đình).
Số người thi Hương từ 10-20.000 người, sau khi Pháp chiếm Bắc Kỳ, thì người Pháp hạn chế việc thi cử kiểu này và bãi bỏ vào năm 1915
Thế nhưng kỳ thi Hương năm Quý Mão 1903 vẫn có hơn 10.000 sĩ tử dự thi
Một thường dân muốn dự thi Hương phải qua hai điều kiện (gọi là Khảo hạch):
1) Phải có đạo đức tốt và lý lịch trong sạch. Bản khai lý lịch này phải được xã trưởng và quan địa phương xác nhận.
2) Phải có trình độ học lực: trình độ học lực lúc đầu được kiểm tra bằng một kỳ thi trước với kỳ thi Hương nhưng không tính vào nội dung thi Hương 4 kỳ trên (tạm gọi là “vòng gửi xe”). Đây là kỳ thi ám tả cổ văn; ai đỗ kỳ này mới được vào thi Hương.
Vì đây là kỳ thi sát hạch, không phải là kỳ thi chính, nên đỗ kỳ này chẳng có học vị gì, cả tỉnh cùng dự thi. Tuy vậy ai đỗ kỳ này cũng đã vinh dự lắm, nhất là đỗ đầu. Người đỗ đầu cả xứ được tặng danh hiệu "đầu xứ" (về sau đỗ đầu tỉnh cũng được gọi là đầu xứ) gọi tắt là "ông xứ" như: xứ Nhu (Nguyễn Khắc Nhu), xứ Tố (Ngô Tất Tố). Ông xứ Tố chỉ đỗ đầu xứ thôi, chẳng có học vị gì, nhưng thật là một nhà Nho uyên thâm. Cụ Ngô Tất Tố chính là tác giả tác phẩm "Tắt đèn", "Lều chõng". Trong "Lều chõng" cụ mô tả cảnh tượng về cuộc thi Hương
Dưới thời nhà Nguyễn thì tôn sinh (con cháu trong hoàng tộc), ấm sinh (con các quan), và tú tài thì không phải qua phần khảo hạch. Những người qua được khảo hạch thì gọi là khóa sinh. Khóa sinh sẽ thành thí sinh khi chính thức đi thi.
Theo quy định từ năm 1434, thi Hương tương tự như thi Hội cũng có 4 kỳ hay còn gọi là 4 trường.
Kỳ I thi kinh nghĩa, thư nghĩa: giải thích ý nghĩa trong câu lấy từ Tứ thư, Ngũ kinh. Bài thi phải viết theo lối biền văn, tức là có đối mà không cần vần, phần thi này nhằm kiểm tra khả năng hiểu biết kinh truyện của sĩ tử.
Kỳ II thi chiếu, chế, biểu
- chiếu là lời vua nói
- chế - vua phong thưởng cho công thần
- biểu là bài văn thần dân tạ ơn vua hoặc chúc mừng vua nhân dịp ngày lễ.
Sĩ tử phải biết lựa từng hoàn cảnh, từng đối tượng mà dùng giọng văn cho thích hợp. Đây là bài thi kiểm tra khả năng soạn văn bản làm quan sau này
Kỳ III thi thơ phú: các bài thi được làm theo thể thất ngôn bát cú, phần thi này kiểm tra khả năng làm thơ của sĩ tử bởi đây là một trong những sinh hoạt quan trọng của tầng lớp trí thức
Kỳ IV thi văn sách: là bài văn trả lời câu hỏi về một vấn đề của đề bài. Phần thi nằm kiểm tra khả năng biện bác, bàn luận vấn đề lịch sử và hiện tại của sĩ tử.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
51,127
Động cơ
1,072,531 Mã lực
Mô tả một kỳ thi Hương
Thi từ sáng sớm đến tối mịt
Trống điểm canh tư (chừng 1 giờ sáng) thí sinh phải có mặt ở trường thi để nghe gọi tên, đến khoảng canh năm tám khắc (khoảng 5 giờ sáng) thì thí sinh phải vào hết trong trường. Thí sinh làm bài cho đến giờ Thân (3-5 giờ chiều) thì bắt đầu nộp bài, hạn cuối là hết canh một (tức 19 giờ). Vì vậy, thí sinh vào trường phải chuẩn bị đầy đủ lều, chõng, chiếu, tráp đựng nghiên, bút, giấy, mực, dao kéo... và thức ăn dùng trong một ngày.
Quan trọng nhất là chuẩn bị quyển thi (tức giấy làm bài thi đóng thành quyển), phải giữ gìn hết sức sạch sẽ. Quyển thi là do thí sinh đem nộp trước cho dinh đốc học để kiểm tra, đóng dấu. Khi quan trường gọi đúng tên, thí sinh phải “dạ” thật to rồi vào cổng trường thi để nhận lại quyển thi. Vào trường thi, thí sinh tìm chỗ cắm lều, đặt chõng, đến khi sáng rõ mặt thì xong để chuẩn bị làm bài thi.
Tứ trường và thiên kinh vạn quyển
Theo Khâm Định Đại Nam Hội điển sự lệ, thi Hương có khi thi ba vòng (người xưa gọi tam trường) có khi thi bốn vòng (tứ trường). Vòng một thi kinh nghĩa (tức các sách tứ thư, ngũ kinh của Nho giáo), vòng hai thi chiếu biểu (tức soạn thảo các văn bản hành chính như chiếu, biểu, sớ, dụ...), vòng ba thi thơ phú (sáng tác theo chủ đề của đề thi), vòng bốn thi văn sách (tương tự như thi tự luận).
Vòng 1
Vòng thi kinh nghĩa tương đối dễ với thí sinh, chỉ cần thuộc lòng tứ thư, ngũ kinh và trình bày cho đúng ý của người xưa.
Vòng 2
Vòng thi chiếu biểu phải thuộc hàng trăm bài loại này rồi chắt lọc tinh hoa để viết thành bài thi.
Vòng 3
Dễ làm và khó đỗ nhất là kỳ thi thơ phú. Dễ vì suốt cả ngày chỉ cần sáng tác một bài thơ tối đa 16 câu và một bài phú tám câu, nhưng cái khó là phải hay, vì cái hay nó vô cùng.
Vòng 4
Vòng bốn thi văn sách thì tự do trình bày theo kiến giải riêng của mình, tương tự như thi tự luận ngày nay. Muốn qua được vòng thi này, không những phải làu thông kinh sử mà còn phải biết vận dụng sở học của mình để trình bày những kiến giải mới lạ. Đề thi thường hỏi đủ mọi lĩnh vực: thiên văn, địa lý, bói toán, y học...; đặc biệt là những câu hỏi về thời sự, đòi hỏi thí sinh phải có những kiến giải độc đáo và đưa ra giải pháp khả thi. Thi tứ trường nhưng phải học thiên kinh vạn quyển là thế!

