"Buồn cười" cháu không dùng với ý nghĩa "chê cười", cháu dùng với ý nghĩa là: cảm giác rất buồn cười khi một tên riêng của người Trung Quốc mà người Việt Nam cứ cho rằng phải đọc thế này/hay thế kia mới đúng, trong khi những cách đọc đó người Trung Quốc không hiểu. Cháu thử hỏi đứa bạn Trung Quốc 3 cách đọc (Thạch Cảm Đương, Thạch Cảm Đang, shigandang) xem nó có hiểu không, và đây là kết quả.
Chữ (當) có 3 cách đọc theo tự điển (đang, đáng, đương) và một cách đọc không ghi trong tự điển (đăng). Nhưng tự điển chỉ cho chúng ta biết thời điểm hiện tại có bao nhiêu cách đọc, tự điển không cho chúng ta biết trong quá khứ, thời điểm xuất hiện của những cách đọc đó.
Ngôn ngữ luôn phát triển trong sự vận động của cuộc sống, cho nên không phải mọi cách đọc đều xuất hiện cùng một lúc với chữ viết, vì vậy cháu lấy Truyện Kiều làm dẫn chứng để cho thấy ~ 200 năm trước, khi người Việt nói đương/đang thì chữ (當) dùng để ghi lại, còn "đáng" có thể xuất hiện ở thời điểm khác, "đăng" xuất hiện ở thời điểm khác.
Hoặc ví dụ chữ (貉) - Lạc, mới chỉ có tài liệu (Lĩnh Nam Trích Quái) chứng minh thời điểm xuất hiện ở thế kỷ 13, còn trước đó không có tài liệu nào cả. Trong khi truyền thuyết về Lạc Long Quân (貉龍君) có từ ~ 4000 năm trước.
(1) Truyền thuyết về Lạc Long Quân có từ 4000 năm trước.
(2) Nhưng không có nghĩa là chữ (貉) có từ 4000 năm trước.
(1) và (2) là khác nhau, nhưng hay bị nhầm lẫn là cùng với nhau.
Tương tự như vậy với (當), không ai biết là chữ (當) có trước hay cách người Việt nói (đang, đáng, đương) có trước.