- Biển số
- OF-138332
- Ngày cấp bằng
- 13/4/12
- Số km
- 2,331
- Động cơ
- 390,417 Mã lực
Sau đây, xin được tổng hợp lại 1 số các loại tên lửa chống hạm, đạn đạo hoặc hành trình đình đám khét tiếng tới thời điểm hiện tại, có thể được sử dụng để chống lại TSB hoặc nhóm TSB (thường là Âu Mỹ) 1 cách hiệu quả. Trong trường hợp có xung đột giới hạn trên biển giữa các nước lớn 
[QPAN] Ngư lôi - Tên lửa siêu khoang bọt Shkval VA-111
Hàng loạt những bộ phim chiến đấu của Hollywood đã cho người xem có cảm giác nghệ thuật tác chiến dưới đáy biển giống như một ván cờ không vội vàng và rất trí tuệ của những chuyên gia chiến thuật Hải quân Mỹ. Nhưng những khái niệm của chiến thuật tầu ngầm đã có những thay đổi khá lâu, bằng một vũ khí bí mật.
Vấn đề là, vào cuối những năm 1970x. Lực lượng tầu ngầm Hải quân Xô viết đã được trang bị một loại vũ khí, mà nếu so nghệ thuật tác chiến của nó với các loại ngư lôi thông thường và kỹ thuật tác chiến thông thường khấp khiễng như so sánh cung tên thời Robin Hood với súng trường tự động lắp ống kính quang học loại Reminton.
Nhưng điều được nhớ lại về vũ khí bí mật (ngư lôi-tên lửa) được báo chí gây lên một vụ scandan khá ồn ào xung quanh vụ gián điệp công nghệ quân sự. Công dân Mỹ Edmund Pop năm 1969 ra nhập Hải quân Mỹ, sau 25 năm phục vụ ông nghỉ hưu với quân hàm đại úy. Sau đó ông trở thành cố vấn bộ phận khoa học của trường An ninh thuộc bộ Hải Quân Mỹ. Năm 2000 ông bị bắt tại Tp: Niznovgrog vì cố gắng lấy cắp bản thiết kế công nghệ sản xuất siêu Tên lửa-Ngư lôi " Gió giật/Shkval". Cùng năm E.Pop bị xét xử tại Moscow và bị kết án 20 năm tù, sau này Tổng thống Putin đã ký lệnh ân xá cho Pop. Nhưng thực tế đến thời điểm này, ngư lôi Shkval VA-111 không phải là loại vũ khí siêu bí mật, Trung Quốc có tới 40 đầu đạn được mua từ Kazakhstan (theo thực tế là mua lại của Ucraina) Iran cũng công bố thử nghiệm thành ngư lôi loại này. Và loại tên lửa ngư lôi này đã được trưng bầy nhiều lần tại các triển lãm quân sự Abu Dhabi và Nga sẵn sàng bán loại ngư lôi này.
Tên lửa có thể làm tất cả
Shkval không phải là vũ khí loại mới. Ngư lôi siêu khoang được bắt đầu nghiên cứu phát triển vào những năm 60x. Thời gian này, mọi sự quan tâm đều được đặt vào tên lửa, dường như tên lửa sẽ bảo vệ vững chắc Liên bang Xô viết. Mọi loại vũ khí đều giảm bớt, nhưng tên lửa thì phát triển vô cùng mạnh mẽ. Tên lửa được phát triển mạnh mẽ ở khắp mọi không gian chiến trường. các đơn vị tên lửa được xây dựng trên sa mạc, trong rừng taiga, trên những vùng đất băng giá, trên không trung và vũ trụ. Nhưng tên lửa chưa có ở dưới nước, và các sỹ quan quân đội Xô viết quyết định, phải có tên lửa dưới biển. Nghị quyết của Hội đồng bộ trưởng СССР № 111-463 ngày 13 tháng 10 năm 1960 đặt nhiệm vụ cho các nhà khoa học phải chế tạo tên lửa dưới nước. Tên lửa có tính năng đa dụng, là ngư lôi để tiêu diệt các tầu ngầm và tầu nổi, hoặc là phương tiện mang đầu đạn hạt nhân đến bờ biển của đối phương. Các loại vũ khí hạt nhân thời điểm đó có sức công phá khủng khiếp, nhưng phương tiện mang không có. Tên lửa ngầm chính là phương tiên, nó thực sự vô cùng khó đối phó, rất khó phát hiện, các phương tiện phòng không chống tên lửa của Ronal Rigan không có giá trị với loại tên lửa này.
Thiết kế tên lửa ngư lôi được phê chuẩn vào năm 1963. Loại tên lửa ngư lôi này có một tốc độ không thể tưởng tượng nổi 100m/s và tất cả các ngư lôi khác chậm hơn nó đến 3 lần. Tháng 5/1966 mô hình tên lửa-ngư lôi đã được đưa lên tầu ngầm Diezel S-65 và tiến hành phóng thử nghiệm tại khu vực Pheodosia (gần bán đảo Crym-Ukraina). Mẫu thử nghiệm tên lửa-ngư lôi có mã hiệu M-4. Do mẫu thiết kế M-4 tồn tại 1 số nhược điểm nên chương trình bị dừng lại đến năm 1972. Nhưng ngay sau đó mô hình M-5 đã khắc phục được hầu hết các nhược điểm của M-4 và có nhiều tính năng vượt trội. Ngày 29/11/1977 quyết định của Hội Đồng Bộ Trưởng Liên Xô đưa tổ hợp chống ngầm " Gió giật/Shkval" với Ngư lôi M-5 vào trang bị cho Hải Quân Liên xô, tổ hợp nhận được mã hiệu VA-111.
Bản thiết kế ra Tên lửa - Ngư lôi " Gió giật/Shkval" không chỉ là vấn đề tìm ra lý thuyết có một không hai về giải pháp chế tạo cho Tên lửa-Ngư lôi chuyển động trong túi khí bao quanh. Mà còn là việc tạo ra động cơ tên lửa hiệu suất cao sử dụng năng lượng an toàn. Thành quả được tạo ra bởi nhóm viện sĩ nghiêm cứu chuyên sâu dưới sự lãnh đạo của các viện sĩ Hàn lâm khoa học Liên Xô Nicholas Silin, Vladimir Eugene Shahidzhanov và Ivashkov.
Trọng lượng hỗn hợp của Tên lửa-Ngư lôi đã không hề dễ dàng chuyển động trong nước với tốc độ từ trước tới nay trên thế giới chưa từng có 200 hải lý/giờ. Hơn thế nữa Tên lửa-Ngư lôi phải thắng tải thủy năng (hydrodynamic loads) phát sinh trên thân vỏ ngư lôi như xoáy thủy lực, ma sát nước.v.v... . Giám đốc thiết kế ED Rakov đã nghiên cứu các yếu tố, phương pháp trên đề án thiết kế kết hợp với tính toán các yếu tố thực tế.
Cuối cùng thì kết quả nghiêm cứu dựa trên các cơ sở khoa học và thực nghiệm cho phép tạo ra 1 loại Tên lửa-Ngư lôi chuyển động trong nước được bao bởi túi bọt khí khổng lồ, trượt theo tên lửa như lớp da cá. Chương trình phát triển tổ hợp chống ngầm " Gió giật/Shkval" nhận được sự hậu thuẫn của những người uy tín trong Hải quân LX và Viện hàn lâm Khoa học : Đô đốc-Tư lệnh Hải quân Liên Xô S.G Gorshkov , viện sĩ A.P Alexandrov, viện sĩ V.N Trapeznikov và phó đô đốc B.D Kostygov. Phiên bản đầu tiên được thử nghiệm trên bãi thử nghiệm hồ Issyk-Kul, năm sau, mẫu tên lửa – ngư lôi Shkval được thử nghiệm trên tầu ngầm diezen ở Pheodosia. Những tầu ngầm đầu tiên được trang bị loại ngư lôi này là 945 Barrakuda, 671RTM Shouka, 885 Yashen.
Người phương Tây không quan tâm lắm đến việc chế tạo loại vũ khí mới này và cho rằng việc chế tạo là không cân thiết. Tầu ngầm Nga lúc đó gây tiếng ồn rất lớn và không thể tiến gần đến tầu địch được, Shkval đa giải quyết điểm yếu này. Shkval có thể tấn công tầu địch từ khoảng cách rất xa. Người Mỹ sử dụng các nhà khoa học phát xít Đức từ những năm 50 đã chế tạo tên lửa – ngư lôi với vận tốc lên tới 70m/s nhưng sau đó đã hủy bỏ kế hoạch này, hải quân Mỹ tập trung vào việc phát triển tốc độ và khả năng cơ động của tầu nổi, nhưng để đánh lừa đối phương, người Mỹ tuyên bố đã chế tạo được tên lửa ngư lôi siêu tốc 150m/s. Điều đó làm các nhà khoa học Xô viết lo lắng, và họ phát triển mạnh tên lửa – ngư lôi phóng trong túi bọt. và điều đó đã có lợi vô tình cho lực lượng hải quân Xô viết, các thiết bị trinh sát hiện đại dễ dàng phát hiện các cụm tầu chiến và chẳng có cách nào dấu được những đoàn chiến hạm khổng lồ. Shkval hoàn toàn là loại tên lửa – ngư lôi sát thủ. VA-111 không có đầu dẫn chủ động và cũng không có thiết bị tự dẫn. Không có loại tín hiệu radio nào thoát ra khỏi túi bọt khí bao bọc quanh nó. Ngư lôi tự động di chuyển theo tuyến đường đã được lập trình trên máy tính đầu đạn, không bị ảnh hưởng bởi nhiễu điện từ trường, tên lửa – ngư lôi đi theo tọa độ đã định không thay đổi. Sự xuất hiện của những tầu ngầm im lặng, có tốc độ cao làm thay đổi những quan điểm tác chiến kiểu mèo vờn chuôt, Chiến thuật dưới biển sâu trở thành mô hình tác chiến của các máy bay hiện đại, và tên lửa – ngư lôi là đòn tấn công chết người. Nhưng đến tận ngày nay, loại tên lửa – ngư lôi đó, người Mỹ chưa đưa vào biên chế.
Báo chí cho rằng: trong lĩnh vực này, người Mỹ đã chậm chân rất xa, nhưng thực tế không hẳn như vậy, các nhà khoa học Mỹ đã đạt được tốc độ dưới nước lên tới 1549m/s, vượt tốc độ âm thanh dưới nước. Nhưng từ thí nghiệm đến thực tế chế tạo còn rất xa, vì thế, các tình báo công nghiệp quốc phòng đã hoạt động hết sức sôi động, nhưng rõ ràng, các nhà khoa học và các chuyên gia đã giúp họ rất nhiều. Trên mạng Internet, người ta có thể tìm thấy rất nhiều các tài liệu về Shkval, nhưng có những chi tiết kỹ thuật chưa hề được công bố, và sẽ vô cùng khó khăn tạo ra được một sản phẩm tương đương, dù sao, các nhà khoa học quân sự cũng đã thông báo khá nhiều về những tiến bộ của Shkval, ví dụ như khoảng 4 năm trước tạp chí Military Parade công bố về một loại siêu ngư lôi có thể nhẩy lên khỏi mặt nước và tấn công tầu từ phía trên. Cùng thời gian đó, ITAR-TASS thông báo Hải quân Nga sẽ thử nghiệm loại tên lửa – ngư lôi VA-111 nâng cấp. và ngài Pop đã đuổi theo một thiết kế từ thời Xô viết?! Dù sao đi nữa, thì VA-111 vẫn chưa hề có một loại vũ khí tương đương.
- Trọng lượng : 2700kg.
- Đường kính : 533,4mm.
- Dài : 8200mm.
- Tầm bắn : 7-12km (có tài liệu nói tầm bắn tối đa 10km).
- Tốc độ : 90-100m/s.
- Góc ngoặt sau loạt phóng: ± 20o.
- Độ sâu hải trình : 6m.
- Loại đầu đạn : Nổ phá (Thuốc nổ TNT)
- Trọng lượng chất nổ : 210kg.
- Mang đầu đạn hạt nhân: Đương lượng nổ 15-18KT (Mẫu sản xuất 1978).
- Các tầu được trang bị : chiến hạm, tầu ngầm.
- Độ sâu trong nước có thể phóng : 30m.
Đầu đạn lửa dưới đáy nước.
Điểm đặc biệt của siêu tên lửa, đó là tốc độ. Tốc độ của Shkval và các ngư lôi thông thường khác nhau tương tự như xe đua công thức 1 và xe Ford-T, tốc độ tối đa của nó rất lớn, thông thường ngư lôi có tốc độ khoảng 60 đến 70 hải lý/giờ, nhưng Shkval có tốc độ đến 200 hải lý (370km/giờ) đạt kỷ lục tuyệt đối trong nước biển. Để đạt được và duy trì một tốc độ lớn như vậy cần phải có một lực đẩy rất lớn, lực đẩy này không thể sử dụng được bằng động cơ thông thường với cái chân vịt, do đó, động cơ của tên lửa – ngư lôi được sử dụng độ cơ tăng tốc phản lực, với lực đẩy lên đến hàng chục tấn, nó sẽ đẩy ngư lôi sau khi phóng khoảng 4s, và sẽ tách ra khỏi ngư lôi, sau đó là động cơ hành trình của ngư lôi, cũng là động cơ phản lực sử dụng nhiên liệu rắn bao gồm nhôm, ma giê, li ti, hoạt động cháy nhờ phản ứng hóa học với nước biển.
-Động cơ tên lửa sử dụng nhiên liệu rắn.
-Dụng cụ đo lường quán tính.
-Tự động lái.
-Mũi tên lửa ngư lôi được bịt kim loại hình chóp elip.
Bao gồm các bộ phận chính:
- Họng xả động cơ hành trình
- Họng xả động cơ phóng gia tốc
- Buồng đốt (động cơ) thuốc phóng rắn
- Động cơ hành trình thuỷ phản lực
- Đầu nổ
- Bộ lái hướng bằng cách nghiêng đĩa tạo khoang có ống thu nước cho động cơ hành trình thuỷ phản lực
- Lỗ phun khí tạo khoang
- Máy tạo khí
- Cổng nhập tham số điều khiển định trước
Nhưng ngay cả động cơ phản lực cũng không thể tạo được vận tốc lớn như vậy, điều thú vị của Shkval là ở hiệu ứng siêu khoang bọt. Ngư lôi hoàn toàn không bơi, mà bay trong đám bọt khí mà tên lửa ngư lôi tự tạo ra.
Siêu khoang hoạt động thế nào.
Phần đầu của tên lửa – ngư lôi được đặt một thiết bị đặc biệt, máy tạo khoang bọt khí. Đó là một miếng kim loại dầy có hình elip được mài sắc cạnh. Thiết bị tạo bọt có góc nghiêng với trục của ngư lôi, trên mặt cắt ngang có hình tròn, để tạo góc nâng cho tên lửa - ngư lôi. Phía đuôi lực nâng được tạo ra bởi cánh đuôi. Khi đạt tốc độ đến 80m/s ở sát cạnh của tấm tạo bọt, khí đạt cường độ cao đến mức tạo thành bọt khí khổng lồ bao trùm toàn bộ ngư lôi, do đó lực cản thủy năng giảm xuống rõ rệt. Nhưng trên thực tế, một thiết bị tạo bọt không đủ, do đó trên đầu của tên lửa – ngư lôi có những lỗ-ống dẫn khí tạo bọt, bọt khí được tạo ra bởi một máy nguồn tăng khí ga. Điều đó cho phép tăng khối bọt khí và và quả bong bóng bao chùm toàn bộ thân của tên lửa – ngư lôi. Từ mũi đến động cơ phản lực đuôi tên lửa.
Điểm yếu của tên lửa ngư lôi siêu khoang
Ngư lôi không có mối liên lạc 2 chiều, tín hiệu radio dưới nước không xuyên qua được bong bóng siêu khoang. Tên lửa – ngư lôi được lập trình trước thời điểm phóng, thông số của tọa độ mục tiêu được nạp vào máy tính đầu đạn. Đương nhiên là tính cả tọa độ di chuyển của mục tiêu. Shkval không thể quay được, hệ thống ổn định tên lửa buộc nó phải đi theo đường thẳng, sự thay đổi độ lệch sẽ được điều khiển bằng bánh lái, gần chạm nhẹ vào bọt khí, nếu có thay đổi hơn thì ngư lôi sẽ lệch hướng và phá hỏng bọt khí.Tên lửa không thể ngụy trang được, nó được phóng ra với tốc độ rất cao và tạo ra tiếng rít rất mạnh, bọt khí nổi lên trên mặt nước tạo thành đường bọt rất rõ, chuyển động với vận tốc cực nhanh.
Sát thủ tầu sân bay và tuần dương
Người Mỹ gọi Shkval là sát thủ tầu sân bay và tuần dương. Và đó cũng là nhiệm vụ chủ yếu của tên lửa – ngư lôi Shkval VA-111. Nó có thể diệt 1 tầu sân bay hoặc một cụm tầu sân bay nếu như được lắp đầu đạn hạt nhân. Thoát khỏi hoặc tự vệ chống lại Shkval hoàn toàn không thể, trong vòng 100s tên lửa-ngư lôi bay đến mục tiêu. Không có một tầu tuần dương hoặc một tầu ngầm nào có khả năng quay vòng hoặc né tránh, giảm tốc độ hay khởi động ngư lôi đánh chặn, trong trường hợp có độ lệch thì sai số của ngư lôi là 15 đến 20 m, nhưng với đương lượng thuốc nổ mạnh 210 kg có trong đầu đạn, đặc biệt khi bị tấn công bằng 2 đầu đạn song song, chiến hạm được coi là kết thúc.
Phiên bản nâng cấp của " Gió giật/ Shkval " là " Gió giật-15/Shkval-15" và " Gió giật-15B/ Shkval -15Б". Chưa có thông số chính xác về kỹ chiến thuật. Nhưng có thể nói, từ những giải pháp kỹ thuật cực kỳ đơn giản và tin cậy, từ những năm 60x. Shkval đã có một tốc độ và khả năng tác chiến đáng sợ, với khả năng nâng cấp và cải tiến vô cùng, siêu ngư lôi có thể có được những tính năng thế nào, mong các bạn tưởng tượng.
Tên Lửa Chống Hạm Ấn Độ
BrahMos là từ viết tắt của Brahmaputra (một con sông ở Ấn Độ) và Moscow. Một dự án tên lửa hợp tác giữa Nga và Ấn Độ, tốc độ tối đa lên tới 2.7 Mach, tầm bắn 300 km nên được rất nhiều nước quan tâm. Giám đốc điều hành hãng Hàng không Vũ trụ BrahMos, Sivathanu Pillai tuyên bố, công ty BrahMos Eurospace đang tiếp tục công việc chế tạo những phiên bản tên lửa có cánh siêu âm trên không và trên biển.
Tính đến thời điểm này, đã có 2 phiên bản tên lửa có cánh BrahMos đầu tiên phóng từ trên mặt đất và trên biển được tiếp nhận làm vũ khí.
Phương bản bệ phóng di động trên mặt đất của tổ hợp tên lửa BrahMos được chế tạo dựa trên khung gầm Tatra với công thức sắp xếp trục bánh xe 12×12. Trên mỗi một khung gầm có lắp đặt 3 bệ phóng tên lửa, máy phát điện và trung tâm điều khiển. Việc phóng cả ba tên lửa vào những mục tiêu khác nhau có thể thực hiện trong thời gian là 5 giây.