Mang tài liệu vào trường thi: gông cổ, đánh 100 roi
Không được mang tài liệu vào trường thi; không nói chuyện ồn ào, đi lại lộn xộn; không được quên đóng dấu “nhật trung” (là dấu giáp lai các trang bài thi, dấu xác định bài thi được làm tại trường thi...); cấm ngồi không đúng chỗ, tự ý vứt bỏ hoặc sửa chữa bảng tên; cấm kê khai gian lận tên tuổi; cấm nộp bài trễ hạn. Các quy định đó xem ra cũng không khác gì bây giờ, nhưng hình phạt cho người vi phạm thì rất nghiêm khắc. Nếu bị phát hiện mang tài liệu vào phòng thi sẽ bị đóng gông một tháng, sau đó bị đánh 100 roi. Nói chuyện ồn ào thì không những thí sinh bị trị tội mà còn truy tội cả các vị quan đốc học, giáo thụ và huấn đạo ở địa phương.
Trong bài thi lại có những quy định khác, rắc rối và ngặt nghèo hơn, chủ yếu là những lỗi về hình thức mà thí sinh phải tránh. Đầu tiên là lỗi khiếm tị (không biết tránh chữ húy). Bài thi của thí sinh phải tránh viết những chữ húy kỵ của triều đình, đó là tên của tất cả các đời vua, hoàng hậu, kể cả ông bà tổ tiên vua; rồi thì tên lăng, miếu, cung, điện, làng quê của vua...
Sau lỗi khiếm tị là lỗi khiếm trang và khiếm đài. Khiếm trang có nghĩa là thiếu phần tao nhã, do dùng những từ thô tục về nghĩa cũng như về âm, thiếu tôn kính với các từ tôn nghiêm. Đang hành văn mà gặp những từ tôn kính như thiên, địa, đế, hậu... thì phải tự động sang hàng và đài (nâng cao lên trong dòng chữ). Nếu không là mắc lỗi khiếm đài.
Chưa hết, bài thi phải viết loại chữ chân phương, thiếu một nét, một chấm xem như mắc lỗi. Quyển thi nếu bị ố bẩn, tì vết, xem như làm dấu cũng bị đánh rớt. Lệ còn quy định mỗi quyển thi không được đồ (xóa bỏ), di (sót), câu (móc), cải (sửa) quá 10 chữ. Khi làm xong bài, cuối quyển thi phải ghi rõ số chữ đã đồ, di, câu, cải. Nếu đồ, di, câu, cải vượt quá 10 chữ, hoặc sai sót, ố bẩn, tì vết không thể khắc phục thì đem lên quan trường xin đổi quyển thi khác hợp lệ. Phạm vào lỗi gì đều được niêm yết rõ lên bảng con ở mỗi khu vực cho thí sinh biết vì sao mà hỏng thi.

