[TT Hữu ích] Góc Khuất Của Chiến Tranh

z300

Xe điện
Biển số
OF-482877
Ngày cấp bằng
9/1/17
Số km
4,369
Động cơ
258,110 Mã lực
GÓC KHUẤT CHIẾN TRANH

Thớt 51: TÁI ÔNG MẤT NGỰA

(Hay là câu chuyện về chiếc xe tăng M-41 chiến lợi phẩm)


1/ Hồi thứ nhất:

(Ký ức của cụ Vũ Đức Hùng, nguyên là cán bộ của Bộ đội Tăng thiết giáp B2)

Từ những năm 1963 - 1965, Bộ Tổng Tham mưu đã trực tiếp chỉ đạo Trung đoàn Tăng - Thiết giáp 202 tổ chức huấn luyện hai đại đội đặc công cơ giới sử dụng thành thạo xe tăng thiết giáp để vào miền Nam chuẩn bị chiến trường cho tác chiến hợp đồng binh chủng sau này.

Đầu năm 1963, đại đội đặc công cơ giới 46B được cử vào chiến trường B2 (Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ). Tới chiến trường miền Đông Nam Bộ, đại đội 46B được biên chế phân tán về một số đơn vị bộ binh để trực tiếp tham gia chiến đấu tiếp cận dần với phương tiện kỹ thuật hiện đại của địch.

Tháng 2 năm 1964, tôi đang làm nhiệm vụ tiểu đoàn trưởng xe tăng ở Trung đoàn 202 và anh Lâm Kim Chung trong đoàn cán bộ 613 của Bộ tăng cường cho B2 vào tới căn cứ của Bộ chỉ huy Miền, được biên chế ngay về Phòng Tác chiến, rồi Phòng Quân báo. Ít lâu sau, Bộ chỉ huy Miền giao nhiệm vụ cho tôi và anh Lâm Kim Chung tập hợp quân số của đại đội đặc công cơ giới 46B lại để thành lập Ban cơ giới Miền. Trực thuộc ban cơ giới có một trung đội đặc công cơ giới, Ban cơ giới Miền chúng tôi được giao nhiệm vụ:
- Nghiên cứu khả năng sử dụng thiết giáp ở chiến trường B2; vừa nghiên cứu các phương thức đảm bảo kỹ thuật cho công tác huấn luyện và chiến đấu của bộ đội Tăng - Thiết giáp, trước tiên ở chiến trường trọng điểm miền Đông Nam Bộ.
- Đồng thời xúc tiến nghiên cứu huấn luyện cách thức để đoạt xe địch đánh địch.

Ban cơ giới và trung đội cơ giới Miền đầu tiên ấy trở thành đơn vị tiền thân của bộ đội Tăng - Thiết giáp Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Tháng 4 năm 1964, Đoàn cán bộ tăng thiết giáp gồm 40 cán bộ, trưởng xe, lái xe, pháo thủ được huấn luyện đặc biệt để tăng cường cho B2, đoàn đã được sáp nhập với trung đội cơ giới của Miền thành đại đội cơ giới, lấy phiên hiệu là C40.

Tháng 3 năm 1965, đoàn 711 gồm 228 cán bộ, chiến sĩ từ Trung đoàn 202 tiếp tục vào miền Đông Nam Bộ, sáp nhập với đại đội cơ giới C40 thành đoàn cơ giới Miền, lấy phiên hiệu J16. Tôi được giao trách nhiệm trưởng Đoàn J16, anh Bùi Tân - Chính ủy, anh Phạm Hà Hải làm Đoàn phó. Khi Đoàn cơ giới J16 chưa có phương tiện kỹ thuật, vũ khí, khí tài, xe pháo nên được biên chế gọn thành bốn đại đội: hai đại đội một và năm sáp nhập thành Đại đội 15, Đại đội hai và ba thành Đại đội 23; Đại đội bốn và sáu thành Đại đội 46, Đại đội 40 giữ nguyên. Một số cán bộ được Bộ chỉ huy Miền cử đi tăng cường cho các đơn vị bộ binh, công binh, đặc công, pháo binh...