Tổ hợp tên lửa trên biển đầu tiên được đặt trên tàu khu trục Radgput của Lực lượng Hải quân Ấn Độ. Bộ tư lệnh Hải quân Ấn Độ có kế hoạch trang bị tên lửa BrahMos cho 8 chiếc tàu chiến. Tên lửa có cánh phóng từ biển có thể bay cao từ 10-15 km so với mực nước biển. Vận tốc của tên lửa ở độ cao thấp nhất là 2Mach, ở độ cao trên 7 km – 2,7Mach. Tên lửa có bệ phóng trên tàu có thể được phóng lên ngay cả trong điều kiện biển có sóng.
Căn cứ vào tuyên bố của ông Pillai, công ty còn có kế hoạch hoàn tất việc chế tạo tên lửa có cánh BrahMos trên không trước năm 2009. Tên lửa có cánh mới sẽ được sử dụng trên máy bay chiến đấu Su-30MKI của Lực lượng Không quân Ấn Độ. Phiên bản bệ phóng trên không không đòi hỏi phải có bệ phóng. Việc khởi động bộ phận tăng tốc của tên lửa được thực hiện trong vòng một vài giây sau khi ném tên lửa cách máy bay gần 100 m.
Việc chế tạo phiên bản tên lửa có cánh trên biển đang được thực hiện trong sự hỗ trợ chặt chẽ với Lực lượng Hải quân Ấn Độ.
Trọng lượng của tên lửa có cánh siêu âm BrahMos đạt 4 tấn, chiều dài – 8 m, đường kính – 70 cm. Tầm xa tối đa – 300 km, khối lượng tối đa của bộ phận chiến đấu – 500 kg. 2 tham số cuối cùng bị hạn chế bởi luật kiểm tra quốc tế hiện hành trong lĩnh vực vũ khí tên lửa. Tên lửa có sử dụng động cơ hai cấp. Tên lửa được trang bị hệ thống dẫn đường quán tính với ba đồng con quay và 3 gia tốc kế. Tên lửa được bổ sung 2 loại bộ phận chiến đấu. Bộ phận đầu tiên có kíp nổ tiếp xúc, bộ phận thứ hai – bộ giảm tốc mili-giây đảm bảo làm nổ tên lửa sau khi xuyên vào khoảng trống bên trong mục tiêu. Những hệ thống điện tử của BrahMos không bị nhiễu âm và có thể nhận ra những mục tiêu ảo. Kì hạn bảo quản tên lửa là 10 năm và cần phải tiến hành bảo dưỡng định kì 3 năm một lần.
Thông số:
Tầm bắn : 290 km
Tốc độ 2,8 lần tốc độ âm thanh ( gấp 3 lần tốc độ của tên lửa Tomahawk của Mĩ), là tên lửa hành trình có tốc độ nhanh nhất thế giới.
Đầu đạn: nặng 200-300 kg.
Độ chính xác : rất cao, hàng đầu thế giới .
Giá 1 quả: 2 triệu USD.
Có thể phóng đi từ máy bay, tàu chiến, tàu ngầm, hoặc đặt trên bệ phóng.
PS: BrahMos-2 bắn thử vào năm 2017
Nguyên mẫu tên lửa hành trình chống hạm siêu âm BrahMos-2 sẽ sẵn sàng bắn thử nghiệm vào năm 2017.
Gần đây, Nga - Ấn Độ đồng ý phát triển tên lửa siêu âm BrahMos 2 có khả năng đạt vận tốc tối đa Mach 5 – Mach 7.
>> Brahmos sắp có biến thể 'thần kỳ'
“Tôi nghĩ chúng ta cần 5 năm để phát triển mẫu đầu tiên đầy đủ chức năng của tên lửa hành trình siêu vượt âm,” ông Pillar cho biết.
Ông này cho biết thêm, BrahMos-2 gồm ba biến thể: phóng từ mặt đất, từ trên không và trên biển. Tên lửa mới sẽ chỉ cung cấp cho Nga - Ấn Độ mà không xuất khẩu.
Năm 1998, Nga - Ấn Độ cùng thành lập liên doanh thiết kế sản xuất tên lửa hành trình chống hạm siêu âm BrahMos dựa trên loại 3M55 Yakhont do NPO Mashinostroyenie (Nga) phát triển.
BrahMos có tầm bắn tối đa 290km, mang đầu đạn thuốc nổ mạnh nặng 300kg, có thể tiêu diệt mục tiêu ở độ cao cực thấp (10m) và tốc độ hành trình tối đa Mach 2,8, gấp 3 lần vận tốc tên lửa Tomahawk.
Biến thể phóng trên biển và đất liền của BrahMos đã thử nghiệm thành công và đi vào phục vụ trong Quân đội Ấn Độ. Các cuộc thử nghiệm biến thể phóng từ máy bay dự kiến hoàn thành vào cuối năm 2012 (>> chi tiết).
Không quân Ấn Độ đang lên kế hoạch trang bị cho 40 tiêm kích đa năng Su-30MKI tên lửa BrahMos.
Tên Lửa Chống Hạm Nga
P-270 Moskit
Họ tên lửa mới do Raduga phát triển được đặt tên là 3M80 Moskit (NATO gọi là SS-N-22 Sunburn). Họ tên lửa này còn được Nga đặt ký hiệu P-270. Đây là họ tên lửa được thiết kế với nhiều tính năng hiện đại, vượt trội so với họ tên lửa Harpoon của Mỹ.
Moskit được xem là tên lửa chống hạm không có đối thủ của Nga
Là tên lửa chống hạm có tốc độ cao nhất hiện nay, các hệ thống phòng vệ trên tàu đối phương
gặp nhiều khó khăn khi bị Moskit tấn công
Công tác nghiên cứu và thiết kế Moskit được bắt đầu từ năm 1973-1981, biến thể 3M80/P-80 đầu tiên được đưa vào sử dụng trong quân đội Nga có tầm bắn 93km.
Năm 1984, phiên bản 3M80M/P-80M (3M80E để xuất khẩu) ra đời với tầm bắn 120km. Biến thể cuối cùng 3M82 Moskit-M/P-270 có tầm bắn xa hơn - từ 150-160km, được phóng từ ống phóng KT-190M. Toàn bộ các đời tên lửa Moskit đều được sản xuất tại Nhà máy Tiến bộ AKK tại vùng Arsenyev.
Đánh chặn Moskit là vô cùng khó khăn
Moskit được trang bị cánh đuôi hình chữ thập, động cơ hành trình phản lực nhiên liệu lỏng, động cơ khởi tốc phản lực nhiên liệu rắn. Tên lửa có chiều dài 9,745m, trọng lượng 4.500 kg, có thể mang đầu đạn thông thường nặng 320kg hoặc đầu đạn hạt nhân 120kT.
Moskit được trang bị hệ dẫn radar 2 chế độ (thụ động và chủ động) thế hệ mới của hãng GosNPO Altair, có khả năng đối phó tốt với hệ thống phòng thủ tên lửa của đối phương.
Moskit tấn công đối phương với độ chính cao và sức mạnh hỏa lực kinh hoàng.
Trên ảnh là cảnh một quả Moskit được phóng từ tàu khu trục lớp Sovremenny.
Trong các loại tên lửa chống hạm hiện nay trên thế giới, Moskit là tên lửa có tốc độ bay lớn nhất, gấp 3 lần tốc độ của tên lửa Harpoon (Mỹ). Moskit đạt tốc độ 3M khi bay ở độ cao lớn và 2,2M khi bay sát mặt biển.
Sau khi được phóng đi, Moskit chỉ cần 2 phút để bay tới mục tiêu và chỉ cần từ 1-2 tên lửa để đánh chìm một tàu hàng trọng tải 20.000 tấn. Từ khoảng cách 10km đến mục tiêu, tên lửa chỉ cần 20 giây là chạm mục tiêu, do đó đối phương ít có cơ hội chống đỡ. Ngoài ra, khi tiếp cận mục tiêu, đầu tìm radar chuyển sang chế độ thụ động, cho phép tên lửa phát hiện các nguồn gây nhiễu, đồng thời truyền toàn bộ các thông tin này về trung tâm chỉ huy bắn. Chính nhờ tính năng này và một số tính năng khác, hệ dẫn của Moskit đối phó rất hiệu quả với các hệ thống gây nhiễu điện tử của đối phương.
So với tên lửa Exocet của Pháp, việc gây nhiễu và triển khai tên lửa và pháo đánh chặn Moskit là vô cùng khó khăn. Vì thời gian cần thiết để hệ thống phòng thủ tên lửa trên tàu kích hoạt đối phó hiệu quả với Exocet là khoảng từ 120-150 giây. Trong khi đó, đối phương chỉ có từ 30 giây để đối phó với Moskit.
Hiện, Mỹ triển khai nghiên cứu một hệ thống tên lửa có khả năng đánh chặn Moskit, tuy nhiên, đến nay, hệ thống mới vẫn chưa được đưa vào trang bị cho hải quân Mỹ.
Moskit được trang bị cho tàu khu trục lớp Sovremenny, với cơ số 8 quả.
Ảnh là một chiếc tàu khu trục Sovremenny của hải quân Nga.
Các thế hệ tên lửa 3M80 và 3M80M được trang bị cho tàu khu trục lớp Sovremenny, còn 3M82 được trang bị cho các tàu khu trục và tàu tên lửa thế hệ sau.
Trong các thập niên 1980-1990, hải quân Liên Xô và Nga đã đóng thêm tổng cộng 34 tàu tên lửa thuộc lớp Molnya-M, trong đó 28 tàu đang phục vụ trong hải quân Nga. Mỗi tàu Molnya-M được trang bị 2 bệ phóng x 2 quả Moskit cùng hệ thống radar điều khiển bắn hai chế độ (chủ động/thụ động).
Tổng cộng có 18 tàu khu trục của hải quân Nga được trang bị tên lửa Moskit. Mỗi tàu khu trục được trang bị 8 quả Moskit. Trung Quốc cũng đã đóng 2 tàu chiến trang bị hệ thống 3M80E và đưa vào trang bị trong năm 2000 và 2001 .
Tàu đệm khí hộ vệ tên lửa lớp Bora được trang bị 8 quả 3M80 Moskit
Thế hệ tàu chiến mới nhất được trang bị 3M80 Moskit là lớp Bora/Dergach. Mỗi chiếc Bora được trang bị 8 ống phóng, giống như tàu khu trục Sovremenny. Theo các chuyên gia, 3M80/82 Moskit là một trong những họ tên lửa chống hạm thành công nhất của Nga. Moskit có thể tấn công hiệu quả các loại tàu chiến lớn, nhỏ, các cụm tàu đổ bộ và đặc biệt là tàu sân bay.
Kh-41 là biến thể tên lửa không-đối-hạm trang bị cho các máy bay Su-27, Su-30 và Su-33.
Một quả Kh-41 đặt dưới bụng máy bay Su-27K.
Ngoài biến thể trang bị cho tàu chiến, Nga còn chế tạo biến thể Moskit trang bị cho lực lượng không quân hải quân có tên gọi Kh-41 để lắp trên các máy bay Su-27K, Su-30 và Su-33. Kh-41 sử dụng động cơ phản lực 2 chế độ, hoạt động giống như tên lửa Kh-31. Tên lửa Kh-41 được treo dưới thân máy bay với các cánh tên lửa được gập lại.
Khi được phóng khỏi máy bay, tên lửa tự bay đến mục tiêu, có thể có sự can thiệp của phi công. Khi đến gần mục tiêu, đầu tìm radar chủ động được kích hoạt giúp phi công xác định chính xácvà tiêu diệt mục tiêu.
P-700 Granit
Không thỏa mãn với khả năng tấn công của các thế hệ tên lửa trước đó, vào giữa thập kỷ 1970, Liên Xô tiếp tục yêu cầu các nhà thiết kế vũ khí nghiên cứu loại tên lửa chống hạm có tên SS-N-19 (NATO gọi là Shipwreck) với khả năng hỏa lực mạnh và xác định đây là vũ khí số một nhằm trang bị cho các tàu chiến cỡ lớp, các tàu sân bay và tàu ngầm tên lửa.
Shipwreck được thiết kế nhằm chống lại các mục tiêu là các tàu sân bay, các hạm đội lớn của đối phương. SS-N-19 có tên thiết kế là Chelomey P-700 Granit, 3M45, kích thước 0,96x10,2 m, sải cánh rộng 3,2 m, hoạt động trong phạm vi 450 km với vận tốc tối đa lên tới 1,7M (gấp 1,7 lần vận tốc âm thanh).
Thân tên lửa P-700 được thiết kế để có thể chịu được vận tốc siêu âm ở độ cao thấp. P-700 sử dụng động cơ tua bin phản lực nhiên liệu lỏng hoặc động cơ phản lực thẳng dòng.
P-700 có trọng lượng lên tới 4.350 kg, có thể sử dụng đầu đạn thường, nặng 750 kg hoặc đầu đạn hạt nhân với sức công phá lên tới 500KT.
Vị trí bố trí tên lửa Shipwreck trên tàu khu trục tên lửa lớp Kirov của Nga P-700 được trang bị hệ thống điều khiển bắn hiện đại với hàng loạt cải tiến. Hệ thống dẫn đường, kiểm soát mục tiêu hoạt động thông qua nhiều cảm biến, cho phép hệ thống có thể tự động lựa chọn các mục tiêu.
Tính năng mới này nhằm mục đích thực hiện các cuộc tấn công vào các hải đội của đối phương và lựa chọn mục tiêu có giá trị nhất để tiêu diệt.
Radar dẫn đường được đặt ở phía mũi của tên lửa. Trong quá trình hành trình tìm mục tiêu, radar của tên lửa hoạt động ở chế độ chủ động trên dải băng tần X. Khi tên lửa tiến gần đến mục tiêu, rada chủ động chuyển sang hoạt động ở dải băng tần Ku.
Shipwreck được trang bị hàng loạt cho các tàu chiến lớp Oscar.
Ảnh là một chiếc tàu chiến lớp Oscar. P-700 được trang bị hàng loạt cho các tàu ngầm thuộc lớp Oscar. Mỗi tàu ngầm có 20 ống phóng chứa tên lửa, được đặt nghiêng một góc 47 độ. Trước khi tên lửa được phóng ra khỏi ống, ống phóng sẽ được nước tràn ngập.
P-800 Yakhont
Phát triển từ năm 1983, trang bị cho hải quân Nga vào năm 1999 và cho đến năm 2001, P-800 đã được triển khai trên nhiều phương tiện khác nhau, bao gồm cả trên biển, trên không và đất liền.
SS-N-26 là tên lửa chiến thuật tầm trung, được trang bị cho cả máy bay, tàu chiến và trên xe ô tô. Ảnh là một chiếc Su-33 được trang bị Yakhont. Trong vài năm gần đây, Nga bán bản quyền hợp tác sản xuất P-800 cho Ấn Độ dưới tên là Brahmos A và Brahmos S. Trung Quốc đang đàm phán với Nga để mua dây chuyền sản xuất phiên bản 3M-55 nhằm trang bị cho nhiều tàu chiến trong hải quân Trung Quốc.
Về mặt thiết kế, P-800 giống tên lửa chống hạm Moskit (SS-N-22) và P-700 Granit. P-800 có kích thước 8,9 x 0,9 (m), trọng lượng 3 tấn, đầu đạn nặng 250 kg, sải cánh rộng 1,7 m, sử dụng động cơ đẩy phản lực thẳng, nhiên liệu lỏng, hoạt động trong phạm vi từ 120 - 300 km tùy theo độ cao và hành trình với vận tốc 2,5 M.
So với các tên lửa đối hải thế hệ trước, hành trình của P-800 đặc biệt hơn. Ngay khi rời bệ phóng P-800 bay vút lên cao, hành trình gần tới mục tiêu thì dần dần hạ thấp độ cao. Khoảng cách tới mục tiêu khi tên lửa hạ thấp có thể được lập trình từ trước.
Việc kiểm soát độ cao của tên lửa được thực hiện nhờ radar KTRV-Deltal K313, cho phép tên lửa có thể hoạt động tại độ cao từ 1.000 m đến 5000 m.
Hệ thống dò mục tiêu Granit - Elektron được trang bị cho Yakhont của Nga và Brahmos của Ấn độ. P-800 sử dụng hệ thống dò tìm mục tiêu Granit – Elektron. Đây là một trong những hệ thống rò tìm mục tiêu kỹ thuật số hiện đại nhất của Nga cho đến ngày nay. Radar có thể hoạt động ở hai trạng thái: chủ động và thụ động.
Trong chế độ chủ động, radar hoạt động ở giải băng tần rộng với điều biến phổ tần ngẫu nhiên, có thể xác định mục tiêu cách 50km. Khi tên lửa phát hiện mục tiêu và lại gần ở khoảng cách 25 - 30 km, tên lửa tắt mọi liên lạc với hệ thống và chỉ sử dụng radar ở trạng thái thụ động.
Nhờ công nghệ hiện đại, P-800 có thể chống lại hiệu quả hệ thống gây nhiễu của đối phương, đồng thời cho phép hoạt động trong điều kiện biển động cấp 7.
Hệ thống phòng thủ bờ biển Bastion sử xe MZKT-7930 TEL, mỗi xe mang theo ba quả tên lửa. Hệ thống phòng thủ bờ biển sử dụng tên lửa P-800 được đặt tên là hệ thống phòng thủ Bastion. Đây là một hệ thống phòng thủ bờ biển di động, sử dụng xe MZKT-7930 TEL, trọng tải 41 tấn, mỗi xe mang theo ba quả tên lửa, hoạt động trong đội hình bao gồm các xe mang tên lửa, xe chỉ huy, hệ thống radar truyền tiếp thông tin.
P-900 Klub/Club
Đa năng, mạnh mẽ, độc đáo và thiên biến vạn hóa, Club-M và Club-K có thể thay đổi hoàn toàn các nguyên tắc tiến hành chiến tranh hiện đại và làm rung chuyển các nền tảng của thương mại quốc tế
Một hệ thống tên lửa bờ biển cơ động siêu hiện đại nữa của Nga là Kalibr-M (ký hiệu xuất khẩu là Club-M). Hệ thống dùng để phòng thủ chống hạm và tăng cường bảo vệ các mục tiêu ven biển, tiêu diệt các loại mục tiêu tĩnh và ít cơ động trên mặt đất bất kể ngày đêm và thời tiết.
3M-54E (SS-N-27 Sizzler) mang phần chiến đấu 200 kg, dùng để tiêu diệt tàu nổi các loại (tàu tuần dương, khu trục, đổ bộ, vận tải, tàu tên lửa cỡ nhỏ…) đơn lẻ hay trong đội hình tốp. Phần lớn đường bay, tên lửa bay với tốc độ dưới âm, khi cách mục tiêu 20 km, tên lửa đột ngột tăng tốc lên tốc độ khủng khiếp 2,9M khiến phòng không tàu địch cực kỳ khó chặn đánh. Biến thể 3М54E1 có phần chiến đấu nặng gấp đôi (400 kg) và tầm bắn xa hơn (300 km).
Tên lửa tấn công mặt đất 3M-14E bay bám địa hình, sử dụng hệ dẫn vệ tinh GLONASS hay GPS chính xác cao và đầu tự dẫn radar chủ động, dùng để tiêu diệt các mục tiêu quân sự, hành chính, kinh tế cố định như hạ tầng công nghiệp, trung tâm phát thanh-truyền hình, các sở chỉ huy, sân bay... trên lãnh thổ đối phương.

