[Funland] Aleksey Volynets - sách và bài viết

danngoc

Xe tăng
Biển số
OF-33488
Ngày cấp bằng
12/4/09
Số km
1,168
Động cơ
488,614 Mã lực
Tại sao Israel tạo ra chương trình nguyên tử của Iran

Alexey Volynets - về việc nửa thế kỷ trước Iran và Israel là đồng minh và thay vì tên lửa, họ trao đổi bàn thắng bóng đá và công nghệ hạt nhân

Ngày nay, cả thế giới đang theo dõi một cuộc xung đột khác giữa người Israel và người Iran. Tên lửa đang bay, người dân đang c.hết, đam mê truyền thông và âm mưu chính trị đang sôi sục. Thủ tướng Israel đang công khai kêu gọi lật đổ chính phủ Iran, còn họ, đến lượt mình, một lần nữa hứa sẽ "ném Israel xuống biển".

Trong khi đó, mới chỉ nửa thế kỷ trước, Tehran và Tel Aviv còn là đồng minh. Ngày nay, Israel đang ném bom các cơ sở hạt nhân của Iran, nhưng trong quá khứ gần, chính các chuyên gia Israel đã giúp người Iran khởi động một chương trình hạt nhân. Theo tiêu chuẩn lịch sử, đúng nghĩa đen là ngày hôm kia, hai nước đã trao đổi không phải các cuộc không kích, mà là các bàn thắng bóng đá.

"Sự giam cầm Babylon" với lịch sử Kinh thánh

Lịch sử quan hệ giữa người Do Thái cổ đại và người Ba Tư không kém phần cổ xưa đã có từ ít nhất 26 thế kỷ trước. "Và ta đã ở đó dưới thời các vua Ba Tư..." - một trong những sách của Kinh Cựu Ước, được người Do Thái và Cơ đốc giáo, thậm chí cả người Hồi giáo tôn kính, đã nói như vậy.

Trong thời cổ đại Kinh thánh này, người Do Thái và người Ba Tư là đồng minh nhiều hơn là kẻ thù. Người ta tin rằng vua Ba Tư Cyrus Đại đế, sau khi đánh bại người Babylon, đã giải thoát tổ tiên của người Do Thái khỏi sự giam cầm của Babylon - trước đó, vua Babylon Nebuchadnezzar đã phá hủy Jerusalem, tái định cư nhiều người Do Thái đến vùng đất của Iraq trong tương lai.

Như ta thấy, Kinh thánh đã nhắc tới trong quá khứ gần như mọi thứ - cả sự hủy diệt ở thủ đô Israel (ngoại trừ việc thay vì tên lửa thì có máy bắn đá), và thậm chí cả cuộc ch.iến tương lai giữa Iran và Iraq. Trong Kinh thánh, thường có một câu chuyện rất đẹp và cũng khủng khiếp không kém - Vua Belshazzar với "mene, mene, tekel, upharsin" ("được đánh số, được đánh số, được cân nhắc, được chia"), và "Sách Esther", sau đó một trong những ngày lễ chính của Do Thái giáo sẽ không trọn vẹn nếu không nhắc đến vua Ba Tư Artaxerxes. Và truyền thuyết về Judith với đầu của một chỉ huy địch bị chặt vào ban đêm nói chung gợi nhớ quá nhiều đến cuộc ám sát hiện đại của các đặc vụ Israel ở Trung Đông.

Tóm lại, người Do Thái và người Ba Tư đã biết nhau trong hai thiên niên kỷ rưỡi. Người Do Thái đã sống trên vùng đất Iran trong cùng một khoảng thời gian, bảo tồn bản sắc dân tộc và tôn giáo của họ qua nhiều thế kỷ. Khi Parthia cổ đại, một trong những phiên bản lịch sử khác của Iran, đã chiến đấu trong một cuộc chiến dài và đẫm máu với La Mã cổ đại, người Do Thái Ba Tư và Trung Đông đã tích cực ủng hộ người Ba Tư chống lại La Mã. Vào thời kỳ đỉnh cao của Đế chế Sassanid, một giai đoạn khác trong lịch sử rất dài của nhà nước Iran, vợ của hoàng đế "Shahanshah" Yazdegerd I và mẹ của "Shahanshah" Bahram V là một người Do Thái tên là Shoshandukht.

Ở phía tây nam của Cộng hòa Hồi giáo Iran hiện đại, tại thành phố Shush, cố đô của Đế chế Ba Tư, có lăng mộ của nhà tiên tri Daniila, một nhân vật Do Thái cổ đại trong lịch sử Kinh thánh, được tôn kính trong Do Thái giáo, Cơ đốc giáo và Hồi giáo. Tuy nhiên, đã có một gốc rễ khác biệt ở đây - bản thân người Do Thái không coi Daniel là một nhà tiên tri, vì trong truyền thống của họ, ông không nói chuyện với Chúa, mà chỉ với các thiên thần.

Bản thân người Do Thái Ba Tư, 25 thế kỷ sau truyền thống Kinh thánh, vào đầu thế kỷ XX, chủ yếu nói tiếng Ba Tư, ngôn ngữ của người Iran. Cái gọi là ngôn ngữ Do Thái-Ba Tư đã được hình thành, một phương ngữ của tiếng Ba Tư pha trộn với tiếng Do Thái cổ, không chỉ được người Do Thái ở Iran sử dụng mà còn được tất cả "người Do Thái Bukharan" ở Trung Á và Afghanistan sử dụng.

"Vua của các vị vua" và người Do Thái

Vì vậy, vào đầu thế kỷ trước, người Do Thái chiếm 5% dân số Tehran và khoảng 2% dân số toàn Iran. Vào thế kỷ XIX trước đó, họ không thoát khỏi những rắc rối điển hình của cộng đồng người Do Thái di cư - các cuộc tàn s.át và cáo buộc g.iết người theo nghi lễ. Ngoài sự kỳ thị, còn có những lý do xã hội cho điều này - "Người Do Thái Ba Tư", như họ được gọi trên toàn thế giới vào thời điểm đó, nhìn chung giàu có hơn và có trình độ học vấn cao hơn nhiều so với phần lớn dân số địa phương. Tỷ lệ người biết chữ trong số những người Do Thái Iran cao gấp ba lần so với những người Hồi giáo Iran.

Người sáng lập triều đại quân chủ cuối cùng ở Iran, Reza Pahlavi, ban đầu có thiện cảm với người Do Thái địa phương. Các tờ báo Do Thái được xuất bản bằng tiếng Ba Tư và tiếng Do Thái ở Tehran, và các thành viên của cộng đồng Do Thái được đại diện trong quốc hội của đất nước.

Nhưng sự ưu ái của Shah (quốc vương Iran) nhanh chóng kết thúc - một trong những nhà lãnh đạo của "Người Do Thái Ba Tư", bị buộc tội làm gián điệp cho Anh, đã bị xử bắn vào năm 1931. Vào đêm trước Thế ch.iến II, quốc vương Iran đã bị cuốn hút bởi những ý tưởng của CN QX cùng với CN bài Do Thái vốn có của nó. Ngoài ra, Adolf Hitler đã hứa với Shah sẽ mở rộng lãnh thổ Iran bằng cái giá phải trả là Turkmenistan của Liên Xô sau ch.iến thắng trước Liên Xô. Không có gì ngạc nhiên khi quân đội Anh và Liên Xô tiến vào Iran vào mùa hè năm 1941, người Do Thái địa phương đã chào đón họ.

Một trong những kết quả của Thế ch.iến II là sự xuất hiện của Israel, quốc gia Do Thái đầu tiên sau một nghìn năm. Vào thời điểm đó, một Shah mới, con trai của người trước, Mohammed Reza Pahlavi, đã cai trị Iran.

Chính vị hoàng đế này (tất cả các quốc vương của Iran và Ba Tư đều mang danh hiệu "shahanshah", còn được gọi là "vua của các vị vua", coi đất nước của họ là một đế chế theo ký ức cổ xưa) đã bất ngờ - có lẽ bất ngờ cả với chính ông - sớm trở thành đồng minh chính của Israel trong thế giới Hồi giáo.