Sau khi thành lập Đoàn J16, Bộ chỉ huy Miền giao cho nhiệm vụ tổ chức một số trận đánh để đoạt xe địch, trước mắt làm phương tiện huấn luyện bộ đội. Một trong những trận đánh tiêu biểu, diễn ra ngày 23 tháng 3 năm 1966, Đại đội tăng thiết giáp 40 do đồng chí Lê Như Hòa trực tiếp chỉ huy kết hợp với nội ứng, tập kích bất ngờ vào trung đoàn tăng thiết giáp số một của quân đội Sài Gòn tại căn cứ Gò Đậu (Phú Cường, Bình Dương) với sự phối hợp của ba nội ứng trong hàng ngũ quân ngụy: thiếu úy Phùng Văn Mười, thượng sĩ Nguyễn Văn Thắng, trung sĩ Ngô Văn Nhất.

Các chiến sĩ Đại đội 40 đã chiến đấu vô cùng dũng cảm, làm chủ trận địa trong một thời gian dài, thu 10 xe (bốn xe M41 và sáu xe 113). Nhưng do sử dụng xe địch chưa thành thạo triển khai đội hình chiến đấu chậm, bị máy bay, xe tăng địch phát hiện, bắn phá vào đội hình, khống chế đường ta đưa xe về căn cứ, nghĩa binh Ngô Văn Nhất hy sinh, chỉ còn một chiếc M41-AL do thiếu úy nghĩa binh Phùng Văn Mười điều khiển chạy về hướng Phú Giáo, được đồng chí Vũ Đức Hùng (cán bộ kỹ thuật J16) kịp thời đón ở Bông Trang - Nhà Đỏ, lái thẳng về chiến khu Long Nghĩa.

Tại đây xe được Đoàn J16 duy trì sẵn sàng chiến đấu và huấn luyện. Đến 1969 do điều kiện chiến trường, Đoàn J16 đào hầm và chôn giấu tại chỗ.

Chiếc M41-AL trở thành phương tiện đầu tiên, duy nhất đổi bằng máu của chiến sĩ cơ giới Miền, dùng để huấn luyện kỹ thuật binh chủng cho bộ đội B2 lúc đó.

2/ Hồi thứ 2:

Tháng 9-1969, đơn vị biệt kích CIDG trại Minh Thành hoạt động cùng Sư đoàn bộ binh số 1 Mỹ đã phát hiện chiếc xe tăng được chôn giấu ở tây bắc Lai Khê khoảng 13km và chỉ cách 1 căn cứ hỏa lực của quân Mỹ khoảng 6km. Khu vực giấu xe được ngụy trang và gài mìn bẫy cẩn thận. Quân Mỹ sau đó bố trí lực lượng bảo vệ, phát quang khu vực và đưa 1 xe cứu kéo M88 đến thu hồi.

Theo mô tả của phía Mỹ, chiếc xe tăng M41 được bảo dưỡng tốt và ở trong tình trạng gần như hoàn hảo, 2 khẩu súng máy đã được tháo mang đi. Cùng với xe, lính Mỹ thu hồi được 51 viên đạn pháo 76mm, 200 viên đạn .50 cal và 750 viên đạn .30 cal.

3/ Hồi thứ 3:

Chiến thăng mùa xuân năm 1975 đã đánh dấu kết thúc 21 năm kháng chiến chống Mỹ, đồng thời kết thúc 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc.

Từ đó, nước Việt Nam thống nhất và hoà bình.

Trong thắng lợi vĩ đại đó, hàng trăm chiếc xe tăng M-41 đã lại trở về với bộ đội ta, không chỉ là một mình con xe tăng M-41 của trận Gò Đậu năm xưa.

HÌNH ẢNH MINH HOẠ

Quân Mỹ thu lại chiếc M-41 của trận Gò Đậu.