[QPAN] Ngư lôi - Tên lửa siêu khoang bọt Shkval VA-111
Hàng loạt những bộ phim chiến đấu của Hollywood đã cho người xem có cảm giác nghệ thuật tác chiến dưới đáy biển giống như một ván cờ không vội vàng và rất trí tuệ của những chuyên gia chiến thuật Hải quân Mỹ. Nhưng những khái niệm của chiến thuật tầu ngầm đã có những thay đổi khá lâu, bằng một vũ khí bí mật.
Vấn đề là, vào cuối những năm 1970x. Lực lượng tầu ngầm Hải quân Xô viết đã được trang bị một loại vũ khí, mà nếu so nghệ thuật tác chiến của nó với các loại ngư lôi thông thường và kỹ thuật tác chiến thông thường khấp khiễng như so sánh cung tên thời Robin Hood với súng trường tự động lắp ống kính quang học loại Reminton.
Nhưng điều được nhớ lại về vũ khí bí mật (ngư lôi-tên lửa) được báo chí gây lên một vụ scandan khá ồn ào xung quanh vụ gián điệp công nghệ quân sự. Công dân Mỹ Edmund Pop năm 1969 ra nhập Hải quân Mỹ, sau 25 năm phục vụ ông nghỉ hưu với quân hàm đại úy. Sau đó ông trở thành cố vấn bộ phận khoa học của trường An ninh thuộc bộ Hải Quân Mỹ. Năm 2000 ông bị bắt tại Tp: Niznovgrog vì cố gắng lấy cắp bản thiết kế công nghệ sản xuất siêu Tên lửa-Ngư lôi " Gió giật/Shkval". Cùng năm E.Pop bị xét xử tại Moscow và bị kết án 20 năm tù, sau này Tổng thống Putin đã ký lệnh ân xá cho Pop. Nhưng thực tế đến thời điểm này, ngư lôi Shkval VA-111 không phải là loại vũ khí siêu bí mật, Trung Quốc có tới 40 đầu đạn được mua từ Kazakhstan (theo thực tế là mua lại của Ucraina) Iran cũng công bố thử nghiệm thành ngư lôi loại này. Và loại tên lửa ngư lôi này đã được trưng bầy nhiều lần tại các triển lãm quân sự Abu Dhabi và Nga sẵn sàng bán loại ngư lôi này.


