GÓC KHUẤT CHIẾN TRANH
Thớt 1:
ĐOÀN Z – PHI CÔNG BẮC TRIỀU)
THÔNG TIN BỔ XUNG NGÀY 15 THÁNG 07 NĂM 2025
Một số thông tin về hoạt động của KQND Triều Tiên ở Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ (thông tin chủ yếu từ sách "Đi tìm thung lũng MiG" của Trung tướng Phạm Phú Thái và đối chiếu với các tài liệu Mỹ).
Theo thỏa thuận giữa 2 nước, từ tháng 10-1966 một bộ phận của KQND Triều Tiên (phi công, cán bộ chỉ huy, tham mưu, hậu cần, kỹ thuật) có mặt trên miền Bắc Việt Nam để trực tiếp tham gia chiến đấu.
Tính từ năm 1966 đến 1968, KQND Triều Tiên có 08 đợt thay và bổ sung quân sang Việt Nam:
- Từ 20/10/1966: đợt 1 có 82 người trong đó có 18 phi công.
- Từ 21/12/1966: đợt 2 có 55 người trong đó có 18 phi công.
- Từ 01/6/1967: đợt 3 có 28 người trong đó có 13 phi công.
- Từ 25/7/1967: đợt 4 có 29 người trong đó có 12 phi công.
- Cuối năm 1967: đợt 5 và 6 có tổng cộng 121 người trong đó có 19 phi công.
- Tháng 4/1968: đợt 7 có 36 người trong đó có 16 phi công.
- Tháng 8/1968: đợt cuối cùng có 71 người trong đó có 21 phi công.
Tổng cộng quân số của KQND Triều Tiên sang Việt Nam có 422 (lượt) người trong đó có 117 phi công

. Lực lượng này được tổ chức thành 01 trung đoàn tiêm kích gồm 02 đại đội MiG-17 và 01 đại đội MiG-21 (mỗi đại đội gồm 10 máy bay). Khí tài trang bị và công tác bảo đảm do phía Việt Nam cung cấp.
Đơn vị không quân Triều Tiên mang phiên hiệu chính thức là Trung đoàn 927 (hay đơn vị 2203), thường được gọi là "Đoàn Z" trong các tư liệu Việt Nam, hoạt động trên nguyên tắc là đơn vị trực thuộc PKKQ Việt Nam. Trung đoàn 927 do Thiếu tá Đỗ Hữu Nghĩa làm Trung đoàn trưởng, Thiếu tá Mai Đức Toại làm Chính ủy và Đại úy Ngô Thế Dong làm Tham mưu trưởng. Trong Đoàn Z có bộ phận chỉ huy, tham mưu, dẫn đường để chỉ huy hoạt động chiến đấu của bản thân dưới sự chỉ huy, điều hành chung của BTL PKKQ Việt Nam.
Sau khi có mặt và tiến hành huấn luyện làm quen ở căn cứ Đa Phúc, từ tháng 12-1966 Đoàn Z bước vào trực chiến, có 06 lần xuất kích chiến đấu với 24 lần/chiếc MiG-17 nhưng chưa trực tiếp giao chiến.
Ngày 09/2/1967, Thượng tá Hoàng Ngọc Diêu, Quyền Tham mưu trưởng QC PKKQ ký quyết định điều Trung đoàn không quân 923 về căn cứ Gia Lâm, bàn giao hoàn toàn căn cứ Kép cho Đoàn Z. Trong quá trình chiến đấu về sau, các phi công Triều Tiên cũng có những thời điểm cơ động về sân bay Đa Phúc hoặc Gia Lâm tùy theo tình hình.
Từ tháng 3/1967, phi công Triều Tiên bắt đầu trực tiếp chiến đấu với máy bay Mỹ. Ngày 10/3/1967, Đoàn Z có những tổn thất đầu tiên là 02 phi công hy sinh: Thiếu tá Kim Quang Oc (sn 1932) bị bắn rơi và Đại úy Kim Non Hoan (sn 1936) bị tai nạn khi hạ cánh. Theo phía Mỹ trong ngày này, Đại úy Max C. Brestel lái chiếc F-105D 62-4284 thuộc Phi đoàn 354, Không đoàn 355 KQ Mỹ xuất phát từ Takhli vào đánh Thái Nguyên bắn rơi 02 MiG-17 bằng cannon, là "double kill" đầu tiên của KQ Mỹ ở Việt Nam.
Ngày 24/4/1967, Đoàn Z được ghi nhận chiến công đầu tiên khi Trung tá Chang Cong Xun bắn rơi 01 cường kích F-105 trên vùng trời Lục Ngạn. Phía Mỹ không xác nhận mất F-105, mặc dù ghi nhận mất 01 F-4B thuộc Phi đoàn 114 và 01 A-6A thuộc Phi đoàn 62 trên TSB Kitty Hawk, đều do cao xạ bắn khi vào đánh sân bay Kép.