T M 4.jpg


T M 3.jpg


T M 2.jpg


T M 1.jpg
Nghĩa binh la gì ạ?
 

Baoleo

Xe tăng
Biển số
OF-320235
Ngày cấp bằng
19/5/14
Số km
1,914
Động cơ
379,310 Mã lực
Nghĩa binh la gì ạ?
'Nghĩa binh' là 1 từ Hán-Việt.
Từ này, nghĩa đen là: những binh lính đã khởi nghĩa để chống lại chỉ huy hiện tại, và đầu quân cho đối phương bên kia.
Nghĩa bóng là để chỉ những người lính VNCH, quay trở về với cách mạng.
Cảm ơn bạn đã đọc bài nhé ~o)
 

Fansipan99

Xe đạp
Biển số
OF-880877
Ngày cấp bằng
9/5/25
Số km
28
Động cơ
240 Mã lực
(GÓC KHUẤT CHIẾN TRANH
Thớt 1:
ĐOÀN Z – PHI CÔNG BẮC TRIỀU)

BÀI SỐ 2:

KHÔNG CHIẾN THEO THỜI GIAN
((Bài số 2, số 3 và số 4 tường thuật về ‘các trận không chiến theo thời gian’ của Đoàn Z – Phi công Bắc Triều)

2/ Ngày 19/4/1967:

2.2/ Tổng kết:
- Ta claim 2 F-105 và 2 A-1. Mỹ công nhận 1 F-105F, 1 A-1E.
- Mỹ claim 4 MiG-17, ta không công nhận chiếc nào. Trong danh sách các liệt sĩ KQ cũng không có phi công hy sinh ngày 19/4/1967.

-Tuy nhiên. trong thông tin về đoàn Z, trong danh sách liệt sĩ người TT có phi công Kim-Ươn-Hoan hy sinh ngày 19/4/1967.

Bắc VN có tổng cộng bao nhiêu phi công bị hy sinh hả cụ? VN có công bố con số này ko?
 

z300

Xe điện
Biển số
OF-482877
Ngày cấp bằng
9/1/17
Số km
4,369
Động cơ
258,110 Mã lực
'Nghĩa binh' là 1 từ Hán-Việt.
Từ này, nghĩa đen là: những binh lính đã khởi nghĩa để chống lại chỉ huy hiện tại, và đầu quân cho đối phương bên kia.
Nghĩa bóng là để chỉ những người lính VNCH, quay trở về với cách mạng.
Cảm ơn bạn đã đọc bài nhé ~o)
vâng cám ơn cụ, em hỏi cho chắc. Lâu rồi thấy từ này ít dùng
 

Baoleo

Xe tăng
Biển số
OF-320235
Ngày cấp bằng
19/5/14
Số km
1,914
Động cơ
379,310 Mã lực
Bắc VN có tổng cộng bao nhiêu phi công bị hy sinh hả cụ? VN có công bố con số này ko?
Cái này đã nói nhiều rồi, và cũng đã có nhiều tài liệu nói rồi.
Một trong những tư liệu có thể đọc, là cuốn sách 'Những trận không chiến trên bầu trời VN - Cái nhìn từ 2 phía' của nhà xuất bản QĐND đấy.
 

poiuy

Xe ba gác
Biển số
OF-198769
Ngày cấp bằng
17/6/13
Số km
24,624
Động cơ
706,755 Mã lực
GÓC KHUẤT CHIẾN TRANH

Thớt 51: TÁI ÔNG MẤT NGỰA

(Hay là câu chuyện về chiếc xe tăng M-41 chiến lợi phẩm)


1/ Hồi thứ nhất:

(Ký ức của cụ Vũ Đức Hùng, nguyên là cán bộ của Bộ đội Tăng thiết giáp B2)

Từ những năm 1963 - 1965, Bộ Tổng Tham mưu đã trực tiếp chỉ đạo Trung đoàn Tăng - Thiết giáp 202 tổ chức huấn luyện hai đại đội đặc công cơ giới sử dụng thành thạo xe tăng thiết giáp để vào miền Nam chuẩn bị chiến trường cho tác chiến hợp đồng binh chủng sau này.

