[Funland] Vịnh Bắc Bộ → Vũng Rô → ném bom miền Bắc

Trạng thái
Thớt đang đóng

Ngao5

Vũ Trụ
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
52,160
Động cơ
1,088,610 Mã lực
Những hình ảnh máy bay của ta
Trần Mạnh



Trần Hanh và Phạm Ngọc Lan



Nguyễn Văn Bảy (A)
có hai Nguyễn Văn Bảy trùng tên phân biệt bằng A, B
Nguyễn Văn Bảy (B) từng ném bom tàu chiến Mỹ ở Quảng Binh hôm 19-4-1972 và hy sinh 2 tháng sau đó

Nguyễn Văn Bảy (A) là Anh hùng không quân


Về già, gặp lại những địch thủ trên không ngày xưa



Trở về làm nghề nông













 
Chỉnh sửa cuối:

Ngao5

Vũ Trụ
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
52,160
Động cơ
1,088,610 Mã lực
Ngày đen tối và cuộc "lật đổ" ngoạn mục của MiG-21 Việt Nam

http://soha.vn/quan-su/ngay-den-toi-va-cuoc-lat-do-ngoan-muc-cua-mig-21-viet-nam-20140418121324531.htm



Chiến dịch Bolo và tổn thất lớn đầu tiên của Việt Nam


Trong năm 1966, Không quân Việt Nam đã giành được những chiến công vang dội trước Không quân Mỹ. Chiến thuật sử dụng tiêm kích MiG-21 cùng kỹ năng của phi công đã dần được cải thiện. Tuy nhiên, năm 1967 lại mở đầu bằng một ngày đen tối đối với Không quân Việt Nam.
Chỉ trong ít phút tham gia không chiến vào ngày 02/01/1967, đã có đến 5 chiếc MiG-21 của Trung đoàn 921 bị những chiếc F-4C thuộc Liên đội không quân chiến thuật số 8, Không quân Mỹ bắn rơi ngay trên khu vực sân bay Nội Bài. Các phi công MiG-21 đã bị rơi vào một cái bẫy trong trận đồ không chiến đã được Không quân Mỹ giăng sẳn trong “chiến dịch Bolo”
Chỉ huy chiến dịch là đại tá Robin Olds, một phi công “Át chủ bài” huyền thoại trong chiến tranh thế giới thứ 2. Trong chiến dịch này Không quân Mỹ đã sử dụng những chiếc F-4C đóng giả những chiếc tiêm kích-bom F-105 để nhử những chiếc MiG-21 ra vào trận đồ không chiến mà chúng giăng sẵn. Những chiếc F-4C sử dụng đúng đường bay, mật danh, tần số liên lạc thậm chí là cả hệ thống dẫn đường Doppler như những chiếc F-105 vẫn thường sử dụng.
Sự thành công trong chiến dịch Bolo của Không quân Mỹ lại cho thấy chiến thuật sử dụng MiG-21 của Việt Nam chưa thực sự hợp lý. Thông thường các máy bay MiG-21 chỉ được phép xuất kích khi máy bay địch đã vào cách sân bay 40km, điểm yếu này đã bị phía Mỹ khai thác triệt để.
Đầu năm 1967 Không quân Việt Nam đã gặp nhiều tổn thất nhưng sau đó đã khắc phục và dần kiểm soát thế trận trên bầu trời miền Bắc.
Trong cái ngày đen tối đó, lực lượng radar cảnh giới cũng gặp phải sai sót khi để 2 biên đội F-4C do Đại tá Robin Olds chỉ huy lọt vào đến sân bay Nội Bài mà không bị phát hiện. Khi đó, ngay khi được lệnh xuất kích những chiếc MiG-21 đã phơi mình dưới mưa tên lửa khi đội hình chiến thuật chưa kịp điều chỉnh.
Ngày 08/01/1967, Bộ tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân đã tổ chức cuộc họp rút kinh nghiệm về tổn thất nghiêm trọng của Trung đoàn 921 và đi đến quyết định điều chỉnh chiến thuật sử dụng MiG-21. Chiến thuật mới được điều chỉnh theo hướng du kích “đánh nhanh rút gọn”.
Số tiêm kích MiG-21 trực ban được điều chỉnh giữ ở mức từ 2-4 chiếc mỗi ca trực, khi xuất kích đánh chặn, MiG-21 được đài chỉ huy mặt đất liên tục nhắc nhở về việc thường xuyên thay đổi độ cao và tốc độ theo kiểu “thoắt ẩn, thoắt hiện” để tấn công đối phương kết hợp với MiG-17 làm nhiệm vụ hiệp đồng nghi binh.