Tên lửa có thể làm tất cả
Shkval không phải là vũ khí loại mới. Ngư lôi siêu khoang được bắt đầu nghiên cứu phát triển vào những năm 60x. Thời gian này, mọi sự quan tâm đều được đặt vào tên lửa, dường như tên lửa sẽ bảo vệ vững chắc Liên bang Xô viết. Mọi loại vũ khí đều giảm bớt, nhưng tên lửa thì phát triển vô cùng mạnh mẽ. Tên lửa được phát triển mạnh mẽ ở khắp mọi không gian chiến trường. các đơn vị tên lửa được xây dựng trên sa mạc, trong rừng taiga, trên những vùng đất băng giá, trên không trung và vũ trụ. Nhưng tên lửa chưa có ở dưới nước, và các sỹ quan quân đội Xô viết quyết định, phải có tên lửa dưới biển. Nghị quyết của Hội đồng bộ trưởng СССР № 111-463 ngày 13 tháng 10 năm 1960 đặt nhiệm vụ cho các nhà khoa học phải chế tạo tên lửa dưới nước. Tên lửa có tính năng đa dụng, là ngư lôi để tiêu diệt các tầu ngầm và tầu nổi, hoặc là phương tiện mang đầu đạn hạt nhân đến bờ biển của đối phương. Các loại vũ khí hạt nhân thời điểm đó có sức công phá khủng khiếp, nhưng phương tiện mang không có. Tên lửa ngầm chính là phương tiên, nó thực sự vô cùng khó đối phó, rất khó phát hiện, các phương tiện phòng không chống tên lửa của Ronal Rigan không có giá trị với loại tên lửa này.