Đầu năm 1963, đại đội đặc công cơ giới 46B được cử vào chiến trường B2 (Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ). Tới chiến trường miền Đông Nam Bộ, đại đội 46B được biên chế phân tán về một số đơn vị bộ binh để trực tiếp tham gia chiến đấu tiếp cận dần với phương tiện kỹ thuật hiện đại của địch.

Tháng 2 năm 1964, tôi đang làm nhiệm vụ tiểu đoàn trưởng xe tăng ở Trung đoàn 202 và anh Lâm Kim Chung trong đoàn cán bộ 613 của Bộ tăng cường cho B2 vào tới căn cứ của Bộ chỉ huy Miền, được biên chế ngay về Phòng Tác chiến, rồi Phòng Quân báo. Ít lâu sau, Bộ chỉ huy Miền giao nhiệm vụ cho tôi và anh Lâm Kim Chung tập hợp quân số của đại đội đặc công cơ giới 46B lại để thành lập Ban cơ giới Miền. Trực thuộc ban cơ giới có một trung đội đặc công cơ giới, Ban cơ giới Miền chúng tôi được giao nhiệm vụ:
- Nghiên cứu khả năng sử dụng thiết giáp ở chiến trường B2; vừa nghiên cứu các phương thức đảm bảo kỹ thuật cho công tác huấn luyện và chiến đấu của bộ đội Tăng - Thiết giáp, trước tiên ở chiến trường trọng điểm miền Đông Nam Bộ.
- Đồng thời xúc tiến nghiên cứu huấn luyện cách thức để đoạt xe địch đánh địch.

Ban cơ giới và trung đội cơ giới Miền đầu tiên ấy trở thành đơn vị tiền thân của bộ đội Tăng - Thiết giáp Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Tháng 4 năm 1964, Đoàn cán bộ tăng thiết giáp gồm 40 cán bộ, trưởng xe, lái xe, pháo thủ được huấn luyện đặc biệt để tăng cường cho B2, đoàn đã được sáp nhập với trung đội cơ giới của Miền thành đại đội cơ giới, lấy phiên hiệu là C40.

Tháng 3 năm 1965, đoàn 711 gồm 228 cán bộ, chiến sĩ từ Trung đoàn 202 tiếp tục vào miền Đông Nam Bộ, sáp nhập với đại đội cơ giới C40 thành đoàn cơ giới Miền, lấy phiên hiệu J16. Tôi được giao trách nhiệm trưởng Đoàn J16, anh Bùi Tân - Chính ủy, anh Phạm Hà Hải làm Đoàn phó. Khi Đoàn cơ giới J16 chưa có phương tiện kỹ thuật, vũ khí, khí tài, xe pháo nên được biên chế gọn thành bốn đại đội: hai đại đội một và năm sáp nhập thành Đại đội 15, Đại đội hai và ba thành Đại đội 23; Đại đội bốn và sáu thành Đại đội 46, Đại đội 40 giữ nguyên. Một số cán bộ được Bộ chỉ huy Miền cử đi tăng cường cho các đơn vị bộ binh, công binh, đặc công, pháo binh...

Sau khi thành lập Đoàn J16, Bộ chỉ huy Miền giao cho nhiệm vụ tổ chức một số trận đánh để đoạt xe địch, trước mắt làm phương tiện huấn luyện bộ đội. Một trong những trận đánh tiêu biểu, diễn ra ngày 23 tháng 3 năm 1966, Đại đội tăng thiết giáp 40 do đồng chí Lê Như Hòa trực tiếp chỉ huy kết hợp với nội ứng, tập kích bất ngờ vào trung đoàn tăng thiết giáp số một của quân đội Sài Gòn tại căn cứ Gò Đậu (Phú Cường, Bình Dương) với sự phối hợp của ba nội ứng trong hàng ngũ quân ngụy: thiếu úy Phùng Văn Mười, thượng sĩ Nguyễn Văn Thắng, trung sĩ Ngô Văn Nhất.