____________________
 

Ngao5

Vũ Trụ
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
52,160
Động cơ
1,088,610 Mã lực
Ngày bi tráng của Không quân Việt Nam 48 năm trước

http://nguyentandung.org/ngay-bi-trang-cua-khong-quan-viet-nam-48-nam-truoc.html

Ngày 2/1/1967. “Ngày dài” ấy đã có tới 5 chiếc Mig-21 của Không quân trẻ tuổi Việt Nam bị những chiếc F-4C của Liên đội không quân chiến thuật số 8 Không quân Mĩ bắn rơi trên bầu trời Nội Bài, Hà Nội

Một ngày dài của không quân Việt Nam

Đã có những bài báo nói như vậy, ấy là nói về ngày 2 tháng 1 năm 1967. “Ngày dài” ấy đã có tới 5 chiếc Mig-21 của Không quân trẻ tuổi Việt Nam bị những chiếc F-4C của Liên đội không quân chiến thuật số 8 Không quân Mĩ bắn rơi trên bầu trời Nội Bài vùng trời Hà Nội. Tổng hợp diễn biến này, không có gì khác nhằm nói lên một sự thật nghiệt ngã là cuộc chiến đấu bảo vệ vùng trời những năm tháng ấy thật quyết liệt, đầy thử thách cam go, không hề dễ dàng để có những chiến công lẫy lừng ở “mặt trận trên không”.

Trưa ngày 2 tháng 1 năm 1967, đội hình chiến dịch Bolo của Không quân Mỹ do đại tá phi công, tên là Robin Olds dẫn đầu bay vào miền Bắc Việt Nam với mật danh liên lạc “Olds”. Trong đội hình 90 máy bay của Olds có 56 chiếc F-4C, 28 máy bay F-105 làm nhiệm vụ chế áp tên lửa SAM và 8 máy bay F-104 Starfighters, tổng số gần 100 chiếc. Ngoài ra, ít nhất cũng có số lượng gần 100 chiếc máy bay trợ chiến (như các máy bay EB-66, EC-121, A-1 Skyraider, các máy bay trực thăng).

Khi trên bàn tiêu đồ của Sở chỉ huy không quân Hà Nội phát hiện nhiều tốp mục tiêu bay vào hướng Phú Thọ, có thể chúng sẽ đánh vào Hà Nội, điện từ Trung đoàn 921 ( căn cứ Nội Bài) xin xuất kích.

Lúc đó là 13 giờ 46 phút, biên đội MiG-21 thứ nhất, gồm Vũ Ngọc Đỉnh, Nguyễn Văn Thuận, Nguyễn Đăng Kính, Bùi Đức Nhu cất cánh. 4 chiếc MiG-21 đều đeo tên lửa R-3S. Khi xuyên mây ở địa bàn huyện Phù Ninh (Phú Thọ), cách sân bay chừng 43km thì gặp tốp bốn chiếc F-4 của Mỹ từ Phú Thọ (cách sân bay khoảng 55km) lao vào. Biên đội 4 chiếc MiG đang ở đội hình chiến đấu dạng so le, quay bám theo đến phía tây sân bay (Nội Bài) thì gặp bốn chiếc F-4 khác. Số 1 Vũ Ngọc Đỉnh tăng lực đuổi theo, tốp F-4 lập tức cơ động đội hình, bay đan chéo rất quyết liệt khiến Đỉnh không phóng được tên lửa. Đỉnh quyết định vòng trái quay về, thì phát hiện hai chiếc F-4 phía sau phóng tên lửa về phía anh ở thế cao hơn, Đỉnh không kịp cơ động tránh, máy bay bị trúng tên lửa chấn động mạnh không điều khiển được, Đỉnh nhảy dù.