Ban đầu, khi vào năm 1947, một ủy ban đặc biệt của LHQ thảo luận về khả năng thành lập một nhà nước Do Thái ở Palestine, các nhà ngoại giao Iran đã bỏ phiếu chống lại. Một số tình nguyện viên Iran thậm chí đã tham gia vào cuộc ch.iến Ả Rập-Israel đầu tiên. Nhưng vào năm 1950, Shahanshah Pahlavi đã mở một Tổng lãnh sự quán tại Jerusalem và tuyên bố công nhận trên thực tế đối với Israel. Và có ba lý do chính đáng cho điều này.

Đầu tiên, sau Thế chi.ến II, quốc vương và giới tinh hoa cầm quyền của Iran công khai sợ Liên Xô, nước láng giềng +s khổng lồ của họ, có ảnh hưởng tăng mạnh sau năm 1945. Do đó, Iran của Shah bắt đầu kết bạn mạnh mẽ với Hoa Kỳ, đối trọng chính với ảnh hưởng của Liên Xô trên hành tinh này. Ở Hoa Kỳ, cộng đồng người Do Thái di cư đông đảo có truyền thống rất có ảnh hưởng, và "vua của các vị vua" đã quyết định không làm phật lòng bộ phận quan trọng này trong giới tinh hoa cầm quyền Bắc Mỹ.

Thứ hai, bằng cách ủng hộ việc thành lập Israel, các cơ quan tì.nh báo và nhà ngoại giao Mỹ đã đưa những khoản hối lộ khổng lồ ở Tehran.

Và thứ ba, ngân hàng đầu tiên và lớn nhất ở Tehran (là ngân hàng tư nhân, tuy nhiên vẫn được gọi là "Ngân hàng Quốc gia Iran") đã hợp tác chặt chẽ kể từ đầu thế kỷ XX với ngân hàng Do Thái đầu tiên ở Palestine (là ngân hàng tư nhân, cũng được gọi là "Ngân hàng Quốc gia", nhưng không phải theo tiếng Ba Tư, mà theo tiếng Do Thái). Các nhà tài chính và doanh nhân lớn nhất của Iran có mối quan hệ chặt chẽ với các doanh nhân Do Thái ở Châu Âu và Châu Mỹ.

Hạt nhân Israel cho Iran

Tuy nhiên, "vua của các vị vua" với danh nghĩa là nhà tiên tri Hồi giáo hàng đầu rất sớm nhận ra rằng các mối quan hệ với Israel nói chung mang lại rất nhiều lợi ích cho chế độ quân chủ Iran. Iran của Shah ngay lập tức cung cấp cho Israel dầu, khí đốt, nhiều loại nguyên liệu thô và thực phẩm. Đổi lại, nhà nước Do Thái chia sẻ với Tehran kinh nghiệm của mình trong nông nghiệp, y học, khoa học và nhiều công nghệ khác nhau. Rốt cuộc, đất nước của người Ba Tư vào giữa thế kỷ XX là một vùng ngoại vi châu Á lạc hậu, trong khi những người có nền giáo dục châu Âu tốt và kinh nghiệm về ch.iến tranh hiện đại đã đổ xô về nhà nước Israel non trẻ.

Đó là lý do tại sao hợp tác quân sự giữa hai nước sớm bắt đầu. Chính tại Israel, các phi công Iran đã học tập, chuẩn bị ngồi vào ghế điều khiển máy bay phản lực mới nhất lần đầu tiên. Các điệp viên Iran của Shah cũng học tập với các chuyên gia Israel - một trong những nhà lãnh đạo đầu tiên của cơ quan t.báo Mossad nổi tiếng, Meir Slutsky (tình cờ là con trai của dân di cư từ Ukraina thuộc Liên Xô) đã nhiều lần đến thăm Iran.

Hai quốc gia Do Thái và Ba Tư sau đó xích lại gần nhau hơn do có mối thù chung với thế giới Ả Rập. Người Ba Tư có mối quan hệ khó khăn với những hàng xóm Ả Rập của họ từ thời xa xưa, dựa trên những khác biệt về sắc tộc và tôn giáo. Người Hồi giáo dòng Shi-ite Iran đã là mục tiêu tấn công của người Ả Rập dòng Sun-ni trong nhiều thế kỷ. Ngoài ra, vào thập niên 1950 và 1960, một loạt các cuộc cách mạng chống chế độ quân chủ nổ ra ở các quốc gia lớn nhất Trung Đông, và những ý tưởng về "CN XH Ả Rập" giành chiến thắng ở Ai Cập, Iraq, Syria và Yemen đã khiến "vua của các vị vua" Pahlavi sợ hãi.

Vì vậy, trên cơ sở có mối thù chung với các quốc gia Ả Rập, liên minh ngầm giữa Israel và Iran ngày càng mạnh mẽ và phát triển. Liên minh này chính xác là ngầm - nói theo cách nói, Shah đã định kỳ lên án chính sách của Israel ở Palestine.

Liên minh quân sự giữa Israel và Iran đạt đến đỉnh cao vào nửa thế kỷ trước. Năm 1977, Moshe Dayan (hay còn gọi là Moses Kitaygorodsky, cũng là con của dân di cư từ tỉnh Kiev), nổi tiếng với các cuộc c.hiến tranh Ả Rập-Israel, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng của nhà nước Do Thái, đã ký sáu hợp đồng với các tướng lĩnh của Shah để cùng nhau phát triển các loại vũ khí hiện đại nhất, chủ yếu là tên lửa. Iran giàu dầu mỏ đóng góp chủ yếu bằng vàng đen, và người Israel - về nhân sự kỹ thuật. Vì vậy, những tên lửa ngày nay bay từ Iran đến Tel Aviv và Haifa có nguồn gốc từ Israel trong phả hệ ban đầu của chúng. Hơn nữa, trong cùng những năm đó, các chuyên gia từ trung tâm nguyên tử Israel ở Dimona đã bắt đầu xây dựng nền móng của một lò phản ứng hạt nhân tại thành phố Bushehr của Iran và trao cho Shah tài liệu về việc thành lập một lò phản ứng nghiên cứu tại Isfahan, thành phố lớn thứ ba ở Iran. Và khi Thủ tướng Israel ngày nay kêu gọi thanh lý dự án nguyên tử của Iran bằng vũ lực, ông ta khiêm tốn giữ im lặng về thực tế rằng dự án này đã được bắt đầu với sự giúp đỡ của chính Israel.

"Người Ba Tư" của Israel

Vị "vua của các vị vua" cuối cùng của Iran đã bị lật đổ trong cuộc cm Hồi giáo năm 1979. Nhưng ngay cả khi các giáo sĩ Hồi giáo Shi-ite cực đoan lên nắm quyền ở Tehran, lên tiếng phản đối sự áp bức người Hồi giáo ở Palestine, thì liên minh bí mật giữa Israel và Iran vẫn tiếp tục.

Đối với nhà nước Do Thái, những người Hồi giáo Ba Tư hóa ra lại là "kẻ thù của kẻ thù" - một đối trọng hiệu quả với "CN XH Ả Rập" của Saddam Hussein. Do đó, khi cuộc chiến tranh kéo dài giữa Iraq và Iran bắt đầu, các cơ quan tì.nh báo Israel đã bí mật tổ chức chuyển giao phụ tùng thay thế cho vũ khí Mỹ cho Tehran. Trước khi bị lật đổ, Shah đã mua được rất nhiều công nghệ mới nhất ở Hoa Kỳ, nhưng sau CM Hồi giáo, Tehran đã mất quyền tiếp cận thị trường Mỹ, vì vậy hàng không Iran trong những năm 1980 chỉ cất cánh được nhờ sự giúp đỡ của Israel.