Đỗ đầu kỳ thi Hương (4 vòng), tức thủ khoa, gọi là Giải nguyên
Qua được cả bốn trường (vòng) thì được học vị Hương cống (về sau gọi là Cử nhân), được ban cấp áo mũ, ban yến (đãi tiệc), rồi vinh quy bái tổ. Năm sau được phép thi Hội ở Huế
Đỗ cử nhân thì ngoài việc được phép dự thi Hội, còn được bổ nhiệm làm quan trong những ngạch thuộc cửu phẩm, được vua ban áo mũ và làng xã phải phục dịch đón tiếp vinh quy. Người đỗ cao nhất trong kỳ thi hương thì còn có danh là giải nguyên tuy lúc bổ nhiệm thì cũng khác gì các tân khoa kia.
Những thí sinh chỉ đỗ được ba trường (vòng) thi hương thì được học vị tú tài.
Đỗ tú tài thì không được triều đình bổ dụng nhưng đối với trong làng, trong tổng thì địa vị đương sự thăng từ hạng thường dân lên hạng chức sắc, có chân trong hội đồng kỳ mục, được miễn sưu dịch, và khi có cỗ bàn trong đình thì được ngồi chiếu trên.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
51,127
Động cơ
1,072,531 Mã lực
Tiếp tục cuộc đua tiến sĩ
Tân cử nhân về quê tiếp tục đèn sách đợi sang năm vào kinh đô dự kỳ thi Hội, cùng với những cử nhân của các khoa trước đó, những thí sinh đã vượt qua một kỳ khảo hạch đặc biệt do triều đình, và một số ít quan lại muốn có học vị cao hơn.
Cách thức làm bài và trường quy thi hội không khác mấy với thi hương, chỉ khác là phạm quy thì bị tội nặng hơn.
Thi hội không có truyền lô (xướng danh) nhưng lễ yết bảng (công bố kết quả) rất long trọng.
Bảng chính ghi tên những người đạt hạng trúng cách, bảng thứ ghi tên người hạng thứ trúng cách.
Thi Hội là một khóa thi cử về Nho học do bộ Lễ của triều đình phong kiến tổ chức 3 năm một lần tại các trường trung ương để tuyển chọn người có tài, học rộng.
Khoa thi này được gọi là "Hội thi cử nhân" hoặc "Hội thi cống sĩ" (các cử nhân, cống sĩ, tức là người đã đỗ thi Hương ở các địa phương, tụ hội lại ở kinh đô để thi) do đó gọi là thi Hội.
Từ năm 1442 thí sinh đỗ thi Hội mới có học vị Tiến sĩ (tức Thái học sinh - tên dân gian là ông Nghè). Người đỗ đầu (thủ khoa) gọi là Hội Nguyên.
Vào thời nhà Nguyễn những thí sinh thiếu điểm để đỗ tiến sĩ có thể được cứu xét và cho học vị Phó Bảng (ông Phó Bảng).

Thi Đình
Chỉ những người trúng cách mới được tiếp tục tham gia thi đình, tổ chức trong cung đình, do đích thân nhà vua ra đề và là người chấm thi cuối cùng.
Thi đình thực chất là cuộc phúc tra cuối cùng nhằm thẩm định và xếp hạng các tân tiến sĩ.
Quyển thi và quyển nháp đều do bộ Lễ cấp, có rọc phách hẳn hoi. Vua chấm thi vẫn không biết bài đó của ai.
Sau khi vua chấm bài thì học vị của các sĩ tử được quyết định và bảng vàng ghi danh là vinh hiển tột cùng. Các tiến sĩ có tên niêm yết trên bảng vàng sẽ được ban yến tiệc trong cung, được bệ kiến hoàng thượng, được thăm hoa ở vườn ngự uyển, được cưỡi ngựa dạo khắp kinh thành, rồi vinh quy bái tổ. Phần thưởng cao quý nhất cho tiến sĩ là được khắc tên vào bia đá đặt ở Văn Miếu để lưu danh mãi mãi.