Ngày 30/4/1967, Đoàn Z được ghi nhận bắn rơi 02 F-105 trên vùng trời Lục Nam - Lục Ngạn. Phía Mỹ không xác nhận tổn thất của trận này mà cho rằng Đại úy Thomas C. Lesan lái chiếc F-105D thuộc Phi đoàn 44, Không đoàn 355 KQ Mỹ bắn rơi 01 MiG-17 bằng cannon.
Ngày 01/5/1967, Đoàn Z được ghi nhận bắn rơi 02 F-4 trên vùng trời Lục Ngạn - Chũ, đồng thời cũng bị bắn rơi và hy sinh 02 phi công là Đại úy Bac Tong Dun (sn 1939) và Thượng úy Li Chang In (sn 1937). Phía Mỹ không xác nhận mất F-4 nào trong ngày này và ghi nhận 02 MiG-17 bị máy bay HQ Mỹ bắn hạ: Thiếu tá M. O. Wright lái F-8E thuộc Phi đoàn 211 hạ 01 MiG bằng tên lửa AIM-9, Trung tá T. R. Swartz lái A-4 thuộc Phi đoàn 76 hạ 01 MiG bằng rocket Zunis 127mm. Cả 2 phi công đều thuộc TSB Bon Homme Richard vào đánh sân bay Kép.
Ngày 20/5/1967, Đoàn Z xuất kích 02 biên đội với 08 MiG-17 không chiến với 02 biên đội gồm 08 F-4C của KQ Mỹ bay bảo vệ F-105 trên vùng trời Lục Nam - Chũ - Lục Ngạn - Kép. Đây là trận đánh khá lớn. Phía Mỹ tuyên bố bắn rơi 04 MiG-17 đều không được xác nhận (Đoàn Z không có tổn thất). Ngược lại, phía Triều Tiên báo cáo bắn rơi 03 F-105, 08 F-4C và bắn trọng thương 01 F-4C - có những phi công nhận bắn rơi nhiều chiếc như Trung tá Sang In Kim (02 F-105, 01 F-4), phi công Sin In Sơn (bắn rơi 01 F-4, bắn bị thương 01 F-4), Cho Biêng Nam (01 F-105, 01 F-4), Hong Sơng Son (02 F-4). Sau khi thẩm định thực địa và hình ảnh trên gun camera, Việt Nam chỉ công nhận thành tích 02 F-4 và 02 F-105 cho các phi công Sang In Kim, Cho Biêng Nam, Ly Tong Su và Hong Sơng Son. Phía Mỹ cũng chỉ công nhận mất duy nhất 01 chiếc F-4C trong ngày hôm đó thuộc Phi đoàn 433, Không đoàn 8 KQ Mỹ do Thiếu tá Jack VanLoan và Trung úy Joseph Milligan lái, bị MiG-17 bắn rơi.
Ngày 03/6/1967, Đoàn Z xuất kích đánh trả máy bay Mỹ vào đánh phá sân bay Kép bị bắn rơi 01 MiG-17, Đại úy Kim The Un (sn 1938) hy sinh.
Ngày 21/7/1967, Đoàn Z xuất kích 02 biên đội với 08 Mig-17 từ Kép hiệp đồng với 02 biên đội 04 MiG-21 của Trung đoàn 921 từ Đa Phúc đánh chặn máy bay Mỹ trên vùng trời Chí Linh - Lục Nam - Sơn Động. Phía Triều Tiên báo cáo bắn rơi 05 máy bay, được phía Việt Nam tạm công nhận 03, trong khi phía Mỹ chỉ xác nhận 01 F-8C bị thương. Đoàn Z hy sinh 03 phi công gồm Thiếu tá Ly Trong In (sn 1938), Thiếu tá Ly Tong Su (sn 1937) và Đại úy Txa Sun He (sn 1938). Trong số này 02 bị bắn hạ bởi F-8C thuộc Phi đoàn 24 của HQ Mỹ do Trung tá Marion H. Issacks (dùng tên lửa AIM-9D) và Thiếu tá Robert L. Kirkwork (dùng cannon), 01 bị bắn hạ bởi F-8E thuộc Phi đoàn 211 của HQ Mỹ do Thiếu tá Ray G. Hubbard lái (dùng rocket Zuni và cannon).
Ngày 12/8/1967, Đoàn Z xuất kích 04 chiếc MiG-17 chiến đấu trên vùng trời sân bay Đa Phúc. Đại úy Hoan Bo Thec bắn rơi 01 F-105, phi công Mỹ bị bắt. Đối chiếu thì đây có lẽ là chiếc F-105D thuộc Phi đoàn 469, Không đoàn 388 của KQ Mỹ do Đại úy Thomas Elmer Norris lái. Theo phía Mỹ thì chiếc F-105D này xuất phát từ Korat, bị trúng đạn cao xạ gần Gia Lâm và lết về đến vùng trời Phúc Yên thì phải nhảy dù, phi công bị bắt.