Tuy nhiên, sự giúp đỡ này hoàn toàn không miễn phí - Israel không bao giờ trả lại số tiền một tỷ đô la mà Iran nợ Shah của Iran đã bị l.ật đổ. Chính quyền của Iran Hồi giáo mới đã dành hàng chục năm tiếp theo để kiện Israel tại các tòa án châu Âu và thậm chí đã thắng một số vụ kiện. Nhưng nhà nước Do Thái đã từ chối tuân thủ phán quyết của tòa án này.

Tuy nhiên, 44 năm trước, Israel đã khiến Iran rất vui khi vào tháng 6 năm 1981, Không quân Israel ném bom một lò phản ứng hạt nhân ở Iraq. Và nước láng giềng Iran đã công khai chế giễu vào thời điểm đó. Để chuẩn bị cho cuộc đột kích, người Israel đã sử dụng tình báo Iran, vốn có hiệu quả ở Iraq nhờ những người đồng đạo Shi-ite địa phương phản đối Saddam Hussein.

Muốn ngăn chặn những người hàng xóm của mình ở Iraq sở hữu vũ khí hạt nhân, những người Hồi giáo Iran sau đó đã sẵn sàng chuyển thông tin t.ình báo cho Israel. Ngày nay, Tehran không vội nhớ lại điều này khi họ phẫn nộ vì người Israel đã ném bom các cơ sở hạt nhân của họ, điềm tĩnh bay qua lãnh thổ Iraq...

Vào cuối thế kỷ XX, sau khi Saddam bị người Mỹ đánh bại và sau sự sụp đổ gần như toàn diện của "CN XH Ả Rập", Iran và Israel đã mất đi cơ sở cho tình bạn chống lại kẻ thù chung. Sự cạnh tranh công khai giữa Iran và Israel ở Trung Đông đã bắt đầu, mà ngày nay lên đến đỉnh điểm là ch.iến tranh công khai và một cuộc không kích lớn.

Tuy nhiên, Israel vẫn nhận được viện trợ từ Iran. Đúng vậy, không còn dưới hình thức hợp tác quân sự-chính trị nữa, mà là thành quả từ cộng đồng người Do Thái Ba Tư di cư. Hầu hết người Do Thái sống nhiều thế kỷ dưới sự cai trị của các "shahanshah" đã chuyển đến Israel từ lâu - và những người đồng hương Do Thái đến "miền đất hứa" từ các quốc gia khác gọi những người Do Thái như vậy là "parsim", tức là người Ba Tư.

"Người Ba Tư" Israel và con cháu của họ ngày nay chiếm 3% tổng số người Do Thái có quốc tịch Israel. Mặc dù số lượng khiêm tốn, nhưng họ đóng vai trò quan trọng trong đời sống của nhà nước Israel. Trong số họ có hai Tổng tham mưu trưởng quân đội Israel và thậm chí là một tổng thống Israel - Moshe Katsav, người sinh ra ở Yazd, một trong những thành phố cổ nhất của Iran. Là người đứng đầu chính thức của nhà nước Do Thái, ông thừa nhận với các nhà báo rằng ông thích nói tiếng Ba Tư với mẹ mình hơn. Hầu như mọi người đều biết thành quả lao động của một người Do Thái "Ba Tư" khác - người sáng tạo ra ứng dụng hẹn hò trực tuyến phổ biến Tinder là Sean Rad, cha mẹ ông đã rời Iran cách đây nửa thế kỷ.

Khi kết thúc câu chuyện về sự hợp tác giữa Iran và Israel trong quá khứ, người ta không thể không nhớ đến thể thao. Trận đấu cuối cùng trong lịch sử giữa đội tuyển quốc gia Israel và Iran diễn ra vào ngày 19 tháng 5 năm 1968, trong khuôn khổ Cúp bóng đá châu Á tại sân vận động chính ở Tehran "Amjadieh", chật kín hàng chục nghìn người hâm mộ. Đáng chú ý là sân vận động này được xây dựng theo thiết kế của kiến trúc sư Nikolai Markov, một cựu sĩ quan Bạch vệ từng di cư sang Iran.

Vào ngày hôm đó, ngày 19 tháng 5 năm 1968, người Do Thái đã ghi bàn thắng đầu tiên, nhưng sau đó đối thủ của họ đã giành lại chiến thắng. Cuối cùng, Iran đã giành chiến thắng khó khăn với tỷ số 2:1.
 

danngoc

Xe tăng
Biển số
OF-33488
Ngày cấp bằng
12/4/09
Số km
1,168
Động cơ
488,614 Mã lực
"Yibyon [1] chiến đấu trên núi": Liên Xô đã đánh bại Nhật Bản và giải phóng Triều Tiên như thế nào


Alexey Volynets

https://tass.ru/mezhdunarodnaya-panorama/24772781


80 năm trước, vào buổi trưa ngày 15 tháng 8 năm 1945 giờ Tokyo, 300 triệu thần dân của Đế quốc Nhật Bản lần đầu tiên được nghe tiếng nói của người cai trị. Người đàn ông được chính thức công nhận là hậu duệ của nữ thần mặt trời, Thiên hoàng thứ 124 của Nhật Bản, người mang danh hiệu nghi lễ "Hòa bình Giác ngộ", đã lên tiếng từ tất cả các loa phát thanh Nhật Bản vào thời điểm đó và nói rất rõ về hòa bình.

"Sau khi cân nhắc kỹ lưỡng các xu hướng chính trên thế giới," giọng nói của Thiên hoàng vang lên, "chúng ta đã ra lệnh cho chính phủ của mình thông báo với chính phủ Hoa Kỳ, Anh, Trung Quốc và Liên Xô rằng đế quốc chúng ta chấp nhận các điều khoản trong tuyên bố chung của họ."

Đây là một tuyên bố được thông qua ba tuần trước đó ở phía bên kia của lục địa Á-Âu, tại vùng ngoại ô Potsdam của Berlin. Với văn bản này, các cường quốc đã đánh bại Adolf Hitler yêu cầu Nhật Bản đầu hàng vô điều kiện tương tự.

Từ "đầu hàng" không hề được nhắc đến một lần nào trong bài phát biểu trên radio của Thiên hoàng. Nhưng về bản chất, nó chính là như vậy.

Thiên hoàng giải thích với thần dân đang sững sờ của mình: "Tình hình ch.iến tranh không có lợi cho Nhật Bản, các sự kiện chính trên thế giới đã hoàn toàn chống lại lợi ích của họ... Nếu chúng ta tiếp tục tiến hành ch.iến tranh, điều đó sẽ đồng nghĩa với cái chết khủng khiếp và sự hủy diệt của người dân Nhật Bản..."

Và chính xác là với người dân Nhật Bản thời ấy, mọi thứ đều rất khác thường. Thực tế là vào thời điểm đó, người Nhật cũng được coi là... người Triều Tiên.

Bán đảo Triều Tiên khi đó không chỉ là một tỉnh của Nhật Bản - hầu như tất cả người Triều Tiên vào thời điểm đó đều mang họ và tên Nhật Bản, cứ năm người thì có một người bị điều động vào qu.ân đội Nhật Bản. Và nếu đối với thần dân quần đảo Nhật Bản, ngày đầu hàng là một cú sốc, thì đối với thần dân bán đảo – tức Bán đảo Triều Tiên - ngày 15 tháng 8 năm 1945 đã trở thành một ngày lễ.

Ngày nay, Ngày Gi.ải phóng được chính thức kỷ niệm ở cả hai quốc gia tồn tại trên bán đảo này. Đây là một trong số ít những sự kiện trùng hợp ngày nay ở CHDCND Triều Tiên và Đại Hàn Dân Qu.ốc.

Một điều quan trọng không chỉ đối với người Nhật và người Triều, mà cả đối với người Nga - chỉ có quân đội Liên Xô tham gia giải phóng bán đảo vào tháng 8 năm 1945.