Thiết kế tên lửa ngư lôi được phê chuẩn vào năm 1963. Loại tên lửa ngư lôi này có một tốc độ không thể tưởng tượng nổi 100m/s và tất cả các ngư lôi khác chậm hơn nó đến 3 lần. Tháng 5/1966 mô hình tên lửa-ngư lôi đã được đưa lên tầu ngầm Diezel S-65 và tiến hành phóng thử nghiệm tại khu vực Pheodosia (gần bán đảo Crym-Ukraina). Mẫu thử nghiệm tên lửa-ngư lôi có mã hiệu M-4. Do mẫu thiết kế M-4 tồn tại 1 số nhược điểm nên chương trình bị dừng lại đến năm 1972. Nhưng ngay sau đó mô hình M-5 đã khắc phục được hầu hết các nhược điểm của M-4 và có nhiều tính năng vượt trội. Ngày 29/11/1977 quyết định của Hội Đồng Bộ Trưởng Liên Xô đưa tổ hợp chống ngầm " Gió giật/Shkval" với Ngư lôi M-5 vào trang bị cho Hải Quân Liên xô, tổ hợp nhận được mã hiệu VA-111.
Bản thiết kế ra Tên lửa - Ngư lôi " Gió giật/Shkval" không chỉ là vấn đề tìm ra lý thuyết có một không hai về giải pháp chế tạo cho Tên lửa-Ngư lôi chuyển động trong túi khí bao quanh. Mà còn là việc tạo ra động cơ tên lửa hiệu suất cao sử dụng năng lượng an toàn. Thành quả được tạo ra bởi nhóm viện sĩ nghiêm cứu chuyên sâu dưới sự lãnh đạo của các viện sĩ Hàn lâm khoa học Liên Xô Nicholas Silin, Vladimir Eugene Shahidzhanov và Ivashkov.
Trọng lượng hỗn hợp của Tên lửa-Ngư lôi đã không hề dễ dàng chuyển động trong nước với tốc độ từ trước tới nay trên thế giới chưa từng có 200 hải lý/giờ. Hơn thế nữa Tên lửa-Ngư lôi phải thắng tải thủy năng (hydrodynamic loads) phát sinh trên thân vỏ ngư lôi như xoáy thủy lực, ma sát nước.v.v... . Giám đốc thiết kế ED Rakov đã nghiên cứu các yếu tố, phương pháp trên đề án thiết kế kết hợp với tính toán các yếu tố thực tế.
Cuối cùng thì kết quả nghiêm cứu dựa trên các cơ sở khoa học và thực nghiệm cho phép tạo ra 1 loại Tên lửa-Ngư lôi chuyển động trong nước được bao bởi túi bọt khí khổng lồ, trượt theo tên lửa như lớp da cá. Chương trình phát triển tổ hợp chống ngầm " Gió giật/Shkval" nhận được sự hậu thuẫn của những người uy tín trong Hải quân LX và Viện hàn lâm Khoa học : Đô đốc-Tư lệnh Hải quân Liên Xô S.G Gorshkov , viện sĩ A.P Alexandrov, viện sĩ V.N Trapeznikov và phó đô đốc B.D Kostygov. Phiên bản đầu tiên được thử nghiệm trên bãi thử nghiệm hồ Issyk-Kul, năm sau, mẫu tên lửa – ngư lôi Shkval được thử nghiệm trên tầu ngầm diezen ở Pheodosia. Những tầu ngầm đầu tiên được trang bị loại ngư lôi này là 945 Barrakuda, 671RTM Shouka, 885 Yashen.
Người phương Tây không quan tâm lắm đến việc chế tạo loại vũ khí mới này và cho rằng việc chế tạo là không cân thiết. Tầu ngầm Nga lúc đó gây tiếng ồn rất lớn và không thể tiến gần đến tầu địch được, Shkval đa giải quyết điểm yếu này. Shkval có thể tấn công tầu địch từ khoảng cách rất xa. Người Mỹ sử dụng các nhà khoa học phát xít Đức từ những năm 50 đã chế tạo tên lửa – ngư lôi với vận tốc lên tới 70m/s nhưng sau đó đã hủy bỏ kế hoạch này, hải quân Mỹ tập trung vào việc phát triển tốc độ và khả năng cơ động của tầu nổi, nhưng để đánh lừa đối phương, người Mỹ tuyên bố đã chế tạo được tên lửa ngư lôi siêu tốc 150m/s. Điều đó làm các nhà khoa học Xô viết lo lắng, và họ phát triển mạnh tên lửa – ngư lôi phóng trong túi bọt. và điều đó đã có lợi vô tình cho lực lượng hải quân Xô viết, các thiết bị trinh sát hiện đại dễ dàng phát hiện các cụm tầu chiến và chẳng có cách nào dấu được những đoàn chiến hạm khổng lồ. Shkval hoàn toàn là loại tên lửa – ngư lôi sát thủ. VA-111 không có đầu dẫn chủ động và cũng không có thiết bị tự dẫn. Không có loại tín hiệu radio nào thoát ra khỏi túi bọt khí bao bọc quanh nó. Ngư lôi tự động di chuyển theo tuyến đường đã được lập trình trên máy tính đầu đạn, không bị ảnh hưởng bởi nhiễu điện từ trường, tên lửa – ngư lôi đi theo tọa độ đã định không thay đổi. Sự xuất hiện của những tầu ngầm im lặng, có tốc độ cao làm thay đổi những quan điểm tác chiến kiểu mèo vờn chuôt, Chiến thuật dưới biển sâu trở thành mô hình tác chiến của các máy bay hiện đại, và tên lửa – ngư lôi là đòn tấn công chết người. Nhưng đến tận ngày nay, loại tên lửa – ngư lôi đó, người Mỹ chưa đưa vào biên chế.
Báo chí cho rằng: trong lĩnh vực này, người Mỹ đã chậm chân rất xa, nhưng thực tế không hẳn như vậy, các nhà khoa học Mỹ đã đạt được tốc độ dưới nước lên tới 1549m/s, vượt tốc độ âm thanh dưới nước. Nhưng từ thí nghiệm đến thực tế chế tạo còn rất xa, vì thế, các tình báo công nghiệp quốc phòng đã hoạt động hết sức sôi động, nhưng rõ ràng, các nhà khoa học và các chuyên gia đã giúp họ rất nhiều. Trên mạng Internet, người ta có thể tìm thấy rất nhiều các tài liệu về Shkval, nhưng có những chi tiết kỹ thuật chưa hề được công bố, và sẽ vô cùng khó khăn tạo ra được một sản phẩm tương đương, dù sao, các nhà khoa học quân sự cũng đã thông báo khá nhiều về những tiến bộ của Shkval, ví dụ như khoảng 4 năm trước tạp chí Military Parade công bố về một loại siêu ngư lôi có thể nhẩy lên khỏi mặt nước và tấn công tầu từ phía trên. Cùng thời gian đó, ITAR-TASS thông báo Hải quân Nga sẽ thử nghiệm loại tên lửa – ngư lôi VA-111 nâng cấp. và ngài Pop đã đuổi theo một thiết kế từ thời Xô viết?! Dù sao đi nữa, thì VA-111 vẫn chưa hề có một loại vũ khí tương đương.
- Trọng lượng : 2700kg.
- Đường kính : 533,4mm.
- Dài : 8200mm.
- Tầm bắn : 7-12km (có tài liệu nói tầm bắn tối đa 10km).
- Tốc độ : 90-100m/s.
- Góc ngoặt sau loạt phóng: ± 20o.
- Độ sâu hải trình : 6m.
- Loại đầu đạn : Nổ phá (Thuốc nổ TNT)
- Trọng lượng chất nổ : 210kg.
- Mang đầu đạn hạt nhân: Đương lượng nổ 15-18KT (Mẫu sản xuất 1978).
- Các tầu được trang bị : chiến hạm, tầu ngầm.
- Độ sâu trong nước có thể phóng : 30m.
Đầu đạn lửa dưới đáy nước.
Điểm đặc biệt của siêu tên lửa, đó là tốc độ. Tốc độ của Shkval và các ngư lôi thông thường khác nhau tương tự như xe đua công thức 1 và xe Ford-T, tốc độ tối đa của nó rất lớn, thông thường ngư lôi có tốc độ khoảng 60 đến 70 hải lý/giờ, nhưng Shkval có tốc độ đến 200 hải lý (370km/giờ) đạt kỷ lục tuyệt đối trong nước biển. Để đạt được và duy trì một tốc độ lớn như vậy cần phải có một lực đẩy rất lớn, lực đẩy này không thể sử dụng được bằng động cơ thông thường với cái chân vịt, do đó, động cơ của tên lửa – ngư lôi được sử dụng độ cơ tăng tốc phản lực, với lực đẩy lên đến hàng chục tấn, nó sẽ đẩy ngư lôi sau khi phóng khoảng 4s, và sẽ tách ra khỏi ngư lôi, sau đó là động cơ hành trình của ngư lôi, cũng là động cơ phản lực sử dụng nhiên liệu rắn bao gồm nhôm, ma giê, li ti, hoạt động cháy nhờ phản ứng hóa học với nước biển.
-Động cơ tên lửa sử dụng nhiên liệu rắn.
-Dụng cụ đo lường quán tính.
-Tự động lái.
-Mũi tên lửa ngư lôi được bịt kim loại hình chóp elip.