Ngày 23/8/1967, Đoàn Z xuất kích chiến đấu trên vùng trời Phổ Yên - Trung Giã, báo cáo bắn rơi máy bay Mỹ. Phía Việt Nam công nhận phi công Triều Tiên bắn rơi 01 chiếc (không rõ loại).
Ngày 10/9/1967, MiG-17 của Đoàn Z xuất kích từ Đa Phúc phối hợp với MiG-17 của Trung đoàn 923 từ Gia Lâm chiến đấu bảo vệ sân bay Đa Phúc. Phi công Triều Tiên báo cáo bắn rơi và bắn bị thương một số F-105. Phía Việt Nam công nhận cho Đại úy Kim Doc Je bắn rơi 01 chiếc trên vùng trời Kim Anh. Phía Mỹ không công nhận.
Ngày 19/9/1967, MiG-17 của Đoàn Z và Trung đoàn 923 tiếp tục hiệp đồng chiến đấu trên vùng trời Đa Phúc. Phía Việt Nam công nhận 01 F-105 bị Thiếu tá Kim Xon Yoc bắn rơi. Phía Mỹ không công nhận.
Ngày 30/9/1967, Đoàn Z xuất kích 08 MiG-17 đánh chặn máy bay Mỹ trên vùng trời Lục Nam. Phía Việt Nam công nhận cho phi công Triều Tiên bắn rơi 01 F-105 (phía Mỹ không công nhận). Đoàn Z bị bắn rơi 01 MiG, phi công là Trung đoàn phó, Thượng tá Kim Chang An sn 1929 (trên bia mộ ghi thành Lim Dang An), người chỉ huy trận đánh hy sinh. Tuy nhiên phía Mỹ không ghi nhận bắn rơi MiG trong ngày hôm đó.
Ngày 16/12/1967, Đoàn Z xuất kích MiG-17 đánh chặn máy bay Mỹ trên vùng trời sân bay Kép và lân cận. Trung tá Pac Kun Xoc được ghi công bắn rơi 01 F-4 trên vùng trời Lục Nam. Phía Mỹ xác nhận mất 01 F-4DMiGCAP của Phi đoàn 555, Không đoàn 8 KQ Mỹ do Thiếu tá James Frederick Low và Trung úy Howard John Hill lái bị MiG bắn rơi, cả 02 phi công đều bị bắt làm tù binh.
Tính chung trong năm 1967, các phi công Triều Tiên của Đoàn Z được ghi công bắn rơi 18/115 máy bay Mỹ bị không quân bắn hạ trên vùng trời miền Bắc Việt Nam. Trong năm 1968, Đoàn Z tiếp tục được ghi công bắn rơi thêm 08 chiếc.
Trận đánh cuối cùng của phi công Triều Tiên ở Việt Nam là trận bắn rơi UAV trinh sát bằng MiG-21 ngày 22/9/1968.
Tổng kết chung, các phi công Triều Tiên đã có 431 lần tốp xuất kích chiến đấu với 1266 lượt máy bay (1044 lượt MiG-17 và 217 lượt MiG-21), trực tiếp đánh 58 trận (44 trận của MiG-17 và 14 trận của MiG-21), bắn rơi 26 máy bay Mỹ (MiG-17 bắn rơi 19 chiếc, MiG-21 bắn rơi 07 chiếc trong đó có 02 UAV), bắt sống 08 phi công Mỹ.
Tổn thất của Đoàn Z gồm 12 phi công (**) hy sinh (01 cán bộ trung đoàn và 02 cán bộ tiểu đoàn), tổn thất tổng cộng 37 máy bay gồm 09 chiếc bị bắn rơi, 02 chiếc bị tai nạn trong chiến đấu (01 MiG-17, 01 MiG-21), 05 chiếc bị tai nạn trong huấn luyện (03 MiG-21, 02 MiG-17) và 21 chiếc bị máy bay Mỹ đánh hỏng trên sân bay (14 MiG-17, 07 MiG-21) trong các đợt đánh phá, nhất là đợt tháng 9/1967.
------------

Theo số liệu trong Tập 3 Lịch sử Bộ Tổng tham mưu trong Kháng chiến chống Mỹ thì Triều Tiên cử sang 384 chuyên gia quân sự trong đó có 96 phi công (có thể chưa kịp tính thêm quân số của đợt cuối), ngoài ra còn có 35 chuyên gia về địch vận và phát thanh.
(**) Danh sách liệt sỹ Triều Tiên hy sinh ở Việt Nam có 14 người. Theo Trung tướng Phạm Phú Thái có 12 phi công và 02 trường hợp còn lại không rõ thông tin.