Harbin chao don quan LX.jpg

Người dân Cáp Nhĩ Tân được giải phóng chào đón quân đội Liên Xô

"...trọn vẹn quyền cai t.rị Triều Tiên"

Triều Tiên và Nhật Bản là hai quốc gia láng giềng với vận mệnh khác nhau. Đến đầu thế kỷ XX, Nhật Bản đã thực hiện thành công các cải cách hiện đại hóa, trở thành quốc gia hùng mạnh về quân sự và kinh tế. Triều Tiên lúc đó vẫn còn là quốc gia trung cổ, mặc dù các vị vua "van" của họ cũng xưng đế.

Kết quả là, chính tại Xứ sở Bình minh Tĩnh lặng, tên gọi lâu đời của Triều Tiên, những trận ch.iến trên bộ đầu tiên của Ch.iến tranh Nga-Nhật 1904-1905 đã nổ ra. Cuộc xung đột này, tuy không thành công đối với chúng ta, đã làm gia tăng đáng kể ảnh hưởng của Nhật Bản ở Viễn Đông, và không ai trong khu vực có thể chống lại sự bành trướng của các samurai.

Vào cuối mùa hè 1910, một hiệp ước rất ngắn đã được ký kết tại Seoul, nội dung chính được nêu rõ ngay trong đoạn đầu tiên: "Hoàng đế Triều Tiên chuyển giao trọn vẹn và vô thời hạn cho Hoàng đế Nhật Bản mọi quyền cai trị Triều Tiên".

Và trong tròn 35 năm - từ tháng 8 năm 1910 đến tháng 8 năm 1945 - toàn bộ Bán đảo Triều Tiên chính thức trở thành một phần của Nhật Bản. Đất nước Mặt trời mọc đã xử lý Đất nước Bình minh Tĩnh lặng một cách tàn bạo và hiệu quả đến kinh ngạc.

Nhân dân Triều Tiên đã cố gắng kháng cự. Một cuộc chiến du kích diễn ra trên bán đảo suốt một phần tư thế kỷ. Quân kháng ch.iến đã chiến đấu dưới cái tên thời trung cổ "Yibyon", theo nghĩa đen trong tiếng Triều - "Quân đội Công lý".

Ở đất nước chúng ta, trong bối cảnh những biến động của chính mình, giai đoạn lịch sử này của Triều Tiên chỉ được nhớ đến qua bài đồng dao:

Yibyon chiến đấu trên núi,

Họ gây thiệt hại cho kẻ thù.

Kẻ thù không thể bắt được Yibyon,

Và mẹ của Yibyon đang đợi ở nhà! [2]


Nhưng thực tế đó là một cuộc đấu tr.anh rất ngoan cường, anh hùng và cực kỳ tàn khốc.
Tại các ngôi làng miền núi Triều Tiên, nơi bị nghi ngờ hỗ trợ du kích, các đội tr.ừng phạt đã luộc sống tù nhân và buộc nông dân phải nuốt chửng thứ "súp" đó. Vì các đơn vị d.u kích chủ yếu bao gồm thanh niên Triều Tiên, quân Nhật không chỉ thả truyền đơn kêu gọi đầu hàng mà còn thả cả bưu thiếp khiêu dâm từ máy bay trên các cánh rừng núi. Cùng lúc đó, một ch.iến dịch được tiến hành để "mua chuộc" các chỉ huy khá.ng c.hiến Triều Tiên - họ được tặng những điền trang giàu có và nhận lương cấp t.ướng. Trong khi đàn áp kh.áng ch.iến, chính quyền Nhật Bản đồng thời hiện đại hóa và công nghiệp hóa Triều Tiên.

Nghia binh du kich Trieu Tien.jpg

Yibyon du kích Triều Tiên

Kết quả là, đến giữa những năm 1930, các nhóm d.u kích khá.ng ch.iến yếu ớt chỉ còn lại ở những vùng núi hẻo lánh ở cực bắc bán đảo và ở vùng Mãn Châu lân cận, cũng bị Nhật Bản chinh phục.

Cuộc kháng ch.iến cuối cùng của Triều Tiên diễn ra vào mùa hè năm 1937 - một đội qu.ân nhỏ của vị chỉ huy du k.ích Kim Nhật Thành đã chiếm được thị trấn Pochonbo trong vài giờ. Vào thời điểm đó, không ai có thể tưởng tượng rằng vị thủ lĩ.nh 25 tuổi này trong tương lai sẽ trở thành người lã.nh đạo toàn bộ nửa phía bắc của Triều Tiên, người tạo ra nhà n.ước hiện đại và vũ khí h.ạt nhân. Ngược lại, vào những ngày đó, dường như ai cũng nghĩ rằng Xứ sở Bình minh Yên bình đã vĩnh viễn trở thành một phần của Xứ sở Mặt trời mọc.

"Đổi tên"

Vào đầu Thế chiến II, lãnh thổ cũ của Triều Tiên đã bị Nhật Bản bao vây ở hầu hết các phía. Chỉ riêng ở vùng cực đông bắc, hạ lưu sông Tumen (còn gọi là Tumangan), mới có một đường biên giới dài 17 km với vùng Primorye của Liên Xô, nơi mà toàn bộ cộng đồng người Triều Tiên từng đông đảo đã bị trục xuất theo lệnh của Iosif Stalin - nơi này đã bị mật vụ Nhật Bản kiểm soát chặt chẽ.

Chính quyền Nhật Bản đã áp dụng giáo dục phổ thông lần đầu tiên trong lịch sử Triều Tiên. Nhưng đồng thời, việc dạy tiếng Triều Tiên bị cấm. Tôn giáo truyền thống của Nhật Bản, Thần đạo, cũng được áp đặt một cách tích cực. Hơn nữa, vào mùa thu năm 1939, khi những trận chi.ến đầu tiên của Thế chi.ến II nổ ra ở Châu Âu, Thống đốc Triều Tiên, Tướng Jiro Minami (nhân tiện, khi còn trẻ ông đã tham gia Ch.iến tr.anh Nga-Nhật và cuộc bao vây Cảng Arthur) đã ban hành "Sắc lệnh về việc đổi tên". Chỉ trong vòng vài tháng, hơn 80% người Triều Tiên đã có họ và tên theo kiểu Nhật. Do đó, năm vị tổng thống tương lai của Hàn Quốc ban đầu có tên tiếng Nhật. Ví dụ, Park Chung-hee, người tạo nên "phép màu kinh tế Hàn Quốc", từng học tại một học viện quân sự Nhật Bản khi còn trẻ và có tên tiếng Nhật là Takaki Masao.

Day hoc cho nguoi Trieu trong ngoi truong Nhat Ban.jpg

Dạy học cho người Triều trong một ngôi trường của Nhật

Một số trong hàng trăm ngàn người Triều Tiên bị bắt đi lí.nh Nhật Bản đã phục vụ với lòng chính trực cao cả, đạt đến cấp bậc cao. Ví dụ, Trung tư.ớng Hong Sa Ik (còn gọi là Ko Siyoku) sinh ra tại Seoul không chỉ chỉ huy một lữ đoàn bộ b.inh Nhật Bản mà còn chỉ huy tất cả các trại tù bi.nh chi.ến tr.anh của Mỹ ở Philippines.

Tuy nhiên, cũng có hàng chục ngàn phụ nữ từ Bán đảo Triều Tiên bị ép buộc vào các "trại giải khuây" - tên gọi chính thức các nhà thổ của quân đội Nhật Bản. Và giờ đây, đây là biểu tượng chính của sự sỉ nhục quốc gia ở cả hai miền Triều Tiên trong thời kỳ thống trị của samurai.

Nhưng sau đó - cho đến mùa hè năm 1945 - không hề có sự kháng cự đáng kể nào đối với quân Nhật trên đất Triều Tiên.

"Hắc Vượt"

Lịch sử các trận ch.iến của Liên Xô với quâ.n đội Nhật Bản đã được ghi chép trong hàng ngàn cuốn sách. Sau khi phát động cuộc tấn công vào ngày 9 tháng 8 năm 1945, qu.ân đội của chúng ta chỉ trong vòng một tuần đã đánh bại một lực lượng Nhật Bản hùng hậu gồm một triệu người, vốn dựa vào các công sự kiên cố, những ngọn núi hiểm trở và sa mạc.