Từ 1829, thang điểm thi Đình là:
Đạt 10 điểm, đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ nhất danh (Đình nguyên, đỗ đầu thi Đình, tương đương với Trạng nguyên trước kia, vì nhà Nguyễn chủ trương không lấy Trạng nguyên).
Đạt 9 điểm, đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ nhị danh (Bảng nhãn).
Đạt 8 điểm, đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ tam danh (Thám hoa).
Đạt 7 và 6 điểm, đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp).
Đạt 5 điểm trở đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân (đồng tiến sĩ).
Đạt 5 điểm trở xuống đỗ phó bảng.
Thi đình: đỗ thi đình đạt học vị chung là tiến sĩ; đỗ thủ khoa: đình nguyên. Trong đó, đỗ từ 8-10 điểm được xếp bậc đệ nhất giáp. 10 điểm được lấy đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ nhất danh, thường gọi là trạng nguyên. 9 điểm: đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ nhị danh, thường gọi là bảng nhãn. 8 điểm: đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ tam danh, thường gọi là thám hoa.

Từ năm 1851
Vua Tự Đức có cho thêm một số Phó bảng có điểm số thi Hội gần với điểm chuẩn đỗ chánh bảng được tham dự thi Đình để có thêm cơ hội phấn đấu. Nếu đạt điểm chuẩn đỗ tiến sĩ thì được công nhận là tiến sĩ, nếu không đạt vẫn được công nhận là Phó bảng. Vua Tự Đức giữ nguyên tiêu chuẩn đỗ tiến sĩ cập đệ và tiến sĩ xuất thân, sửa lại tiêu chuẩn đỗ đồng tiến sĩ xuất thân như sau:
Đạt 4 điểm đến 5 điểm đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân (đồng tiến sĩ).
Đạt 3 điểm trở xuống đỗ phó bảng.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
51,127
Động cơ
1,072,531 Mã lực
Trường thi Hương
Trường thi Hương một khu đất rộng được chia làm 4 khu vực (hay còn gọi là 4 vi): Giáp, Ất, Bính, Đinh cắt theo hình chữ thập 十. Ở giữa là Thập đạo có chòi canh để quan trường giám sát thí sinh ngồi thi. Ở hai bên trái, phải có hai chòi để quan giám sát cả thí sinh lẫn quan trường. Mỗi cửa đốt hai cây đuốc lớn (gọi là đình liệu) chiếu sáng rực cả trường thi. Xung quanh trường thi được rào hai lần: một phên kín, một phên thưa đắp tường hào, cài chông, có cả đội lính gác canh giữ.

Nhân chuyện chấm thi, nói về trường hợp cụ Cao Bá Quát
Đương thời, cụ Cao Bá Quát và cụ Nguyễn Văn Siêu là những người văn hay chữ tốt gọi là "Thần Siêu, Thánh Quát"
Cụ Nguyễn Văn Siêu hiệu là Phương Đình, người xây dựng bút tháp và đền Ngọc Sơn ở Hồ Hoàn Kiếm Hà Nội
Sau khi đỗ đạt, cụ Cao Bá Quát được bổ làm quan. Có lần cụ trong Ban Giám khảo thi Hương. Vì thương một sĩ tử phạm huý, cụ dùng muội đèn dầu chữa bài cho thí sinh. Chuyện vỡ lở, quan lại triều đình, chiếu luật dâng biểu lên vua khép cụ tội tử hình
Vua Tự Đức, vốn là người yêu văn thơ, mến tài Cao Bá Quát đã làm một việc khá mạnh dạn là bác tử hình, và cho phép Cao Bá Quát được theo cùng đoàn sứ giả Annam đi Indonesia, với tư cách "người chèo thuyền". Sau chuyến đi sứ, Cao Bá Quát trở về quê và cầm đầu cuộc nổi dậy của nông dân vùng Sơn Tây, mà Triều đình gọi là "giặc châu chấu", ông bị bắt và bị khép án tử hình. Trước lúc bị hành quyết ông vẫn đọc thơ:
"Ba hồi trống đánh... đù mẹ kiếp
Một nhát gươm đưa... đ.éo mẹ đời"
Sau khi chiếm Hà Nội, người Pháp bãi bỏ trường thi ở Hà Nội (tục gọi là trường Hà). Tất cả thi sinh Bắc Kỳ thi Hương phải kéo nhau về trường thi Nam Định (trường Nam)
Khoa thi năm Đinh Dậu 1897 tổ chức ở Nam Định có một sự kiện đặc biệt: Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer tới dự. Phía Triều đình có Cựu Quyền Kinh lược sứ Nguyễn Trọng Hợp. Chánh chủ khảo là cụ Đồng Sĩ Vịnh.
Theo mô tả của cụ Tú Xương:
"Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa
Lọng cắm rợp trời, quan Sứ đến,
Váy lê quét đất, mụ đầm ra
Nhân tài đất Bắc nào ai đó ?
Ngoảnh cổ mà trông lại nước nhà!"
 