Sơ lược cấu tạo VA-111
Bao gồm các bộ phận chính:
- Họng xả động cơ hành trình
- Họng xả động cơ phóng gia tốc
- Buồng đốt (động cơ) thuốc phóng rắn
- Động cơ hành trình thuỷ phản lực
- Đầu nổ
- Bộ lái hướng bằng cách nghiêng đĩa tạo khoang có ống thu nước cho động cơ hành trình thuỷ phản lực
- Lỗ phun khí tạo khoang
- Máy tạo khí
- Cổng nhập tham số điều khiển định trước
Nhưng ngay cả động cơ phản lực cũng không thể tạo được vận tốc lớn như vậy, điều thú vị của Shkval là ở hiệu ứng siêu khoang bọt. Ngư lôi hoàn toàn không bơi, mà bay trong đám bọt khí mà tên lửa ngư lôi tự tạo ra.
Siêu khoang hoạt động thế nào.
Phần đầu của tên lửa – ngư lôi được đặt một thiết bị đặc biệt, máy tạo khoang bọt khí. Đó là một miếng kim loại dầy có hình elip được mài sắc cạnh. Thiết bị tạo bọt có góc nghiêng với trục của ngư lôi, trên mặt cắt ngang có hình tròn, để tạo góc nâng cho tên lửa - ngư lôi. Phía đuôi lực nâng được tạo ra bởi cánh đuôi. Khi đạt tốc độ đến 80m/s ở sát cạnh của tấm tạo bọt, khí đạt cường độ cao đến mức tạo thành bọt khí khổng lồ bao trùm toàn bộ ngư lôi, do đó lực cản thủy năng giảm xuống rõ rệt. Nhưng trên thực tế, một thiết bị tạo bọt không đủ, do đó trên đầu của tên lửa – ngư lôi có những lỗ-ống dẫn khí tạo bọt, bọt khí được tạo ra bởi một máy nguồn tăng khí ga. Điều đó cho phép tăng khối bọt khí và và quả bong bóng bao chùm toàn bộ thân của tên lửa – ngư lôi. Từ mũi đến động cơ phản lực đuôi tên lửa.
Điểm yếu của tên lửa ngư lôi siêu khoang
Ngư lôi không có mối liên lạc 2 chiều, tín hiệu radio dưới nước không xuyên qua được bong bóng siêu khoang. Tên lửa – ngư lôi được lập trình trước thời điểm phóng, thông số của tọa độ mục tiêu được nạp vào máy tính đầu đạn. Đương nhiên là tính cả tọa độ di chuyển của mục tiêu. Shkval không thể quay được, hệ thống ổn định tên lửa buộc nó phải đi theo đường thẳng, sự thay đổi độ lệch sẽ được điều khiển bằng bánh lái, gần chạm nhẹ vào bọt khí, nếu có thay đổi hơn thì ngư lôi sẽ lệch hướng và phá hỏng bọt khí.Tên lửa không thể ngụy trang được, nó được phóng ra với tốc độ rất cao và tạo ra tiếng rít rất mạnh, bọt khí nổi lên trên mặt nước tạo thành đường bọt rất rõ, chuyển động với vận tốc cực nhanh.
Sát thủ tầu sân bay và tuần dương
Người Mỹ gọi Shkval là sát thủ tầu sân bay và tuần dương. Và đó cũng là nhiệm vụ chủ yếu của tên lửa – ngư lôi Shkval VA-111. Nó có thể diệt 1 tầu sân bay hoặc một cụm tầu sân bay nếu như được lắp đầu đạn hạt nhân. Thoát khỏi hoặc tự vệ chống lại Shkval hoàn toàn không thể, trong vòng 100s tên lửa-ngư lôi bay đến mục tiêu. Không có một tầu tuần dương hoặc một tầu ngầm nào có khả năng quay vòng hoặc né tránh, giảm tốc độ hay khởi động ngư lôi đánh chặn, trong trường hợp có độ lệch thì sai số của ngư lôi là 15 đến 20 m, nhưng với đương lượng thuốc nổ mạnh 210 kg có trong đầu đạn, đặc biệt khi bị tấn công bằng 2 đầu đạn song song, chiến hạm được coi là kết thúc.