Ngay cả sau vụ ném bom nguyên tử đầu tiên xuống Hiroshima trong lịch sử loài người, vào ngày 6 tháng 8 năm 1945, chính quyền Đế quốc Nhật Bản vẫn không có ý định đầu hàng. Kế hoạch phòng thủ "Đá tan ngọc nát" đã được thông qua để thực hiện - kế hoạch này được lập để bảo vệ quần đảo Nhật Bản khỏi cuộc đổ bộ của Mỹ trong một thời gian dài và kiên cường, dựa vào nền công nghiệp của Triều Tiên và tài nguyên của Trung Quốc bị chiếm đóng. Chính sự tiến công nhanh chóng của qu.ân đội Liên Xô đã vô hiệu hóa những tính toán này, buộc Nhật hoàng phải công khai đàm phán hòa bình vào ngày 15 tháng 8.

Tuy nhiên, cuộc chi.ến ngắn ngủi và thắng lợi đó không hề dễ dàng đối với Liên Xô. Nếu ở Mãn Châu, tình báo Liên Xô đã hoạt động thành công, thì ở Triều Tiên vào năm 1945, mọi thứ lại khác.

Hong quan danh Nhat.jpg

Một khẩu đội pháo 45mm của Hồng qu.ân trong chiến dịch đánh Nhật

Cơ quan tìn.h báo samurai đã kiểm soát hoàn toàn bán đảo. Tìn.h báo của chúng ta không có bất kỳ đi.ệp viên nào trong số người Nhật ở Triều Tiên, và việc cử trinh sát Nga hoặc Trung Quốc đến đó là vô ích — ngay cả những điệ.p viên Trung Quốc cũng quá dễ bị phát hiện giữa bối cảnh người địa phương. Do đó, chỉ có người Triều được cử đến làm việc trên bán đảo. Nhưng vào năm 1944, lực lượng phản g.ián của Hạm đội Thái Bình Dương đã buộc phải mở một hồ sơ điệp viên mật dưới mật danh "Hắc Vượt" — cơ quan t.ình báo nhận thấy rằng tất cả năm mươi điệ.p viên được cử đến Triều Tiên đều bị Nhật Bản bắt giữ hoặc tuyển dụng lại.

Hồ sơ nhiều tập "Hắc Vượt" đã mô tả tỉ mỉ những thất bại: điệ.p viên "Petya" (Noah Ki Yun) được chuyển đến cảng Gyonzan vào tháng 4 năm 1943, và bị Nhật bắt giữ năm tháng sau đó; điệ.p viên "Naumov" (Lee Teung Chun) được đưa đến Triều Tiên vào tháng 6 năm 1944 để do thám cảng Busan, bị hiến b.inh Nhật Bản vạch mặt trong cùng tháng đó, và vào tháng 3 năm 1945, dưới sự kiểm soát của tì.nh báo Nhật Bản, đã liên lạc với Seoul, "sau đó anh ta bắt đầu liên tục đòi tiền và chỉ thị"; điệ.p viên "Lazarus" (Du Song Han) được điều động đến Triều Tiên vào tháng 8 năm 1944 và đầu hàng qu.ân Nhật cùng tháng đó; điệ.p viên "Đông phương" (Tsoi Di Kyung) được cử đến cảng Chinhae vào tháng 10 năm 1944, bị vạch mặt và được quân Nhật tuyển dụng lại vào tháng 5 năm 1945; Điệ.p viên "Kolya" (Liang Ye Han, tức Yamamoto Koro) bị cộng sự ph.ản bội và từ năm 1943, hoạt động dưới sự chỉ huy của Nhật Bản, truyền tin giả về trụ sở Liên Xô qua radio cho đến tháng 8 năm 1945. Nếu ở Mãn Châu, cơ quan tì.nh báo Liên Xô đã có cả thất bại lẫn thành công (ngay cả chủ tịch tương lai của CHDCND Triều Tiên, lúc đó là đại úy qu.ân đội Liên Xô Kim Nhật Thành, cũng đã thực hiện các cuộc đột kí.ch trin.h sát trên lãnh thổ đó hơn một lần), thì trên Bán đảo Triều Tiên lại không có thành công nào. "Công việc triển khai đi.ệp viên qua biên giới không thể đảm bảo trinh sát các khu vực và đối tượng mà chúng tôi quan tâm..." - một thông điệp mật từ lực lượng ph.ản gián của Hạm đội Thái Bình Dương gửi đến Moskva vào mùa hè năm 1945 cho hay.

"Họ phấn khích hô vang "manse"..."

Tóm lại, 80 năm trước, thành công chiến đấu ở đó chỉ được đảm bảo bởi kinh nghiệm qu.ân sự dày dặn của binh lí.nh và sĩ q.uan Liên Xô. Điều này được phản ánh rõ trong hồi ký của Kim Nhật Thành, người được huấn luyện quâ.n sự tại một thao trư.ờng gần Khabarovsk vào mùa hè năm 1945: "Khi công tác chuẩn bị cho chiến dị.ch chống Nhật bước vào giai đoạn cuối, hầu hết các huấn luyện viên đã được thay thế bởi những người đã tham gia các trận chi.ến trên mặt trậ.n Xô-Đức. Họ đã được tôi luyện nhiều năm trong môi trường chiến tranh hiện đại, nên mọi điều họ nói và chỉ cho chúng tôi đều hoàn toàn mới mẻ..."

Kim Nhat Thanh trong Hong quan.jpg

Kim Nhật Thành (thứ hai tính từ bên phải hàng đầu tiên)

Cuộc tấn công của Liên Xô bắt đầu vào ngày 9 tháng 8 năm 1945, nhưng một ngày trước đó, một đội trin.h sát và phá hoại gồm binh lí.nh Liên Xô và du kíc.h Triều Tiên đã xâm nhập vào lãnh thổ Triều Tiên tại cửa sông Đồ Môn. Kết quả là, vào rạng sáng ngày 9 tháng 8, khu định cư đầu tiên tại Triều Tiên được giải phóng khỏi 10 năm đô hộ của Nhật Bản - làng Thoridon.

Khi Nhật hoàng Nhật Bản tuyên bố đầu h.àng trên radio vào ngày 15 tháng 8, qu.ân đội Liên Xô đang tiến về phía đông bắc Bán đảo Triều Tiên. Trong ba ngày, lực lượng đổ bộ của chúng ta đã chiế.n đấu ác liệt tại cảng Seishin - căn cứ lớn nhất của hạm đội Nhật Bản ngoài khơi bờ biển Liên Xô. Một tiể.u đoàn lí.nh thủy đánh bộ của chúng ta, với kinh nghiệm dày dặn trong chi.ến đấu với quân Đức gần Murmansk và ở Na Uy, đã tấn công thành công toàn bộ một sư đo.àn Nhật Bản.

Cuộc oa.nh tạc bằng máy bay ném bom cuối cùng của Thế chiến II cũng diễn ra tại Triều Tiên. Phi công Liên Xô Mikhail Yanko, trong một cuộc ném bom vào các vị trí của quân Nhật tại cảng Rason của Triều Tiên, đã lao chiếc máy bay của mình, vốn đã bị hư hại do hỏa lực phòng không, đâm về phía kẻ thù.

Tại Bình Nhưỡng, thủ đô tương lai của CHDCND Triều Tiên, lín.h dù Liên Xô là những người đầu tiên đổ bộ vào tháng 8 năm 1945. Quâ.n đội Liên Xô không tiến xa hơn về phía nam, do tuân thủ các thỏa thuận ngoại giao với Hoa Kỳ. Qu.ân đội Mỹ chỉ xuất hiện ở Seoul, thủ đô tương lai của Hàn Quốc, vào tháng 9, sau lễ đầu hàng chính thức của Nhật Bản.