Các chiến sĩ Đại đội 40 đã chiến đấu vô cùng dũng cảm, làm chủ trận địa trong một thời gian dài, thu 10 xe (bốn xe M41 và sáu xe 113). Nhưng do sử dụng xe địch chưa thành thạo triển khai đội hình chiến đấu chậm, bị máy bay, xe tăng địch phát hiện, bắn phá vào đội hình, khống chế đường ta đưa xe về căn cứ, nghĩa binh Ngô Văn Nhất hy sinh, chỉ còn một chiếc M41-AL do thiếu úy nghĩa binh Phùng Văn Mười điều khiển chạy về hướng Phú Giáo, được đồng chí Vũ Đức Hùng (cán bộ kỹ thuật J16) kịp thời đón ở Bông Trang - Nhà Đỏ, lái thẳng về chiến khu Long Nghĩa.

Tại đây xe được Đoàn J16 duy trì sẵn sàng chiến đấu và huấn luyện. Đến 1969 do điều kiện chiến trường, Đoàn J16 đào hầm và chôn giấu tại chỗ.

Chiếc M41-AL trở thành phương tiện đầu tiên, duy nhất đổi bằng máu của chiến sĩ cơ giới Miền, dùng để huấn luyện kỹ thuật binh chủng cho bộ đội B2 lúc đó.

2/ Hồi thứ 2:

Tháng 9-1969, đơn vị biệt kích CIDG trại Minh Thành hoạt động cùng Sư đoàn bộ binh số 1 Mỹ đã phát hiện chiếc xe tăng được chôn giấu ở tây bắc Lai Khê khoảng 13km và chỉ cách 1 căn cứ hỏa lực của quân Mỹ khoảng 6km. Khu vực giấu xe được ngụy trang và gài mìn bẫy cẩn thận. Quân Mỹ sau đó bố trí lực lượng bảo vệ, phát quang khu vực và đưa 1 xe cứu kéo M88 đến thu hồi.

Theo mô tả của phía Mỹ, chiếc xe tăng M41 được bảo dưỡng tốt và ở trong tình trạng gần như hoàn hảo, 2 khẩu súng máy đã được tháo mang đi. Cùng với xe, lính Mỹ thu hồi được 51 viên đạn pháo 76mm, 200 viên đạn .50 cal và 750 viên đạn .30 cal.

3/ Hồi thứ 3:

Chiến thăng mùa xuân năm 1975 đã đánh dấu kết thúc 21 năm kháng chiến chống Mỹ, đồng thời kết thúc 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc.

Từ đó, nước Việt Nam thống nhất và hoà bình.

Trong thắng lợi vĩ đại đó, hàng trăm chiếc xe tăng M-41 đã lại trở về với bộ đội ta, không chỉ là một mình con xe tăng M-41 của trận Gò Đậu năm xưa.

HÌNH ẢNH MINH HOẠ

Quân Mỹ thu lại chiếc M-41 của trận Gò Đậu.

T M 4.jpg


T M 3.jpg


T M 2.jpg


T M 1.jpg
Nội dung hay, có thể viết thành kịch bản của 1 bộ phim hoành tráng.
 

XPQ

Xe cút kít
Biển số
OF-25733
Ngày cấp bằng
13/12/08
Số km
19,311
Động cơ
587,699 Mã lực
Nơi ở
Trỏng
Phí công cần tinh mắt, sức khoẻ tôt, sức chịu đựng tốt... chứ ko cần quá cao to.
Buồng lái nhỏ tàu bay quân sự nhỏ và hẹp nên họ tuyển người ngồi vừa gọn để thoải mái thao tác. To cao tuyển vào loại tàu bay to.
 