Ngao5

Vũ Trụ
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
51,127
Động cơ
1,072,531 Mã lực
Trường thi Nam Định tháng 12-1987






12-1897 – Mặt bằng trường thi Hương ở Nam Định. Ba tòa nhà chính nằm trên trục giữa của trường thi (tô màu vàng) từ ngoài vào là nhà Thập Đạo (số 16), Thí Viện (10) và sau cùng là Giám Viện (2), là những nơi làm việc chính của ban giám khảo. Các nhà nhỏ khác là nơi ở của giám khảo và nhân viên trong trường thi.
Ông André Salles (1860-1929) là một nhiếp ảnh gia Pháp đã chụp nhiều tấm hình Khoa thi Hương năm Đinh Dậu ngày 27 tháng 12-1897


Nam Định – Khoa thi Hương năm Đinh Dậu. Đường thập đạo và nhà giám khảo trong trường thi Hà-Nam, ngày 27-12-1897. Ảnh: André Salles (1860-1929)





Kỳ thi Hương ở Nam Định (27-12-1897) tổ chức 3 năm một lần. Trong hình là chòi gác thi và những luống đất nơi các thí sinh sẽ dựng lều và đặt chõng để ngồi làm bài. Ảnh: André Salles (1860-1929)

 

Ngao5

Vũ Trụ
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
51,127
Động cơ
1,072,531 Mã lực

Ông Đồng Sĩ Vịnh, Chủ khảo trường Hà-Nam, khoa thi Hương năm Đinh Dậu (tháng 12-1897)


Khảo quan trường Hà-Nam - Lễ Xướng Danh khoa Đinh Dậu (27/12/1897). Chủ khảo khoa Đinh Dậu là ông Đồng Sĩ Vịnh, người ngồi giữa trong 9 ông trong hình trên







Nam Định, 27-12-1897 - Cựu quyền Kinh lược sứ Nguyễn Trọng Hợp (1834-1902) đến dự lễ xướng danh khoa thi Hương năm Đinh Dậu. Ảnh: André Salles (1860-1929)

Nguyễn Trọng Hợp, trước tên là Nguyễn Tuyên, tự là Trọng Hợp, người Thanh Hóa, đỗ Cử-nhân năm 1858, đỗ Tiến-sĩ năm 1865.
Làm quan đến chức Thượng thư, Phụ chính đại thần, hàm Văn Minh điện Đại học sĩ, tước Vinh Trung tử. Tác giả tập Kim giang thi tập. Trong Hồi ký, P. Doumer tỏ ý rất kính trọng Nguyễn Trọng Hợp là một ông quan có học vấn cao, rất tế nhị và liêm chính. (vào cuối năm 1897 ông Nguyễn Trọng Hợp đã thôi làm Quyền Kinh lược sứ từ hơn 10 năm trước nên trong hình này ông chỉ là một Cựu Quyền Kinh lược sứ)
Nguyễn Trọng Hợp (1834-1902) tên là Tuyên, sau lấy tên tự là Trọng Hợp làm tên, hiệu là Kim Giang, biệt hiệu là Quế Bình; người làng Kim Lũ, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà nội, đỗ Cử-nhân năm 1858, đỗ Tiến sĩ đệ tam giáp năm 1865. (kỳ thi năm đó không lấy nhất giáp, chỉ có Trần Bích San người xã Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định đỗ nhị giáp; ông San đỗ đầu cả ba kỳ thi Hương, Hội và Đình nên được gọi là Tam nguyên Vị Xuyên)



12-1897 - Khoá thi Hương năm Đinh Dậu ở Nam Định – Quan giám khảo Trần Sĩ Trác. Ảnh: André Salles (1860-1929)


Nam Định, 28-12-1897 - Tổng đốc Nam Định-Ninh Bình Cao Xuân Dục đến Vọng Cung dự lễ các tân khoa bái vọng vua. Ảnh: André Salles (1860-1929)


Nam Định, 28-12-1897 - Tổng đốc Nam Định-Ninh Bình Cao Xuân Dục đến Vọng Cung dự lễ các tân khoa bái vọng vua. Ảnh: André Salles (1860-1929)



Nam Định, tháng 12-1897 - Khoa thi Hương năm Đinh Dậu - Ông Thân Trọng Khoái, Giám sát


Nam Định, tháng 12-1897 - Khoa thi Hương năm Đinh Dậu - Ông Thân Trọng Khoái, Giám sát



Nam Định, tháng 12-1897 - Một giám khảo Khoa thi Hương năm Đinh Dậu. Ảnh: André Salles (1860-1929)


Nam Định, tháng 12-1897 - giám khảo Khoa thi Hương năm Đinh Dậu. Ảnh: André Salles (1860-1929)