Linh Nhat nop vu khi sau khi dau hang.jpg

Lính Nhật giao nộp vũ khí sau khi đầu hàng

Chưa đầy mười phút sau, máy bay và đoàn qu.ân của chúng tôi đã bị bao vây bởi một bức tường người đông đặc. Đàn ông mặc áo khoác trắng và quần trắng, đội mũ rơm, nhưng chủ yếu là đi chân đất, phụ nữ cầm ô rộng, phẳng và sáng màu - tất cả đều nhìn người Nga với vẻ ngưỡng mộ, nói điều gì đó phấn khích, hô vang "manse" (có nghĩa là "hoan hô"), cố gắng diễn tả cảm xúc của mình bằng cử chỉ và nét mặt.

Trích từ cuốn "Nhân danh tình hữu nghị với nhân dân Triều Tiên: Ký ức và bài viết"

Tại Bình Nhưỡng, một tấm bia "Giải p.hóng" cao 30 mét vẫn còn sừng sững trên nền một ngôi đền Thần đạo cũ của Nhật Bản. Khác với Đông Âu, chưa có ai phá bỏ tượng đài tưởng niệm những người lín.h Liên Xô ở phía bắc bán đảo. Và ngay tại trung tâm thủ đô CHDCND Triều Tiên, người ta có thể đọc được dòng chữ bằng tiếng Nga và tiếng Triều: "Vinh quang vĩnh cửu thuộc về Quâ.n đội Liên Xô vĩ đại, những người đã giải phóng nhân dân Triều Tiên khỏi ách thống trị của đế quốc Nhật Bản và mở đường cho họ đến tự do và độc lập! Ngày 15 tháng 8 năm 1945."





[1] Yibyon (tiếng Triều: 의병, Hán: 義兵 – nghĩa binh; "đội qu.ân công lý") là lực lượng dân quân Triều Tiên (chủ yếu là nông dân) được thành lập để chống quân xâm lược nước ngoài. Lực lượng này xuất hiện lần đầu tiên vào cuối thế kỷ X, trong cuộc xâm lược của Khiết Đan. Từ những năm 1890 đến đầu thế kỷ XX, trong thời kỳ Nhật Bản chiếm đóng Triều Tiên, các đơn vị nghĩa bin.h đã xuất hiện trở lại. Họ được Đế quốc Nga hỗ trợ nhằm làm suy yếu ảnh hưởng của Nhật Bản ở Viễn Đông. Trong Nội chi.ến, một số cựu chỉ huy du kí.ch đã gia nhập Hồng qu.ân. - ND

[2] Nguyên văn tiếng Nga:

В горах сражается Ыйбён,

Врагам наносит он урон.

Врагам Ыйбёна не поймать,

А дома ждет Ыйбёна мать!


 

danngoc

Xe tăng
Biển số
OF-33488
Ngày cấp bằng
12/4/09
Số km
1,168
Động cơ
488,614 Mã lực
"Cơn say xỉn đê tiện nhất và lũ thánh ngẫn": tại sao Zaporozhe Sech bị phá hủy

Aleksey Volynets


Tranh Nhung nguoi codac Zaporozhe Ilya Repin.jpg

Bức tranh “Những người cô-dắc Zaporozhe viết thư cho Sultan Thổ Nhĩ Kỳ” của Ilya Repin, 1880-1891

Tất cả chúng ta đều nhớ những dòng của N.V. Gogol từ thời đi học: "Nhân dịp các con trai về, Bulba ra lệnh triệu tập tất cả bách trưởng [1] và toàn bộ quân sĩ các trung đoàn... Ông lập tức giới thiệu các con mình với họ và nói: "Nhìn xem, những gã trai nom bảnh chưa! Ta sẽ sớm gửi chúng đến Sech." ... Không có khoa học nào tốt cho thanh niên hơn là Zaporozhe Sech". Nhờ thế, ngay những người xa lạ với lịch sử cũng biết về người cô-dắc Zaporozhe. Nhưng họ rất ít biết bằng cách nào và tại sao Zaporozhe Sech hoàn thành thiên anh hùng ca lịch sử của mình. Điều này xảy ra đúng 250 năm trước, vào ngày 14 tháng 8 năm 1775.

"Cộng hòa kỳ lạ này..."

Zaporozhe Sech, giống như tất cả các cộng đồng cô-dắc khác, là một hiện tượng của "biên viễn", vùng biên giới, vùng đất không người.

Khi sức mạnh của Kim Trướng Hãn quốc cuối cùng biến mất trên thảo nguyên Biển Đen và vùng Azov, những người cô-dắc đầu tiên xuất hiện ở bờ nam sông Dniepr, trên các đảo và vùng đồng bằng ngập nước, nơi thuận tiện cho việc kiếm ăn và tự vệ. Trong nhiều thế kỷ, chính tại nơi đây, biên giới của ba thế giới, ba nền văn minh và ba tôn giáo đã gặp nhau - Khối thịnh vượng chung Ba Lan-Litva theo Công giáo, Hãn quốc Crimea theo Hồi giáo với Đế chế Ottoman và Nga Chính thống giáo Moskvich.

Người cô-dắc tồn tại trên vùng biên giới này, nơi chiến tranh gần như không bao giờ ngừng lại, nơi không có quyền lực ổn định và liên tục của bất kỳ ai. Bản thân từ "cô-dắc" bắt nguồn từ phương ngữ Polovets, vừa mang ý nghĩa người tự do vừa mang ý nghĩa người bảo vệ thảo nguyên. "Sech" là công sự bằng gỗ đơn giản nhất, một đống gỗ hoặc một hàng rào, thứ được người dân Moskva gọi là "zasek" ở xa hơn về phía bắc.

Từ Ivan Hung đế đến Piotr Đại Đế, chính người cô-dắc Zaporozhe là hiện tượng đáng gờm nhất, hung bạo nhất trên bờ sông Dniepr - và là yếu tố lịch sử quan trọng nhất trong khu vực đó. Qua nhiều thế kỷ, cái tên "Zaporozhe Sech" đã trở nên quen thuộc.

"Nền cộng hòa kỳ lạ này chính là nhu cầu của thế kỷ đó", Gogol viết về thời đại cô-dắc Zaporozhe. Người sáng tạo nên hình ảnh lãng mạn nhất về "các hiệp sĩ Sech" đã không che giấu tất cả những mâu thuẫn của hiện tượng này: "Toàn bộ người Sech cầu nguyện trong một nhà thờ và sẵn sàng bảo vệ nó đến giọt máu cuối cùng, mặc dù họ không muốn nghe về việc ăn chay và kiêng khem."

Sech thực sự là một dạng cộng hòa dựa trên "nền dân chủ quân sự" - quyền lực chuyên chế của các chỉ huy chiến trường được bầu, getman và ataman. Người cô-dắc Zaporozhe đã chiến đấu bên người Ba Lan và chống lại người Ba Lan, bên người Nga và chống lại người Nga. Họ liên tục chiến đấu với người Hồi giáo, nhưng ngay cả Chính thống giáo cuồng nhiệt và những mối thù truyền kiếp cũng không ngăn cản họ đôi khi ký kết liên minh với Sultan Thổ Nhĩ Kỳ và Hãn Crimea. Bokhdan Khmelnitsky nổi tiếng, thủ lĩnh của Quân đội Zaporozhe, trước khi tuyên thệ trung thành với Sa hoàng Nga, khi còn trẻ đã bị Thổ Nhĩ Kỳ giam cầm và chiến đấu dưới ngọn cờ của vua Ba Lan chống lại quân đội Nga gần Smolensk.

Chỉ đến đầu thế kỷ XVIII, nhiều thay đổi mới diễn ra - trên biên giới của ba cường quốc, ảnh hưởng của một cường quốc, cường quốc cực bắc, ngày càng mạnh mẽ. Vương quốc Moskva, và sau đó là Đế quốc Nga, dần dần khẳng định quyền lực của mình trên "Cánh đồng Hoang dã", tức thảo nguyên Polovets trước đây. Và trong điều kiện mới, Zaporozhe Sech và người cô-dắc của nó - đứa con hoang dã và tự do của tình trạng hỗn loạn biên giới - buộc phải thay đổi hoặc biến mất.