VladimirP

Xe tải
Biển số
OF-742113
Ngày cấp bằng
7/9/20
Số km
467
Động cơ
64,360 Mã lực
GÓC KHUẤT CHIẾN TRANH

Thớt 18: CÂU CHUYỆN ‘RA HÀNG VỚI NGHỊ QUYẾT Đ…..ẢNG’


TÚT 3/ NHỮNG CHUYỆN KHI QUÂN TRUNG QUỐC NẰM TRONG TRẠI GIAM:


Xin kể thêm một số chuyện về các chỉ huy của quân Trung Quốc ở đơn vị này, sau khi nằm trong trại tù binh của ta tại Thái Nguyên:

1/ Chính trị viên đại đội Phùng Tăng Mẫn, khi chưa lâm trận, ý hẳn cũng muốn phấn đấu theo lời nguyên soái nên đã đặt bí danh là Hồng Trị (Chính trị viên đỏ).

Khi trở thành tù binh thì nhũn như chi chi, chẳng thấy vai trò chính trị viên đâu nữa, chỉ luôn đáp ứng yêu cầu của cán bộ hỏi cung, hỏi gì khai nấy, lại luôn cố gắng ‘làm thân’ với cán bộ chiến sĩ trong trại.

Có lần phải ra khai cung sớm, bữa sáng chưa kịp ăn, bị kiến bò vào. Khi trở về, thấy cơm bị kiến bò, anh ta khóc ngon lành, than vãn mãi về việc bị kiến ăn tranh mất suất cơm.

Khi được hỏi có yêu cầu gì đối với trại, anh ta chỉ đề nghị được ăn cơm nóng một chút, thức ăn nhiều dầu mỡ muối hơn một chút, vì người Tứ Xuyên hình như ăn mặn hơn người của trại!


2/ Đại đội trưởng Lý Hòa Bình, thân hình to cao, trông bên ngoài có vẻ chất phác, luôn cố gắng sửa bớt cái giọng Tứ Xuyên nặng chịch để cán bộ nghe được dễ hơn.

Anh ta đã có kinh nghiệm khi gặp cán bộ khai thác mà cứ nói nặng tiếng địa phương là phiền lắm. Quả cái tiếng Tứ Xuyên rất khó nghe, cán bộ ta hỏi cung- nghe nhiều thành quen mới hiểu nổi, chứ vị khách nào mới đến phỏng vấn thì nghe gà hóa cuốc là việc thường tình.

Có lần cán bộ hỏi cung lên trại, anh ta mới gặp đã khóc nức nở kể chuyện bị oan ức vì một cán bộ mới đến nghe không rõ, cứ khăng khăng bảo anh ta ‘ngoan cố, không thành khẩn khai báo’. Anh ta sợ bị cho là không thành khẩn thì sau này hết chiến tranh có thể sẽ không được trao trả về nước với gia đình, hoặc sẽ bị đối xử kinh khủng thế nào đó chưa biết được.


3/ Tham mưu phó trung đoàn tên là Phó Bồi Đức, khá thạo tin về quân sự, nói giọng dễ nghe, nhiều người xác nhận thuộc loại ‘thật thà khai báo’, anh này thường nói mình vốn đang mang bệnh rối loạn nhịp tim, đang xin ra quân thì bị điều động đi đánh Việt Nam, chứ thực lòng không muốn đi tí nào.

Anh ta còn nói, nghe trên tuyên truyền Việt Nam khiêu khích TQ, nhiều lần quấy rối, đánh sang biên giới TQ thì cũng biết vậy thôi, quân khu Thành Đô có ở biên giới đâu mà nói là thật hay không.

