Tôi không có thông tin chi tiết về vụ phát hành trái phiếu gần đây của Vingroup. Nhưng nếu yield cho trái phiếu đó của Vin bằng 12% và giả sử yield cho trái phiếu 35 năm bằng yield cho 2 năm thì nếu...
www.facebook.com
Tôi không có thông tin chi tiết về vụ phát hành trái phiếu gần đây của Vingroup. Nhưng nếu yield cho trái phiếu đó của Vin bằng 12% và giả sử yield cho trái phiếu 35 năm bằng yield cho 2 năm thì nếu Vin tự phát hành trái phiếu zero-coupon trị giá 50 tỷ USD (face value) họ chỉ nhận được gần 900 triệu USD. Ngược lại nếu họ muốn có 50 tỷ cash thì phải phát hành bond với face value hơn 2.6 nghìn tỷ USD, gấp hơn 5 lần GDP hiện tại của VN. Ngay cả nếu họ rải 50 tỷ ra trong 5 năm thì khoản vay này vẫn có face value trên 2 nghìn tỷ USD.
Như vậy chỉ xét về mặt funding dự án ĐSCT này không khả thi cho Vin hay bất kỳ một doanh nghiệp tư nhân nào của VN tự thực hiện. Giả sử funding không thành vấn đề (vd chính phủ có thể vay được từ WB với lãi suất bằng không hoặc rất thấp) nhiều khả năng ĐSCT vẫn không khả thi về mặt thương mại thuần túy (NPV âm). Nhưng về mặt kinh tế (vĩ mô) liệu dự án này có nên triển khai không (dù dưới hình thức PMU truyền thống hay PPP như Vin đề xuất)?
Tôi không có câu trả lời (và tôi nghĩ hiện tại chưa có ai có câu trả lời), chỉ khi nào thực hiện (economic) cost-benefit analysis (CBA) mới có thể biết một cách tương đối. CBA, là một phần của Feasibility Study của dự án, không chỉ tính đến thu nhập từ tiền bán vé mà còn spillover effect của tuyến đường sắt vào nền kinh tế nói chung và các địa phương dọc tuyến nói riêng. Những lợi ích gián tiếp như giảm tải cho hàng không, giãn bớt dân khỏi các đô thị lớn, giảm thời gian đi lại của người dân... cũng phải tính đến.
Về phía chi phí, ngoài số tiền đầu tư, vận hành, bảo trì cho tuyến ĐSCT, có 2 loại chi phí gián tiếp quan trọng CBA sẽ phải tính đến. Thứ nhất là tác động crowding out của khoản vay này đến các khoản đầu tư khác do lãi suất/yield sẽ tăng. Tỷ lệ nợ công/GDP tăng có thể ảnh hưởng đến credit rating của VN, ảnh hưởng đến đầu tư nước ngoài vào VN. Vấn đề crowding out cũng có thể ảnh hưởng đến lạm phát, tỷ giá.
Thứ hai, như nhiều người đã chỉ ra, đó là opportunity cost của dự án này. Với số tiền đầu tư đó nếu chi tiêu cho các mục đích khác (y tế, giáo dục, cầu, cảng, đường cao tốc) thì tác động kinh tế/xã hội có tốt hơn không. Những phân tích/đánh giá loại này thường rất khó/thiếu chính xác nhưng vẫn nên làm để có một cái nhìn tổng thể cho dự án.
Cá nhân tôi ủng hộ các dự án xây dựng hạ tầng, tuy nhiên về mặt ưu tiên tôi nghĩ nên phát triển/cải thiện hệ thống đường sắt thường trước (cùng với đường bộ và đường thủy) để nâng cao năng lực và giảm chi phí logistics của VN. Đợt vừa rồi về SG nhìn những đoàn xe container xếp hàng trên đường Nguyễn Văn Linh (đợi lên cầu Phú Mỹ) tôi nghĩ hạ tầng logistics của SG sẽ không chạy theo nổi tốc độ tăng trưởng trong vài năm tới, sẽ làm chậm lại tăng trưởng đáng kể.
Có lẽ VN đang rất muốn đẩy mạnh đầu tư, cả công lẫn tư, cho mục đích tăng trưởng (hai con số). Nghị quyết 68 là bước đi chuẩn bị cho kế hoạch tăng trưởng này, mở ra con đường cho các doanh nghiệp tư nhân (nội địa) đầu tư vào các siêu dự án (có hay không trợ giúp của chính phủ). Đây là chính sách đúng nhưng phải cân nhắc đến năng lực của doanh nghiệp và năng lực của cả nền kinh tế (potential GDP).
Export-led growth đã từng là chính sách được WB/IMF khuyến khích và các nước Đông/ĐNÁ theo đuổi thành công. Trong bối cảnh thế giới hiện tại có lẽ infrastructure-led growth sẽ là chính sách được các nước đang phát triển theo đuổi. TQ đã phần nào theo đuổi chính sách này trong 1-2 thập kỷ qua, VN còn rất nhiều dư địa cho phát triển infrastructure. Có điều nên tránh các dự án hoành tráng, các "white elephant" có ít/không tác động lan tỏa đến nền kinh tế.
1 bài viết rất hay để đọc