"Những kẻ phản bội Zaporozhe đã quên mất lòng kính sợ Chúa..."

Vào đầu thời đại Piotr Đại đế, vùng tả ngạn Ukraine - "Getmanschina" theo ngôn ngữ thời đó, về cơ bản là một vùng tự trị trong nhà nước Nga. Tất cả các vùng đất, bao gồm cả vùng Zaporizhe Sech, đều do "Getman của Quân đoàn Zaporozhe" cai trị. Nhưng bản thân Sech, đến lượt nó, lại là một vùng tự trị trong một vùng tự trị - và nó được cai trị bởi một "koshevoy ataman" riêng biệt.

Và cả hai "khu tự trị" thời trung cổ này đều chịu ảnh hưởng ngày càng tăng của nhà nước Nga - chính trị, kinh tế, hành chính. Những người quen với sự tự do của vùng biên cương không thích điều này, và cư dân Sech, ngoài ra, cũng không thích sức mạnh ngày càng lớn mạnh của "Getmanschina". Đó là lý do tại sao vào năm 1707, trái với ý muốn của getman, người cô-dắc Zaporozhe đã ủng hộ cuộc nổi dậy của người cô-dắc sông Đông dưới quyền Kondratiy Bulavin, những người đã nổi dậy chống lại chính quyền trung ương vì chính những lý do đó.

Vào thời điểm chính getman Ivan Mazepa nảy sinh ý định nổi loạn và đứng về phe Thụy Điển, ông đã bất hòa với Zaporozhe Sech suốt nhiều năm, thường xuyên gửi thư tố cáo các thủ lĩnh của họ lên Piotr I. Nhưng vào năm diễn ra Trận Poltava, kẻ thù truyền kiếp của Mazepa, koshevoy ataman Konstantin Gordienko, người đứng đầu Sech, cũng đã đứng về phía Charles XII. Cả hai kẻ thù đều cho rằng việc được Thụy Điển xa xôi bảo hộ sẽ thuận lợi hơn cho chế độ chuyên quyền của họ so với bàn tay độc đoán của Sa hoàng Nga.

Kết quả là, một cuộc nội chiến thực sự đã nổ ra ở Ukraina trong khuôn khổ chiến tranh Nga-Thụy Điển, chia rẽ người cô-dắc. Nếu trong "Getmanschina", phần lớn người cô-dắc vẫn trung thành với Nga, thì trên vùng đất Zaporozhe Sech, một số người cô-dắc ủng hộ tên ataman phản bội, trong khi phần còn lại đứng ngoài cuộc, không tham gia vào các trận chiến vì Charles hay Peter.

Gần Poltava, trong trận chiến nổi tiếng, 3.000 quân cô-dắc của getman Mazepa và ataman Gordienko đã chiến đấu bên phe Thụy Điển, còn 8.000 quân cô-dắc vẫn trung thành đã chiến đấu bên phe Sa hoàng Nga. Một tháng rưỡi trước trận chiến mang tính lịch sử, vào tháng 5 năm 1709, quân kỵ binh Nga, cùng trung đoàn cô-dắc Ukraina của Ignat Galagan, đã phá hủy các công sự chính của Zaporozhe Sech. Như thường xảy ra trong các cuộc nội chiến, các trận chiến rất tàn khốc và tù binh không được tha; cả hai bên đều thực hiện tàn sát tập thể.


Poltava.jpg

Bức tranh "Trận chiến giữa quân đội Nga và Thụy Điển gần Poltava vào ngày 27 tháng 6 năm 1709"

Trong một tuyên cáo đặc biệt của Sa hoàng Piotr "gửi toàn thể Cộng đồng Tiểu Nga", ngoài "kẻ phản bội và bội giáo Mazepa", "kẻ phản bội Gordienko" và "những kẻ phản bội Zaporozhe đã quên mất lòng kính sợ Chúa" cũng được nhắc đến.

Người Thụy Điển đã thất bại - đám cô-dắc ủng hộ họ phải chạy trốn đến lãnh thổ của Đế chế Ottoman. Trong suốt thời gian còn lại của triều đại Piotr I, quyền tự chủ của "Getmanschina" được duy trì, nhưng Zaporozhe Sech không còn tồn tại ở đó nữa. Tuy nhiên, ở hạ lưu sông Dniepr, trên vùng đất của Hãn quốc Krym, một Sech chạy trốn đã tồn tại suốt một phần tư thế kỷ, dưới quyền của Quốc vương.

Đám Zaporozhe chạy trốn cũng không bén rễ dưới sự cai trị của dân ngoại đạo. Khi Chiến tranh Nga-Thổ lần thứ hai nổ ra năm 1735, người cô-dắc nhanh chóng bầu lại thủ lĩnh, buộc Gordienko, kẻ mến mộ Thụy Điển, phải nghỉ hưu và một lần nữa xin nhập quốc tịch Nga. Hoàng hậu Anna Ioannovna ân xá cho họ - đổi lại, người cô-dắc Zaporozhe đã giúp quân đội Sa hoàng chiếm Perekop và pháo đài Ochakov ở Crimea.

Zaporozhe Sech được khôi phục trên lãnh thổ Đế quốc Nga. Và cô-dắc Zaporozhe một lần nữa trở thành một phần của dân cô-dắc - cùng với cô-dắc sông Đông, cô-dắc Tiểu Nga, cô-dắc Sloboda, cô-dắc Terek, cô-dắc Astrakhan, cô-dắc Yaik, cô-dắc Siberia và các tộc cô-dắc khác.

Tàn sát, nổi loạn, âm mưu...

Tuy nhiên, việc khôi phục Sech không giải quyết được vấn đề của người cô-dắc Zaporozhe. Trên thực tế, họ đã tan rã thành nhiều phần - ví dụ, tại cửa sông Nam Bug, một nước cộng hòa cướp biển thực sự đã ra đời, từ đó người cô-dắc đi cướp bóc tất cả. Và vào năm 1761, một điều chưa từng có đã xảy ra - lực lượng liên minh của ba đế chế, Thổ Nhĩ Kỳ, Ba Lan và Nga, đã tiến hành một chiến dịch chung chống lại bọn cướp biển Zaporozhe ở Nam Bug.

Vào năm sau, 1762, Ekatherina II lên ngôi vua Nga và phải giải quyết vấn đề Zaporozhe một lần và mãi mãi. Vào thời điểm đó, đội quân cô-dắc lớn nhất, đội quân cô-dắc sông Đông, đã hoàn toàn được sáp nhập vào hệ thống quyền lực đế quốc - không chỉ các ataman, mà cả các starshina quân sự (theo Bảng Cấp bậc là các sĩ quan từ thiếu tá trở lên) không còn được bầu bởi người cô-dắc nữa mà phải được chính phủ bổ nhiệm.

Trong bối cảnh này, việc quản lý yếu kém của người cô-dắc Zaporozhe đã gây ra những lo ngại thường trực. Năm 1768, chi đội cô-dắc của Maksym Gonta, vốn đã rời khỏi Sech, nổi dậy chống lại Khối thịnh vượng chung Ba Lan-Litva ở hữu ngạn sông Dniepr và tiến hành một cuộc tàn sát lớn người Do Thái tại thị trấn Balta (nay thuộc vùng Odessa). Bị cuốn theo cuộc tàn sát, người cô-dắc Zaporozhe đã vượt qua biên giới gần đó của Đế chế Ottoman và tiếp tục các cuộc tàn sát, đốt cháy thành phố Dembosaray (nay là Dubossary thuộc Transnistria).