Khi đơn vị đánh sang đất Cao Bằng của VN thì trên lại bảo đấy là ‘phản kích, dạy VN bài học xong rồi sẽ rút quân’. Trên bảo đơn vị trung đoàn 448 này vào đất VN để yểm hộ bộ đội rút quân…

Vì vậy, Phó Bồi Đức cứ tiếc hùi hụi, giá không mắc kẹt với bộ đội Cao Bằng thì chẳng bao lâu nữa sẽ được lệnh rút về.

Chỉ mong nhanh chóng ra quân để nghỉ ngơi và chữa cái bệnh tim thôi. (Cán bộ trại cũng đã cho thày thuốc khám bệnh, xác minh đúng anh ta có bệnh tim và đã cấp cho ít thuốc).


4/ Phó chính ủy trung đoàn Long Đức Xương, ngoài những tin tức quân báo đã cung cấp, khi nói chuyện có tính tâm sự với cán bộ trại, anh ta thường than thở: mình nay đã quá tuổi phát triển, sức khỏe lại kém, đã thuộc vào loại cán bộ quá độ, không còn tiền đồ gì (trông anh ta quả cũng hơi hom hem, tuổi áng chừng trên 40 thật); lần này đơn vị bị điều đi đánh trận là bản thân rất bất ngờ, chưa kịp chuẩn bị gì, ra đi mà trong lòng hoang mang, bối rối…

Anh ta lo lắng nhiều cho sự sống chết của bản thân vì ở nhà còn gánh gia đình rất nặng.

Còn việc có tin hay không những tuyên truyền của chính phủ và quân đội về lý do phải ‘dạy bài học cho VN’, thì anh ta nói: đời mình đã trải qua quá nhiều phong trào, quá nhiều vận động rồi, bây giờ chẳng thiết tin hay không tin cái gì cả.

++++ Hình minh hoạ:

Đại đội sơn cước tù binh tại sân vận động thị xã Thái Nguyên

View attachment 8696438
Cũng là những con người bình thường..., bị tuyên truyền, kích động, nhồi sọ... rồi ấn khẩu súng vào tay thôi...
 

VladimirP

Xe tải
Biển số
OF-742113
Ngày cấp bằng
7/9/20
Số km
467
Động cơ
64,360 Mã lực
Tôi đồng ý với nhận định này của angkorwat :
-Ở chiến trường K, không có khái niệm tù binh chiến tranh. Bên ta thì có nhưng ít, còn bên địch thì không.
"Có nhưng ít" nghĩa là thường "xử lý tại chỗ" cho nhanh gọn luôn hả cụ?
 

Baoleo

Xe tăng
Biển số
OF-320235
Ngày cấp bằng
19/5/14
Số km
1,914
Động cơ
379,310 Mã lực
"Có nhưng ít" nghĩa là thường "xử lý tại chỗ" cho nhanh gọn luôn hả cụ?

Quân đội VN ta, không có thói quen giết tù binh.
Ở chiến trường K, tù binh Khơ me Đỏ ít, nguyên nhân chính là tụi giặc cỏ, thường chạy trốn rất nhanh ;) ;) ;)
 

Fansipan99

Xe đạp
Biển số
OF-880877
Ngày cấp bằng
9/5/25
Số km
28
Động cơ
240 Mã lực
Quân đội VN ta, không có thói quen giết tù binh.
Ở chiến trường K, tù binh Khơ me Đỏ ít, nguyên nhân chính là tụi giặc cỏ, thường chạy trốn rất nhanh ;) ;) ;)
Vụ này làm em nhớ tới một đoạn trong bộ phim Mỹ "We were soldiers" trong đó diễn viên Đơn Dương đóng vai một chỉ huy bộ đội (lấy gốc từ đại tá Ng H An), sau khi bắt đc một đám tù binh Mỹ, lúc cấp dưới hỏi sẽ xử lý ra sao, người chỉ huy đã trả lời "Giết sạch chúng đi...", vì đoạn này mà Đơn Dương đã bị chỉ trích kịch liệt..., bộ phim thì bị cho là xuyên tạc lịch sử, bị cấm...
 
Chỉnh sửa cuối:
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top