Nam Định, tháng 12-1897 - giám khảo Khoa thi Hương năm Đinh Dậu. Ảnh: André Salles (1860-1929)


Nam Định, tháng 12-1897 - Giữa hình là ông Cao Xuân Tiếu, Giám khảo trường Hà-Nam, khoa thi Hương năm Đinh Dậu (12/1897), là con ông Cao Xuân Dục. Ảnh: André Salles (1860-1929)
 

Ngao5

Vũ Trụ
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
51,127
Động cơ
1,072,531 Mã lực

Nam Định, tháng 12-1897 - Khoa thi Hương năm Đinh Dậu. Những người cầm lọng cho các giám khảo. Ảnh: André Salles (1860-1929)


Nam Định, tháng 12-1897 - Khoa thi Hương năm Đinh Dậu. Những người cầm lọng cho các giám khảo. Ảnh: André Salles (1860-1929)


Nam Định, tháng 12-1897 - Khoa thi Hương năm Đinh Dậu. Những người cầm lọng cho các giám khảo. Ảnh: André Salles (1860-1929)


Nam Định, tháng 12-1897 - Khoa thi Hương năm Đinh Dậu. Những người cầm lọng cho các giám khảo. Ảnh: André Salles (1860-1929)


Nam Định, 27-12-1897 - Lễ xướng danh những người thi đậu (cử nhân và tú tài) khoa thi Hương năm Đinh Dậu. Ảnh: André Salles (1860-1929)


Nam Định, 27-12-1897 - Lễ xướng danh những người thi đậu (cử nhân và tú tài) khoa thi Hương năm Đinh Dậu. Ảnh: André Salles (1860-1929)



Nam Định, 27-12-1897 - Lễ xướng danh những người thi đậu (cử nhân và tú tài) khoa thi Hương năm Đinh Dậu. Ảnh: André Salles (1860-1929)


Nam Định, 27-12-1897 - Lễ xướng danh khoa thi Hương năm Đinh Dậu. Đám đông theo dõi lễ xướng danh khi các tân khoa được hướng dẫn đi bái chào các quan giám khảo ngồi trên hai dãy ghế cao hai bên con đường Thập đạo dẫn vào từ cổng chính ở bìa trái hình. Ảnh: André Salles (1860-1929)
 

Ngao5

Vũ Trụ
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
51,127
Động cơ
1,072,531 Mã lực

Nam Định, 27-12-1897 - Lễ xướng danh khoa thi Hương năm Đinh Dậu. Các giám khảo ngồi thành hai hàng trên ghế cao để các tân khoa đi qua bái chào. Ảnh: André Salles (1860-1929)


Nam Định, 27-12-1897 - Lễ xướng danh khoa thi Hương năm Đinh Dậu. Các giám khảo ngồi thành hai hàng trên ghế cao để các tân khoa đi qua bái chào. Ảnh: André Salles (1860-1929)


Nam Định, 27-12-1897 - Lễ xướng danh khoa thi Hương năm Đinh Dậu. Các giám khảo ngồi thành hai hàng trên ghế cao để các tân khoa đi qua bái chào. Ảnh: André Salles (1860-1929)


Nam Định, 27-12-1897 - Lễ xướng danh khoa thi Hương năm Đinh Dậu. Các giám khảo ngồi thành hai hàng trên ghế cao để các tân khoa đi qua bái chào. Ảnh: André Salles (1860-1929)






Nam Định, 27-12-1897 - Lễ xướng danh khoa thi Hương năm Đinh Dậu. Tân khoa ra mắt Khảo quan (Trường Hà-Nam). Nghe xướng đến tên mình, ông Tân khoa phải ứng tiếng "Dạ" thật to, đưa trình thẻ căn cước rồi theo một người lính dẫn đến vái chào các Khảo quan. Ảnh: André Salles (1860-1929)


Nam Định, 27-12-1897 - Lễ xướng danh khoa thi Hương năm Đinh Dậu. Tân khoa ra mắt Khảo quan (Trường Hà-Nam). Nghe xướng đến tên mình, ông Tân khoa phải ứng tiếng "Dạ" thật to, đưa trình thẻ căn cước rồi theo một người lính dẫn đến vái chào các Khảo quan. Ảnh: André Salles (1860-1929)


 

Ngao5

Vũ Trụ
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
51,127
Động cơ
1,072,531 Mã lực

Nam Định, 27-12-1897 - Lễ xướng danh khoa thi Hương năm Đinh Dậu. Các Tân khoa ngồi đợi kết thúc lễ xướng danh sau khi được đưa đi chào ra mắt các giám khảo ngồi trên hai dãy ghế cao trong hình bên dưới. Ảnh: André Salles (1860-1929)