Chính cuộc đột kích Zaporozhe này đã được Đế chế Ottoman sử dụng làm cái cớ để tuyên chiến với Nga. Ngoài ra, vào đêm trước cuộc đụng độ không thể tránh khỏi, Sankt-Peterburg đã nhận được đơn tố cáo từ một trong những đại tá Zaporozhe rằng giới lãnh đạo Sech lại đang có kế hoạch đào tẩu sang Thổ Nhĩ Kỳ. Nhưng đó chưa phải là tất cả - vào cuối năm 1768, một cuộc nổi loạn của những người cô-dắc bình thường chống lại các starshina đã nổ ra ở Sech. Thủ lĩnh cô-dắc Zaporozhe, Petro Kalnyshevsky, đã phải trốn tránh quân cô-dắc của mình tại một trong những pháo đài biên giới của Nga. Lúc đó, ông không hề ngờ rằng chỉ vài năm nữa thôi, mình sẽ bị "ẩn náu" mãi mãi tại một trong những pháo đài biên giới.

Nước Nga đã thành công vượt qua cả cuộc nổi loạn mới và cuộc chiến tranh mới. Vào cuối sáu năm giao tranh với Thổ Nhĩ Kỳ (lý do chính là sự ngoan cố của người cô-dắc Zaporozhe), Sech đã trở thành một "hòn đảo" thực sự nằm giữa lãnh thổ Nga. Cửa sông Dniepr trên danh nghĩa và Crimea trên thực tế sau đó trở thành của Nga, và thảo nguyên Zaporozhe không còn là vùng biên giới nữa.

Cuộc chiến thắng lợi trước người Thổ kết thúc vào mùa hè năm 1774. Cuối năm đó, cuộc nổi loạn của Yemelyan Pugachev cũng bị dập tắt, sau đó người cô-dắc Yaik mất đi danh tiếng của mình mãi mãi. Chính quyền của Ekatherina II đã toàn quyền giải quyết vấn đề cô-dắc Zaporozhe. Hơn nữa, người "Sech" bất trị lại một lần nữa đưa ra lý do - trên bờ sông Kalmius, nơi có thành phố Mariupol ngày nay, một cuộc thảm sát thực sự đã nổ ra giữa cô-dắc sông Đông và cô-dắc Zaporozhe, những người không chịu chia sẻ đất đai và đồng cỏ thảo nguyên.

Đầu năm 1775, Grigory Potemkin, Toàn quyền Novorossiya, và Nguyên soái Pyotr Rumyantsev, Toàn quyền Tiểu Nga, đã đề xuất Nữ hoàng "hành động quyết liệt" với người cô-dắc. Ban đầu, Ekatherina II phản đối, lưu ý rằng trong cuộc chiến tranh vừa kết thúc với người Thổ Nhĩ Kỳ, người cô-dắc Zaporozhe vẫn trung thành. Bà chỉ chịu khuất phục vào tháng Năm.

"Một sự cần thiết vô cùng kinh tởm…"

Điều đáng chú ý là Potemkin biết rõ người cô-dắc Zaporozhe, từng sống một thời gian tại một trong những "kuren" ở Sech và thậm chí còn được nhận vào cô-dắc Zaporozhe dưới cái tên Gritsko Neches. "Anh cô-dắc Gritsko" trở thành người khởi xướng chính cho việc thanh trừng người Sech trong điều kiện lịch sử mới.

Người thực hiện ngay lập tức là một nhân vật không kém phần nổi bật trong lịch sử - Tướng Piotr Tekeli. Sinh ra trên biên giới Áo-Thổ Nhĩ Kỳ tại Serbia, ông gia nhập quân đội Nga cùng hàng ngàn người định cư khác từ Balkan. Trong cuộc chiến với Phổ, Tekeli người Serbia là một trong những chỉ huy Nga đầu tiên chiếm đóng Berlin trong lịch sử. Sau đó, ông đã chiến đấu anh dũng chống lại người Ba Lan và người Thổ Nhĩ Kỳ.

Tekeli có mối hận thù với người Zaporozhe - vào giữa thế kỷ XVIII, Nga đã tích cực mời gọi những người nhập cư Chính thống giáo từ Balkan, định cư họ ở vùng biên giới hai bên sông Dniepr. Và dân Zaporozhe Chính thống giáo cực kỳ tàn nhẫn với những người cùng đức tin, cạnh tranh với họ để giành đất đai thảo nguyên. Kết quả là, chiến dịch tước vũ khí dân Zaporozhe của Tướng Tekeli đã được các trung đoàn cầm giáo từ "Tân Serbia" (nay là vùng Kirovograd thuộc Ukraina) và các trung đoàn cô-dắc sông Đông tự nguyện thực hiện.

Việc thanh trừng Sech diễn ra mà không cần nổ súng. Lễ phục và hồ sơ của vị ataman được gửi về Moskva, và vị ataman cuối cùng của Sech, Petro Kalnyshevsky, bị áp giải đi xa hơn - đến Tu viện Solovetsky, nơi ông phải trải qua một phần tư thế kỷ trong tù.

Đỉnh điểm của tất cả những điều này là bản tuyên cáo đặc biệt của Ekaterina II, xuất hiện đúng 250 năm trước, vào ngày 14 tháng 8 (ngày 3 tháng 8 theo lịch cũ) năm 1775, trong đó Nữ hoàng giải thích chi tiết lý do của những gì đã xảy ra, gọi việc thanh trừng Zaporozhe Sech là "một sự cần thiết vô cùng kinh tởm". Bản tuyên cáo đã đề cập đến tất cả những vấn đề đã tích tụ quanh dân cô-dắc Zaporozhe, và theo phong cách thời bấy giờ, đã liệt kê tội lỗi của họ: "Một thế lực chính trị trở nên hoang dã trong các khe núi và thác nước của nó... một lũ thánh ngẫn [2], chủ yếu sống bằng cướp bóc... chìm đắm trong sự lười biếng tột độ, cơn say xỉn đê tiện nhất và sự ngu dốt đáng khinh bỉ."

Tuy nhiên, chính quyền của Ekaterina II đã khôn ngoan không chỉ giới hạn ở việc đàn áp và giáo điều - sau khi thanh lý người Sech và quyền sở hữu đất đai tập thể của họ, bắt đầu cuộc phân chia đất đai hàng loạt cho tất cả đám cô-dắc và ataman trung thành. May mắn thay, có rất nhiều đất đai ở khu vực Biển Đen đã giành lại được từ Thổ Nhĩ Kỳ. Trong số những kẻ này, Filip Pylepenko, một trong những cựu koshevoy ataman của người Sech, đã nhận được một điền trang lớn - mặc dù tại Poltava ông ta từng chiến đấu bên phe Thụy Điển hồi còn trẻ.

Tin chắc rằng một trong những nguyên nhân chính dẫn đến cuộc nổi loạn Zaporozhe là sự tụ tập đông đảo đám thanh niên chưa lập gia đình tại Sech, chính phủ Nga bèn tặng năm rúp cho tất cả những tay Zaporozhe đã kết hôn. Hầu hết các trưởng lão Zaporozhe đều được phong hàm sĩ quan trong quân đội Nga theo quyết định của Bá tước Potemkin, và con cháu của họ cũng được ngang hàng những quý tộc Nga thông thường.

Và nếu Zaporozhe Sech kết thúc lịch sử đúng 250 năm trước, thì lịch sử của người cô-dắc Zaporozhe vẫn chưa kết thúc vào ngày đó, 14 tháng 8 năm 1775. Nhiều gã cô-dắc Sech trước đây từng thành ra Đội quân cô-dắc Hắc Hải, vào cuối thế kỷ XVIII đã chuyển đến vùng Kuban và trở thành dân cô-dắc Kuban. Ngay cả những người cô-dắc Zaporozhe chạy trốn sang Thổ Nhĩ Kỳ và sống gần hai thế hệ bên kia sông Danube, phần lớn đã trở lại quốc tịch Nga vào năm 1828, định cư giữa vùng Berdyansk và Mariupol.


[1] Nguyên văn “сотник”: sotnik là chỉ huy của một đơn vị quân đội ("bách vệ", nghĩa đen là 100 người), đồng thời là người đứng đầu các đơn vị hành chính và lãnh thổ. - ND

[2] Nguyên văn “юродивый”.
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top