Số 3 là Kính, phát hiện tốp bốn chiếc F-4 khác đã dũng mãnh bám theo, cả bốn chiếc F-4 tăng tốc kéo cao. Thế có lợi thuộc về tốp F-4 so với máy bay của Kính (cao hơn, góc bắn thuận). Đại tá Olds trong tốp này đeo bám bám ngay trên Kính , phóng ra hai quả tên lửa Sparrow và một quả Sidewinder. Chỉ trong giây lát, chiếc MiG của Kính bị chấn động mạnh, anh quyết định nhảy dù. Theo mô tả các tình tiết của trận đánh, nhiều khả năng chiếc F-4C do đại tá Robin Olds điều khiển đã phóng ra hai quả AIM-7 nhưng không trúng mục tiêu, sau đó R.Olds đã chuyển công tắc sang tên lửa nhiệt (heat) và phóng ra quả AIM-9B, quả tên lửa này đã nổ bên cạnh máy bay của Kính.



Hai chiếc MiG-21 số 2 và số 4 sau khi bị mất đội với số 1 và số 3 đã đuổi theo, quần lộn với các máy bay F-4, nhưng do phía F-4 số lượng đông, phóng tên lửa từ nhiều góc tới, nên cả hai máy bay này lần lượt cũng bị trúng tên lửa. Như vậy, đội hình MiG-21 sau khi lên khỏi mây đã bị kẹp vào giữa, cả bốn chiếc đều trúng tên lửa của đối phương.

Tới 13g55, sở chỉ huy cho biên đội thứ hai gồm Nguyễn Ngọc Độ, Đặng Ngọc Ngự, Đồng Văn Đe và Nguyễn Văn Cốc cất cánh (hai chiếc MiG-21 của Ngự và Cốc đeo rocket). Sau khi lên khỏi mây, biên đội đang bay độ cao 3.000m, Đe hô phát hiện mục tiêu, vòng trái gấp. Lúc này số 1 Độ cũng phát hiện mục tiêu, vứt thùng dầu phụ, vòng trái. Sau khi cơ động kín một vòng, Độ thấy F-4 bắn hai phát tên lửa về phía đội hình MiG, Độ quyết định bám theo hai chiếc phía trước, đến cự ly 2.000m điểm ngắm vừa ổn định, Độ phóng một quả tên lửa, chợt thấy máy bay mình xoay nghiêng và mất độ cao, Độ quyết định nhảy dù và tiếp đất ở Tuyên Quang. Trong khi đó các số 2,3,4 của biên đội MiG thứ hai đã quần nhau với F-4 rất quyết liệt, nhưng cả hai phía đều không chiếm được vị trí để không kích, cả ba chiếc MiG-21 đành quay về sân bay.

Mất 5 máy bay trên vùng trời Hà Nội, tuy 5 phi công nhảy dù an toàn, nhưng đó là một ngày dài, tổn thất máy bay nặng nề, ngày không quên của Không quân tiêm kích.

Nhìn thẳng vào sự thật

Lịch sử ngành dẫn đường không quân ghi lại như sau: “Trưa 2 tháng 1 năm 1967, địch tăng cường hoạt động ở phía Sầm Nưa và nhiều tốp đã hướng về Phú Thọ. Có thể chúng sẽ vào đánh Hà Nội theo các đường bay như mấy ngày đầu tháng 12 năm ngoái. Địch qua Phù Yên, Trung đoàn 921 xin đánh. 13 giờ 56 phút, biên đội thứ nhất: Vũ Ngọc Đỉnh, Nguyễn Đức Thuận, Nguyễn Đăng Kính và Bùi Đức Nhu rời đất và xuyên lên trên mây. Các trực ban dẫn đường: Nguyễn Văn Chuyên, Đào Ngọc Ngư tại Sở chỉ huy Quân chủng và Tạ Quốc Hưng tại sở chỉ huy Trung đoàn 921 thực hiện dẫn phối hợp. Biên đội thứ nhất đến Phù Ninh thì gặp 4 F- 4 từ Phú Thọ vào. Ta đuổi địch về đến phía tây của sân bay Nội Bài lại gặp 4 F-4 nữa. Trong tình thế rất khó khăn, cả 4 chiếc của ta đều bị địch bắn và phải nhảy dù. Đúng lúc đó biên đội thứ hai: Nguyễn Ngọc Độ-số 1, Đặng Ngọc Ngự-số 2, Đồng Văn Đe-số 3 và Nguyễn Văn Cốc-số 4 cất cánh. Vừa lên khỏi mây, biên đội thứ hai được dẫn vào tiếp địch với góc 120 độ. Số 1 phát hiện cả F-4 và F- 105, cự ly 8km. Sau đó hai bên quần nhau, số 1 bị địch bắn, nhưng nhảy dù an toàn, các số còn lại tách tốp thoát ly về hạ cánh.”