Nam Định, 27-12-1897 - Lễ xướng danh khoa thi Hương năm Đinh Dậu. Các Tân khoa ngồi đợi kết thúc lễ xướng danh sau khi được đưa đi chào ra mắt các giám khảo ngồi trên hai dãy ghế cao trong hình bên dưới. Ảnh: André Salles (1860-1929)



Nam Định, 27-12-1897 - Lễ xướng danh khoa thi Hương năm Đinh Dậu
Toàn quyền Paul Doumer, Thống sứ Bắc Kỳ Fourès, Công sứ Nam Định Lenormand, và Tổng đốc Cao Xuân Dục tham dự lễ xướng danh Khoa thi Hương năm Đinh Dậu trường Hà-Nam, diễn ra vào ngày 27-12-1897


Nam Định, 27-12-1897 - Lễ xướng danh khoa thi Hương năm Đinh Dậu
Toàn quyền Paul Doumer, Thống sứ Bắc Kỳ Fourès, Công sứ Nam Định Lenormand, và Tổng đốc Cao Xuân Dục tham dự lễ xướng danh Khoa thi Hương năm Đinh Dậu trường Hà-Nam, diễn ra vào ngày 27-12-1897



Nam Định, 27-12-1897 - Lễ xướng danh khoa thi Hương năm Đinh Dậu
Toàn quyền Paul Doumer, Thống sứ Bắc Kỳ Fourès, Công sứ Nam Định Lenormand, và Tổng đốc Cao Xuân Dục tham dự lễ xướng danh Khoa thi Hương năm Đinh Dậu trường Hà-Nam, diễn ra vào ngày 27-12-1897



Nam Định, 27-12-1897 - Lễ xướng danh khoa thi Hương năm Đinh Dậu
Toàn quyền Paul Doumer, Thống sứ Bắc Kỳ Fourès, Công sứ Nam Định Lenormand, và Tổng đốc Cao Xuân Dục tham dự lễ xướng danh Khoa thi Hương năm Đinh Dậu trường Hà-Nam, diễn ra vào ngày 27-12-1897



Nam Định, 27-12-1897 - Lễ xướng danh khoa thi Hương năm Đinh Dậu
Toàn quyền Paul Doumer, Thống sứ Bắc Kỳ Fourès, Công sứ Nam Định Lenormand, và Tổng đốc Cao Xuân Dục tham dự lễ xướng danh Khoa thi Hương năm Đinh Dậu trường Hà-Nam, diễn ra vào ngày 27-12-1897


Nam Định, 28-12-1897 – Các tân khoa Khoa thi Hương năm Đinh Dậu làm lễ tạ ơn vua ở Vọng cung, với sự hiện diện của các quan giám khảo, cựu quyền Kinh lược sứ Bắc Kỳ Nguyễn Trọng Hiệp và Công sứ Pháp Lenormand. Ảnh: André Salles (1860-1929)


Nam Định, 28-12-1897 – Các tân khoa Khoa thi Hương năm Đinh Dậu làm lễ tạ ơn vua ở Vọng cung, với sự hiện diện của các quan giám khảo, cựu quyền Kinh lược sứ Bắc Kỳ Nguyễn Trọng Hiệp và Công sứ Pháp Lenormand. Ảnh: André Salles (1860-1929)


Nam Định, 28-12-1897 – Các tân khoa Khoa thi Hương năm Đinh Dậu làm lễ tạ ơn vua ở Vọng cung, với sự hiện diện của các quan giám khảo, cựu quyền Kinh lược sứ Bắc Kỳ Nguyễn Trọng Hiệp và Công sứ Pháp Lenormand. Ảnh: André Salles (1860-1929)


Nam Định, 28-12-1897 – Các tân khoa Khoa thi Hương năm Đinh Dậu làm lễ tạ ơn vua ở Vọng cung, với sự hiện diện của các quan giám khảo, cựu quyền Kinh lược sứ Bắc Kỳ Nguyễn Trọng Hiệp và Công sứ Pháp Lenormand. Ảnh: André Salles (1860-1929)


Nam Định, 28-12-1897 – Các tân khoa Khoa thi Hương năm Đinh Dậu làm lễ tạ ơn vua ở Vọng cung, với sự hiện diện của các quan giám khảo, cựu quyền Kinh lược sứ Bắc Kỳ Nguyễn Trọng Hiệp và Công sứ Pháp Lenormand. Ảnh: André Salles (1860-1929)


Nam Định, 28-12-1897 – Các tân khoa Khoa thi Hương năm Đinh Dậu làm lễ tạ ơn vua ở Vọng cung, với sự hiện diện của các quan giám khảo, cựu quyền Kinh lược sứ Bắc Kỳ Nguyễn Trọng Hiệp và Công sứ Pháp Lenormand. Ảnh: André Salles (1860-1929)