" Gió giật-E/ Shkval -Э" là phiên bản xuất khẩu với đầu đạn nổ mảnh, thuốc nổ TNT.
Phiên bản nâng cấp của " Gió giật/ Shkval " là " Gió giật-15/Shkval-15" và " Gió giật-15B/ Shkval -15Б". Chưa có thông số chính xác về kỹ chiến thuật. Nhưng có thể nói, từ những giải pháp kỹ thuật cực kỳ đơn giản và tin cậy, từ những năm 60x. Shkval đã có một tốc độ và khả năng tác chiến đáng sợ, với khả năng nâng cấp và cải tiến vô cùng, siêu ngư lôi có thể có được những tính năng thế nào, mong các bạn tưởng tượng.

Tên Lửa Chống Hạm Ấn Độ



Tính đến thời điểm này, đã có 2 phiên bản tên lửa có cánh BrahMos đầu tiên phóng từ trên mặt đất và trên biển được tiếp nhận làm vũ khí.
Phương bản bệ phóng di động trên mặt đất của tổ hợp tên lửa BrahMos được chế tạo dựa trên khung gầm Tatra với công thức sắp xếp trục bánh xe 12×12. Trên mỗi một khung gầm có lắp đặt 3 bệ phóng tên lửa, máy phát điện và trung tâm điều khiển. Việc phóng cả ba tên lửa vào những mục tiêu khác nhau có thể thực hiện trong thời gian là 5 giây.
Tổ hợp tên lửa trên biển đầu tiên được đặt trên tàu khu trục Radgput của Lực lượng Hải quân Ấn Độ. Bộ tư lệnh Hải quân Ấn Độ có kế hoạch trang bị tên lửa BrahMos cho 8 chiếc tàu chiến. Tên lửa có cánh phóng từ biển có thể bay cao từ 10-15 km so với mực nước biển. Vận tốc của tên lửa ở độ cao thấp nhất là 2Mach, ở độ cao trên 7 km – 2,7Mach. Tên lửa có bệ phóng trên tàu có thể được phóng lên ngay cả trong điều kiện biển có sóng.
Căn cứ vào tuyên bố của ông Pillai, công ty còn có kế hoạch hoàn tất việc chế tạo tên lửa có cánh BrahMos trên không trước năm 2009. Tên lửa có cánh mới sẽ được sử dụng trên máy bay chiến đấu Su-30MKI của Lực lượng Không quân Ấn Độ. Phiên bản bệ phóng trên không không đòi hỏi phải có bệ phóng. Việc khởi động bộ phận tăng tốc của tên lửa được thực hiện trong vòng một vài giây sau khi ném tên lửa cách máy bay gần 100 m.
Việc chế tạo phiên bản tên lửa có cánh trên biển đang được thực hiện trong sự hỗ trợ chặt chẽ với Lực lượng Hải quân Ấn Độ.
Trọng lượng của tên lửa có cánh siêu âm BrahMos đạt 4 tấn, chiều dài – 8 m, đường kính – 70 cm. Tầm xa tối đa – 300 km, khối lượng tối đa của bộ phận chiến đấu – 500 kg. 2 tham số cuối cùng bị hạn chế bởi luật kiểm tra quốc tế hiện hành trong lĩnh vực vũ khí tên lửa. Tên lửa có sử dụng động cơ hai cấp. Tên lửa được trang bị hệ thống dẫn đường quán tính với ba đồng con quay và 3 gia tốc kế. Tên lửa được bổ sung 2 loại bộ phận chiến đấu. Bộ phận đầu tiên có kíp nổ tiếp xúc, bộ phận thứ hai – bộ giảm tốc mili-giây đảm bảo làm nổ tên lửa sau khi xuyên vào khoảng trống bên trong mục tiêu. Những hệ thống điện tử của BrahMos không bị nhiễu âm và có thể nhận ra những mục tiêu ảo. Kì hạn bảo quản tên lửa là 10 năm và cần phải tiến hành bảo dưỡng định kì 3 năm một lần.
Thông số:
Tầm bắn : 290 km
Tốc độ 2,8 lần tốc độ âm thanh ( gấp 3 lần tốc độ của tên lửa Tomahawk của Mĩ), là tên lửa hành trình có tốc độ nhanh nhất thế giới.
Đầu đạn: nặng 200-300 kg.
Độ chính xác : rất cao, hàng đầu thế giới .
Giá 1 quả: 2 triệu USD.
Có thể phóng đi từ máy bay, tàu chiến, tàu ngầm, hoặc đặt trên bệ phóng.
PS: BrahMos-2 bắn thử vào năm 2017
Nguyên mẫu tên lửa hành trình chống hạm siêu âm BrahMos-2 sẽ sẵn sàng bắn thử nghiệm vào năm 2017.

Sau năm 2017, Nga - Ấn sẽ có siêu tên lửa chống hạm BrahMos 2.
(ĐVO) “Mẫu thử nghiệm của tên lửa hành trình siêu âm BrahMos-2 do Nga - Ấn Độ hợp tác phát triển sẵn sàng bắn thử vào năm 2017", Giám đốc điều hành liên doanh Nga - Ấn Sivathanu Pillai cho biết.Gần đây, Nga - Ấn Độ đồng ý phát triển tên lửa siêu âm BrahMos 2 có khả năng đạt vận tốc tối đa Mach 5 – Mach 7.
>> Brahmos sắp có biến thể 'thần kỳ'
“Tôi nghĩ chúng ta cần 5 năm để phát triển mẫu đầu tiên đầy đủ chức năng của tên lửa hành trình siêu vượt âm,” ông Pillar cho biết.
Ông này cho biết thêm, BrahMos-2 gồm ba biến thể: phóng từ mặt đất, từ trên không và trên biển. Tên lửa mới sẽ chỉ cung cấp cho Nga - Ấn Độ mà không xuất khẩu.
Năm 1998, Nga - Ấn Độ cùng thành lập liên doanh thiết kế sản xuất tên lửa hành trình chống hạm siêu âm BrahMos dựa trên loại 3M55 Yakhont do NPO Mashinostroyenie (Nga) phát triển.
BrahMos có tầm bắn tối đa 290km, mang đầu đạn thuốc nổ mạnh nặng 300kg, có thể tiêu diệt mục tiêu ở độ cao cực thấp (10m) và tốc độ hành trình tối đa Mach 2,8, gấp 3 lần vận tốc tên lửa Tomahawk.
Biến thể phóng trên biển và đất liền của BrahMos đã thử nghiệm thành công và đi vào phục vụ trong Quân đội Ấn Độ. Các cuộc thử nghiệm biến thể phóng từ máy bay dự kiến hoàn thành vào cuối năm 2012 (>> chi tiết).
Không quân Ấn Độ đang lên kế hoạch trang bị cho 40 tiêm kích đa năng Su-30MKI tên lửa BrahMos.
Tên Lửa Chống Hạm Nga
P-270 Moskit
Họ tên lửa mới do Raduga phát triển được đặt tên là 3M80 Moskit (NATO gọi là SS-N-22 Sunburn). Họ tên lửa này còn được Nga đặt ký hiệu P-270. Đây là họ tên lửa được thiết kế với nhiều tính năng hiện đại, vượt trội so với họ tên lửa Harpoon của Mỹ.


gặp nhiều khó khăn khi bị Moskit tấn công
Công tác nghiên cứu và thiết kế Moskit được bắt đầu từ năm 1973-1981, biến thể 3M80/P-80 đầu tiên được đưa vào sử dụng trong quân đội Nga có tầm bắn 93km.
Năm 1984, phiên bản 3M80M/P-80M (3M80E để xuất khẩu) ra đời với tầm bắn 120km. Biến thể cuối cùng 3M82 Moskit-M/P-270 có tầm bắn xa hơn - từ 150-160km, được phóng từ ống phóng KT-190M. Toàn bộ các đời tên lửa Moskit đều được sản xuất tại Nhà máy Tiến bộ AKK tại vùng Arsenyev.
Đánh chặn Moskit là vô cùng khó khăn
Moskit được trang bị cánh đuôi hình chữ thập, động cơ hành trình phản lực nhiên liệu lỏng, động cơ khởi tốc phản lực nhiên liệu rắn. Tên lửa có chiều dài 9,745m, trọng lượng 4.500 kg, có thể mang đầu đạn thông thường nặng 320kg hoặc đầu đạn hạt nhân 120kT.
Moskit được trang bị hệ dẫn radar 2 chế độ (thụ động và chủ động) thế hệ mới của hãng GosNPO Altair, có khả năng đối phó tốt với hệ thống phòng thủ tên lửa của đối phương.