Sau này phân tích chi tiết, về khí tượng, bầu trời cả 2 sân bay ( Nội Bài, Yên Bái) khi đó đều bị phủ mây dày với lượng che phủ 10 phần, đáy mây 1500 mét và đỉnh mây 3000 mét. Các bài viết phân tích, Hà Nội đã không cho cất cánh sớm, để thực hiên chiến thuật “đi thấp, kéo cao, tiếp cận nhanh vào cuối đội hình của địch, tạo thuận lợi cho phi công lần lượt hoặc đồng thời vào công kích” như những trận đánh trước đó. Nhưng mỗi trận đánh, hình thái địch-ta không giống nhau. Điều này Sở chỉ huy không nắm hết. Số là hệ thống đài ra đa cảnh giới đã không phát hiện đầy đủ số máy bay Mĩ tham gia chiến dịch.

“Về chiến dịch gọi là “Bolo” ngày 2 tháng 1 năm 1967, có hai biên đội “Con ma” do đích thân đại tá Olds chỉ huy đã lọt tới chiếm vị trí chiến đấu ngay trên đỉnh mây sân bay Nội Bài ở độ cao 3000 m mà không bị phát hiện. Khi đó dù lực lượng Mig đã được phép xuất kích, nhưng lại bay dưới trần mây và không được trang bị ra đa nên không phát hiện ra đám “Con ma” này”.

Không quân Mỹ triển khai chiến dịch Bolo rất bài bản, giữ bí mật ý đồ tác chiến nên đã gây bất ngờ cho không quân Việt Nam. Các phi công Mỹ tham gia trận không chiến được tập trung nghiên cứu kỹ mọi chi tiết của chiến dịch, cách sử dụng các thiết bị tác chiến điện tử, cách nghi binh, sử dụng vũ khí.

Để nghi binh đánh lạc hướng mạng rađa của miền Bắc Việt Nam, không quân Mỹ kết hợp bố trí đội hình (đội hình bay, thời gian cất cánh, tốc độ, độ cao) và các thiết bị tác chiến điện tử, gây nhiễu (máy bay F-4 đeo khối ECM Pod với thiết bị gây nhiễu QRC-160 Jamming Pod, giống các máy bay F-105) làm cho không quân Việt Nam lầm tưởng máy bay tiêm kích là các tốp cường kích!

Khi chiến dịch bắt đầu, các máy bay tiêm kích Mỹ bay “rình sẵn” trên mây, ngay trên vùng trời sân bay, sẵn sàng tấn công khi các máy bay MiG-21 vừa xuyên mây lên khi chưa tập hợp xong đội hình.

Các tốp F-4 của đại tá R.Olds đã bay vào Hà Nội ở độ cao thấp, khiến rađa khu vực Hà Nội và phụ cận không phát hiện được, khi R.Olds qua dãy Tam Đảo đã triển khai bay phục kích MiG-21 ở ngay hai đầu sân bay sớm, trước khi các tốp F-4 giả cường kích ném bom F-105 bay vào. Khi MiG-21 cất cánh, chủ đích để đi đánh chặn đã bị phục kích bất ngờ, chịu tổn thất ngay khi mới xuyên mây lên.

Sau trận đánh, bài học xương máu về nắm chắc địch được rút ra: “Trong khu chiến, ra đa phải nắm chắc địch, dẫn đường và phi công phải tìm mọi cách giám sát chặt chẽ mọi hành động của từng tốp địch, nhất là khi gặp cả cường kích và tiêm kích hoặc chỉ gặp tiêm kích, thì mới tạo ra khả năng giành được phần thắng và hạn chế được tổn thất.” và “Các kíp trực ban dẫn đường đã kết hợp theo dõi địch bằng các nguồn tin tình báo kỹ thuật, tình báo xa và tình báo gần để dự đoán các đường bay vào và bay ra của địch; tính toán đúng thời cơ cất cánh cho các đôi bay của ta; lựa chọn khu chiến phù hợp.” Các sĩ quan dẫn đường của Việt Nam cũng thừa nhận, dẫn máy bay đánh đúng cường kích địch vẫn là bài toán cực kỳ khó khăn. Trong lúc dẫn vào bám địch, nếu phi công phát hiện chỉ có tiêm kích hoặc có cả tiêm kích và cường kích, thì trận đánh buộc diễn ra rất quyết liệt. Lúc này, đường bay ta-địch đan xen lẫn nhau như một mớ bòng bong, đa tầng, nhiều hướng nên “dẫn đường căng thẳng một, phi công căng thẳng mười”.