Nam Định, 28-12-1897 – Các tân khoa Khoa thi Hương năm Đinh Dậu làm lễ tạ ơn vua ở Vọng cung, với sự hiện diện của các quan giám khảo, cựu quyền Kinh lược sứ Bắc Kỳ Nguyễn Trọng Hiệp và Công sứ Pháp Lenormand. Ảnh: André Salles (1860-1929)


Nam Định, 28-12-1897 – Vọng Cung trong ngày các tân khoa làm lễ bái vọng vua. Ảnh: André Salles (1860-1929)





Nam Định, 28-12-1897 – Vọng Cung trong ngày các tân khoa làm lễ bái vọng vua. Ảnh: André Salles (1860-1929)

 

Ngao5

Vũ Trụ
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
51,127
Động cơ
1,072,531 Mã lực







Nam Định, 28-12-1897 – Các tân khoa đến Dinh Công sứ Nam Định tạ ơn. Có mặt Cựu Quyền Kinh Lược sứ Bắc Kỳ Nguyễn Trọng Hiệp, Tổng đốc Cao Xuân Dục và Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer. Ảnh: André Salles (1860-1929)


Nam Định, 28-12-1897 – Các tân khoa đến Dinh Công sứ Nam Định tạ ơn. Có mặt Cựu Quyền Kinh Lược sứ Bắc Kỳ Nguyễn Trọng Hiệp, Tổng đốc Cao Xuân Dục và Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer. Ảnh: André Salles (1860-1929)


Nam Định, 28-12-1897 – Các tân khoa đến Dinh Công sứ Nam Định tạ ơn. Có mặt Cựu Quyền Kinh Lược sứ Bắc Kỳ Nguyễn Trọng Hiệp, Tổng đốc Cao Xuân Dục và Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer. Ảnh: André Salles (1860-1929)


Nam Định, 29-12-1897 – cỗ hàng nhất tại tư gia Tổng đốc Cao Xuân Dục: Công sứ Nam Định Lenormand và Cựu Quyền Kinh Lược sứ Bắc Kỳ Nguyễn Trọng Hiệp. Ảnh: André Salles (1860-1929)


Nam Định, 29-12-1897 – cỗ hàng nhất tại tư gia Tổng đốc Cao Xuân Dục: Công sứ Nam Định Lenormand và Cựu Quyền Kinh Lược sứ Bắc Kỳ Nguyễn Trọng Hiệp. Ảnh: André Salles (1860-1929)


Nam Định, 29-12-1897 – cỗ hàng nhất tại tư gia Tổng đốc Cao Xuân Dục: Công sứ Nam Định Lenormand và Cựu Quyền Kinh Lược sứ Bắc Kỳ Nguyễn Trọng Hiệp. Ảnh: André Salles (1860-1929)


Nam Định, 29-12-1897 – Tổng đốc Nam Định thay mặt nhà vua mở tiếc Lộc Minh khoản đãi các tân khoa, 4 người một mâm. Ảnh: André Salles (1860-1929


Nam Định, 29-12-1897 – Tổng đốc Nam Định thay mặt nhà vua mở tiếc Lộc Minh khoản đãi các tân khoa, 4 người một mâm. Ảnh: André Salles (1860-1929


Nam Định, 29-12-1897 – Tổng đốc Nam Định thay mặt nhà vua mở tiếc Lộc Minh khoản đãi các tân khoa, 4 người một mâm. Ảnh: André Salles (1860-1929


Nam Định, 29-12-1897 – Hai cử nhân tân khoa dạo phố để mọi người xem mặt. Ảnh: André Salles (1860-1929)


Nam Định, 29-12-1897 – Hai cử nhân tân khoa dạo phố để mọi người xem mặt. Ảnh: André Salles (1860-1929)



Nam Định, 29-12-1897 – Hai cử nhân tân khoa dạo phố để mọi người xem mặt. Ảnh: André Salles (1860-1929)

Thí sinh 60 tuổi ở trường thi Nam Định năm 1912 - Un candidat de 60 ans, Centre de Nam-Dinh, 1912
 

atlas09

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-527718
Ngày cấp bằng
20/8/17
Số km
1,975
Động cơ
191,650 Mã lực
Tuổi
39
Em xin hỏi cụ Ngao tí.
Thời thuộc Pháp thì quyền hành của vua nhà Nguyễn tới đâu hay Pháp nắm tất cả các Vua Nguyễn không có quyền hành gì.
Em chỉ hỏi khu vực bắc trung kỳ nhé. Vì nam kỳ thuộc Pháp rồi
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top