Tôi thấy cụ quá duy ý chí rồi đó. Những cái chỉ số này là kinh điển vậy nên không có chuyện tính theo kiểu việt nam như cụ nói. Nói như cụ thì so sánh giữa hai nền giao dục kiểu gì. cuj chỉ tính độ tuổi 18-25 nó ko có tính đại diện. Vậy những người ở độ tuổi 30, 35, 40, 45, 49, 50 so sánh kiểu gì.
Cụ nói những người 60 tuổi vậy cụ quên đi những người 30-35 rồi 40-45 à.
Cụ xem lại định nghĩa của quốc tế xem họ tính thế nào nhé.
“OECD định nghĩa trình độ học vấn người trưởng thành của một quốc gia theo phần trăm dân số độ tuổi giữa 25 và 64 tốt nghiệp một số loại hình đại học dưới hình thức văn bằng hai năm (đại học cộng đồng, college), văn bằng bốn năm hoặc chương trình học nghề.”
Muốn so sánh chúng ta phải hiểu cấu trúc dân số và lịch sử phát triển giáo dục đại học.
1. VN có dân số trẻ dưới 18 tuổi rất cao, hiện tại là khoảng 28 triệu người dưới 18 tuổi chưa đến tuổi học ĐH, tức khoảng 28%.
Nước Nhật chẳng hạn, dân số già chỉ có hơn 17 triệu người dưới 18 tuổi, khoảng 15%. Phần lớn người Nhật (cỡ 85% tổng dân số) là trên 18 tuổi nên tỷ lệ % số người có trình độ đại học trên dân số phải cao hơn.
Ba chục năm nữa dân số VN già đi, thế hệ cũ ít học đại học đã chết hết, thế hệ mới 70% học sinh sau THPT học đại học, thì tỷ lệ % người trình độ ĐH của VN bằng hoặc cao hơn Nhật.
2. Lịch sử GĐ ĐH VN bắt đầu từ mức thấp, (tầm 10%-15% học sinh tốt nghiệp cấp 3 học ĐH) muốn so với OECD, (tầm 60% học sinh tốt nghiệp cấp 3 học ĐH), cần lộ trình tăng từ từ khoảng 30 năm chứ không phải 1 cú đại nhảy vọt thời ông Nhân, bằng các con số, không nguồn lực. Tại sao cần lộ trình từ từ vì cần có thị trường lao động phát triển, cần nguồn lực đầu tư, cần thời gian để đào tạo huấn luyện con người. Chương trình 322, 911 đào tạo gấp 2 vạn tiến sĩ ở nước ngoài đã phá sản hoàn toàn, thôi thì chữa cháy quay sang vội vã đào tạo hàng vạn tiến sĩ trong nước, để có con số thống kê cho đẹp. Con số đẹp.
Trong nước thì đào tạo 1 triệu tiến sĩ cũng được, tự cấp bằng tự đánh giá, chứ để đào tạo mấy vạn tiến sĩ ở các ĐH nghiên cứu tốt trên thế giới là rất tốn kém, và cũng rất kén ứng viên. Việc đó không thể làm được trong 5-10 năm, mà phải thực hiện trong 25 năm.
3. Không so nguồn tiền đầu tư cho 1 sinh viên là bao nhiêu, chỉ nhăm nhăm % sinh viên trên tổng dân số là cách tiếp cận sai. VD OECD người ta đầu tư trung bình 15k usd/sv/năm, thì bét ra mình cũng nên phấn đấu đầu tư trung bình 2k usd/sv/năm, chứ VN hiện đang đầu tư 300 usd/sv/năm, lấy số lượng lớn bù lại thì cũng sai nốt.
4. Lấy nước Nhật làm ví dụ, quy mô 124 triệu dân, quy mô tổng số sinh viên đại học và cao đẳng của họ là 2.9 triệu, trong đó SV đại học (hệ 4 năm) khoảng 2.6 triệu. VN hơn 100 triệu dân, tổng số sinh viên đại học khoảng 2 triệu, cao đẳng khoảng 500k. Tức là VN đang đào tạo số lượng sinh viên tương đương Nhật Bản (tính trên 100 triệu dân).
CP Nhật đầu tư cho sv cũng thuộc loại ít trong OECD, nhưng cũng cỡ 9000 usd/sv/năm, nhưng dù sao vẫn cao gấp 30 lần VN đầu tư cho mỗi sinh viên đại học. Và quy mô thị trường lao động trình độ cử nhân của VN chắc chưa bằng 1/3 quy mô thị trường LĐ Nhật.
5. Đào tạo nhanh cấp tốc để bù lại mấy chục năm đào tạo ít, là toan tính sai nghiêm trọng. Thị trường lao động nó không hoạt động kiểu bù trừ như vậy, đào tạo nhiều giai đoạn 2020-2030 không bù trừ cho đào tạo ít giai đoạn 1990-2000.
Hô hào chất lượng mà nguồn lực quá nhỏ thì chủ yếu mang tính cổ động giải trí.