Theo các tài liệu giải mật sau này, được nhiều báo đăng lại rằng chiến dịch Bolo chính thức được mở màn vào ngày 2/1/1967 .Trong điều kiện thời tiết xấu như vậy, tầm quan sát của phi công bị giảm nhiều, F-4 sẽ không thể bao quát được hoạt động của các căn cứ MiG-21…Tuy nhiên, MiG-21 cũng sẽ không thể phát hiện sớm F-4, sau khi xuyên qua các tầng mây chắc chắn sẽ rơi vào thế bị động.

Theo trang World Aviation History thì những đám mây dày đặc có đỉnh lên tới hơn 2km (7.000 feet) khiến “chỉ huy của Không quân Bắc Việt hoãn các chuyến cất cánh của MiG thêm 15 phút”. Các biên đội F-4 cố lượn nhiều lần trên bầu trời Hà Nội, đầu tiên là theo hướng đông-nam, sau đó theo tây-bắc.

World Aviation History cũng cho biết: Vào cận chiến, quần lộn, các máy bay Phantom đã phóng tổng cộng 18 tên lửa AIM-7E Sparrow và 12 AIM-9B Sidewinde. 2 biên đội mà MiG-21 của Không quân Nhân dân Việt Nam gặp phải khi đó chính là hai biên đội Olds và Ford. Trận chiến sinh tử thực sự bắt đầu. MiG-21 gặp quá nhiều khó khăn. Ngay khi chạm đối phương, họ đã bị bất ngờ vì phải đối mặt với F-4 đeo đầy tên lửa “chứ không phải F-105 mang bom”. Những bức tranh vẽ và hình ảnh lưu lại, cùng sự mô tả cho thấy, đại tá R.Olds khi được thống báo có MiG, đã nhanh chóng làm một cú “bay cuộn tròn, vọt ngược” hay còn gọi “cuộn máy bay theo trục dọc”, tạo ưu thế cao hơn đối phương, hình thành góc tiếp cận phóng tên lửa lợi thế cho F-4C. Những quả tên lửa đã phóng ra, khiến MiG trúng đạn, nhưng phi công kịp nhảy dù.

Sau những ngày gian nan ấy, cả hệ thống ra đa cảnh giới, ra đa dẫn đường và sở chỉ huy Không quân Việt Nam đã rút ra bài học xương máu, cả về nắm chắc địch, ở tầm cao, tầm thấp, cả về thời cơ cất cánh và cách đánh… “Địch càng đánh ác liệt, ta càng bền bỉ tìm ra những chỗ yếu, những chỗ sơ hở của chúng để dẫn bằng được các tốp máy bay ta vào tiếp cận. Cách thức dẫn trên bàn dẫn đường tại sở chỉ huy kết hợp với dẫn trên hiện sóng tại đài ra-đa dẫn đường càng trở nên phong phú”. Chỉ sau đó không lâu, một thời kỳ đánh thắng ròn rã không quân Mỹ lại mở ra, những đợt tập kích vào “vòng tròn đỏ” liên tục bị bẻ gãy.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
52,160
Động cơ
1,088,610 Mã lực
Robin Olds là phi công duy nhất có hai máy bay do ông lái được đưa vào Bảo tàng Không quân Hoa Kỳ





 

Ngao5

Vũ Trụ
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
52,160
Động cơ
1,088,610 Mã lực
Robin Olds trở về căn cứ sau khi chỉ huy phi đội hạ 5 MiG



Đóng thêm những ngôi sao chiến thắng



 
Chỉnh sửa cuối:

Ngao5

Vũ Trụ
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
52,160
Động cơ
1,088,610 Mã lực








 

Ngao5

Vũ Trụ
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
52,160
Động cơ
1,088,610 Mã lực


 

Ngao5

Vũ Trụ
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
52,160
Động cơ
1,088,610 Mã lực


 

pain

Xe ba gác
Biển số
OF-26066
Ngày cấp bằng
19/12/08
Số km
20,324
Động cơ
125,964 Mã lực
Nơi ở
Tháng 3
Ảnh tư liệu
Hoàng Ích - một ban học (lớp bên) trường Ngô Quyền Hải Phòng với ngao5, sang Trung Quốc học lái MiG-19, bay số 2 bảo vệ phi công Lê Hải (Anh hùng không quân) trong trận đánh phối hợp với MiG-21 phục kích máy bay Mỹ đã hy sinh hôm 23-6-1972 tại Quỳ Hợp, Nghệ An









Phi công Lê Hải năm 1967


Cụ Hoàng Ích đẹp trai quá! Vẻ đẹp rất hào hoa!
 

Ngao5

Vũ Trụ
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
52,160
Động cơ
1,088,610 Mã lực


MiG ném bom tàu chiến Mỹ
Hồi 16h15 ngày 19-4-1972, hai máy bay MiG-17 do Lê Xuân Dị và Nguyễn Văn Bảy (B) đã bất ngờ ném bom 250 cân Anh xuống hai khu trục hạm USS Higbee và Oklahoma City trong lúc hai tàu chiến này đang pháo kích ở ngoài khơi Quảng Bình gây hoang mang cho hải quân Hoa Kỳ.
USS Higbee bị hư hại, 3 lính thuỷ Mỹ bị thương
Một ngày trước đó, hai MiG-17 được bí mật đưa vào sân bay dã chiến Troóc phục kích (nay nằm trên đường Hồ Chí Minh chạy qua Khe Gát, cách chân đèo Đá Đẽo chừng 3 km về phía Phong Nha)




Vị trí sân bay Troóc bây giờ nằm ở vị trí tấm bia này




USS Higbee bị hư hại ở tháp pháo do nổ đạn






 
Chỉnh sửa cuối:

Ngao5

Vũ Trụ
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
52,160
Động cơ
1,088,610 Mã lực








 

Ngao5

Vũ Trụ
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
52,160
Động cơ
1,088,610 Mã lực










 

Ngao5

Vũ Trụ
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
52,160
Động cơ
1,088,610 Mã lực
TRƯỜNG SƠN và ĐƯỜNG HỒ CHÍ MINH
Một kỳ tích của chúng ta trong chiến tranh chống Mỹ
Tháng 5-1959, Đại tá Võ Bẩm cùng một đoàn chiến sĩ quân đội được giao nhiệm vụ bí mật tìm đường đưa vũ khí vào miền Nam
Gọi là Đoàn 559
Đoàn đóng quân tại Khe Ho (Quảng Bình, sát với giới tuyến quân sự



Bằng dao và gùi, vượt rừng rậm, không để lại dấu vết đã vạch ra đường qua giới tuyến tới Hương Hoá, Quảng Trị
Từ đó, xe tải chở hàng tập kết ở Quảng Trạch và xe đạp thồ đưa hàng đến Khe Ho. Từ Khe Ho, dân công sẽ gùi hàng và vũ khí đưa vào Nam
Một năm sau, địch biết tuyến đường mòn này, ông Võ Bẩm phải liên hệ với Pathet Lào, mở đường mòn dọc biên giới trên lãnh thổ Lào
Từ đó mạng đường mòn vào Nam được hình thành và phát triển thành đường ô tô
Theo hiệp định hoà bình về Lào, ký năm 1962. Tất cả quân đội nước ngoài phải rút khỏi Lào. Do vậy Quốc hội Mỹ không cho phép quân đội Mỹ hoạt động quân sự ở đây
Từ 1964, khi ta công khai mở rộng hệ thống đường ô tô trên lãnh thổ Lào, cũng là lúc Mỹ ném bom ác liệt tuyến đường này.
Để che giấu tung tích, trong các báo cáo, các máy bay Mỹ được cho là của VNCH xuất phát từ Nam Việt Nam
Những phi công Mỹ tử trận, đều được gán là tử trận trong những phi vụ ở Nam Việt Nam
 
Chỉnh sửa cuối:

Ngao5

Vũ Trụ
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
52,160
Động cơ
1,088,610 Mã lực
Những hình ảnh về Đường Trường Sơn






 

Ngao5

Vũ Trụ
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
52,160
Động cơ
1,088,610 Mã lực






 

Ngao5

Vũ Trụ
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
52,160
Động cơ
1,088,610 Mã lực








 

Ngao5

Vũ Trụ
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
52,160
Động cơ
1,088,610 Mã lực




 

Ngao5

Vũ Trụ
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
52,160
Động cơ
1,088,610 Mã lực




 

Ngao5

Vũ Trụ
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
52,160
Động cơ
1,088,610 Mã lực




 
Trạng thái
Thớt đang đóng
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top