Trên ảnh là cảnh một quả Moskit được phóng từ tàu khu trục lớp Sovremenny.
Trong các loại tên lửa chống hạm hiện nay trên thế giới, Moskit là tên lửa có tốc độ bay lớn nhất, gấp 3 lần tốc độ của tên lửa Harpoon (Mỹ). Moskit đạt tốc độ 3M khi bay ở độ cao lớn và 2,2M khi bay sát mặt biển.
Sau khi được phóng đi, Moskit chỉ cần 2 phút để bay tới mục tiêu và chỉ cần từ 1-2 tên lửa để đánh chìm một tàu hàng trọng tải 20.000 tấn. Từ khoảng cách 10km đến mục tiêu, tên lửa chỉ cần 20 giây là chạm mục tiêu, do đó đối phương ít có cơ hội chống đỡ. Ngoài ra, khi tiếp cận mục tiêu, đầu tìm radar chuyển sang chế độ thụ động, cho phép tên lửa phát hiện các nguồn gây nhiễu, đồng thời truyền toàn bộ các thông tin này về trung tâm chỉ huy bắn. Chính nhờ tính năng này và một số tính năng khác, hệ dẫn của Moskit đối phó rất hiệu quả với các hệ thống gây nhiễu điện tử của đối phương.
So với tên lửa Exocet của Pháp, việc gây nhiễu và triển khai tên lửa và pháo đánh chặn Moskit là vô cùng khó khăn. Vì thời gian cần thiết để hệ thống phòng thủ tên lửa trên tàu kích hoạt đối phó hiệu quả với Exocet là khoảng từ 120-150 giây. Trong khi đó, đối phương chỉ có từ 30 giây để đối phó với Moskit.
Hiện, Mỹ triển khai nghiên cứu một hệ thống tên lửa có khả năng đánh chặn Moskit, tuy nhiên, đến nay, hệ thống mới vẫn chưa được đưa vào trang bị cho hải quân Mỹ.

Ảnh là một chiếc tàu khu trục Sovremenny của hải quân Nga.
Các thế hệ tên lửa 3M80 và 3M80M được trang bị cho tàu khu trục lớp Sovremenny, còn 3M82 được trang bị cho các tàu khu trục và tàu tên lửa thế hệ sau.
Trong các thập niên 1980-1990, hải quân Liên Xô và Nga đã đóng thêm tổng cộng 34 tàu tên lửa thuộc lớp Molnya-M, trong đó 28 tàu đang phục vụ trong hải quân Nga. Mỗi tàu Molnya-M được trang bị 2 bệ phóng x 2 quả Moskit cùng hệ thống radar điều khiển bắn hai chế độ (chủ động/thụ động).
Tổng cộng có 18 tàu khu trục của hải quân Nga được trang bị tên lửa Moskit. Mỗi tàu khu trục được trang bị 8 quả Moskit. Trung Quốc cũng đã đóng 2 tàu chiến trang bị hệ thống 3M80E và đưa vào trang bị trong năm 2000 và 2001 .

Thế hệ tàu chiến mới nhất được trang bị 3M80 Moskit là lớp Bora/Dergach. Mỗi chiếc Bora được trang bị 8 ống phóng, giống như tàu khu trục Sovremenny. Theo các chuyên gia, 3M80/82 Moskit là một trong những họ tên lửa chống hạm thành công nhất của Nga. Moskit có thể tấn công hiệu quả các loại tàu chiến lớn, nhỏ, các cụm tàu đổ bộ và đặc biệt là tàu sân bay.


Ngoài biến thể trang bị cho tàu chiến, Nga còn chế tạo biến thể Moskit trang bị cho lực lượng không quân hải quân có tên gọi Kh-41 để lắp trên các máy bay Su-27K, Su-30 và Su-33. Kh-41 sử dụng động cơ phản lực 2 chế độ, hoạt động giống như tên lửa Kh-31. Tên lửa Kh-41 được treo dưới thân máy bay với các cánh tên lửa được gập lại.
Khi được phóng khỏi máy bay, tên lửa tự bay đến mục tiêu, có thể có sự can thiệp của phi công. Khi đến gần mục tiêu, đầu tìm radar chủ động được kích hoạt giúp phi công xác định chính xácvà tiêu diệt mục tiêu.
P-700 Granit
Không thỏa mãn với khả năng tấn công của các thế hệ tên lửa trước đó, vào giữa thập kỷ 1970, Liên Xô tiếp tục yêu cầu các nhà thiết kế vũ khí nghiên cứu loại tên lửa chống hạm có tên SS-N-19 (NATO gọi là Shipwreck) với khả năng hỏa lực mạnh và xác định đây là vũ khí số một nhằm trang bị cho các tàu chiến cỡ lớp, các tàu sân bay và tàu ngầm tên lửa.

Thân tên lửa P-700 được thiết kế để có thể chịu được vận tốc siêu âm ở độ cao thấp. P-700 sử dụng động cơ tua bin phản lực nhiên liệu lỏng hoặc động cơ phản lực thẳng dòng.
P-700 có trọng lượng lên tới 4.350 kg, có thể sử dụng đầu đạn thường, nặng 750 kg hoặc đầu đạn hạt nhân với sức công phá lên tới 500KT.

Tính năng mới này nhằm mục đích thực hiện các cuộc tấn công vào các hải đội của đối phương và lựa chọn mục tiêu có giá trị nhất để tiêu diệt.
Radar dẫn đường được đặt ở phía mũi của tên lửa. Trong quá trình hành trình tìm mục tiêu, radar của tên lửa hoạt động ở chế độ chủ động trên dải băng tần X. Khi tên lửa tiến gần đến mục tiêu, rada chủ động chuyển sang hoạt động ở dải băng tần Ku.

Ảnh là một chiếc tàu chiến lớp Oscar. P-700 được trang bị hàng loạt cho các tàu ngầm thuộc lớp Oscar. Mỗi tàu ngầm có 20 ống phóng chứa tên lửa, được đặt nghiêng một góc 47 độ. Trước khi tên lửa được phóng ra khỏi ống, ống phóng sẽ được nước tràn ngập.
P-800 Yakhont
Phát triển từ năm 1983, trang bị cho hải quân Nga vào năm 1999 và cho đến năm 2001, P-800 đã được triển khai trên nhiều phương tiện khác nhau, bao gồm cả trên biển, trên không và đất liền.

Về mặt thiết kế, P-800 giống tên lửa chống hạm Moskit (SS-N-22) và P-700 Granit. P-800 có kích thước 8,9 x 0,9 (m), trọng lượng 3 tấn, đầu đạn nặng 250 kg, sải cánh rộng 1,7 m, sử dụng động cơ đẩy phản lực thẳng, nhiên liệu lỏng, hoạt động trong phạm vi từ 120 - 300 km tùy theo độ cao và hành trình với vận tốc 2,5 M.
So với các tên lửa đối hải thế hệ trước, hành trình của P-800 đặc biệt hơn. Ngay khi rời bệ phóng P-800 bay vút lên cao, hành trình gần tới mục tiêu thì dần dần hạ thấp độ cao. Khoảng cách tới mục tiêu khi tên lửa hạ thấp có thể được lập trình từ trước.
Việc kiểm soát độ cao của tên lửa được thực hiện nhờ radar KTRV-Deltal K313, cho phép tên lửa có thể hoạt động tại độ cao từ 1.000 m đến 5000 m.

Trong chế độ chủ động, radar hoạt động ở giải băng tần rộng với điều biến phổ tần ngẫu nhiên, có thể xác định mục tiêu cách 50km. Khi tên lửa phát hiện mục tiêu và lại gần ở khoảng cách 25 - 30 km, tên lửa tắt mọi liên lạc với hệ thống và chỉ sử dụng radar ở trạng thái thụ động.
Nhờ công nghệ hiện đại, P-800 có thể chống lại hiệu quả hệ thống gây nhiễu của đối phương, đồng thời cho phép hoạt động trong điều kiện biển động cấp 7.

P-900 Klub/Club
Đa năng, mạnh mẽ, độc đáo và thiên biến vạn hóa, Club-M và Club-K có thể thay đổi hoàn toàn các nguyên tắc tiến hành chiến tranh hiện đại và làm rung chuyển các nền tảng của thương mại quốc tế
Một hệ thống tên lửa bờ biển cơ động siêu hiện đại nữa của Nga là Kalibr-M (ký hiệu xuất khẩu là Club-M). Hệ thống dùng để phòng thủ chống hạm và tăng cường bảo vệ các mục tiêu ven biển, tiêu diệt các loại mục tiêu tĩnh và ít cơ động trên mặt đất bất kể ngày đêm và thời tiết.

Xe bệ phóng Kalibr-M / Club-M mang 4-6 ống phóng chứa tên lửa (vietnamdefence.com)

Club-M (Xe bệ phóng Kalibr-M / Club-M)
Kalibr-M (Club-M) được hãng Morinformsystema-Agat chế tạo trên cơ sở hệ thống tên lửa Kalibr (Club) do Công ty OKB Novator phát triển vào đầu thập niên 1990.
Ngoài các biến thể đầu tiên là Kalibr-NKE (Club-N) trang bị cho tàu nổi và Kalibr-PLE (Club-S) trang bị cho tàu ngầm các loại và Kalibr-A (Club-A) trang bị cho máy bay, Morinformsystema-Agat tiếp tục phát triển thêm các biến thể Club-U (thiết kế module) dành cho tàu nổi, Club-K bố trí trong container triển khai trên trận địa bờ biển, tàu hỏa, xe tải hay tàu biển.
Mới đây, các công ty Morinformsystema-Agat, NPP radar-MMS và Ilyushin đã ký hợp đồng chế tạo biến thể Club lắp trên máy bay vận tải Il-76, có thể phóng các tên lửa của Club-K và dự kiến phóng thử lần đầu vào cuối năm 2011-năm 2012.
Hệ thống tên lửa bờ biển đa năng Kalibr-M/Club-M bao gồm: 1 xe bệ phóng; 3 xe tiếp đạn; các tên lửa hành trình 3M-54E, 3M-54E1 và 3M-14 trong các ống phóng; 1 xe bảo đảm kỹ thuật; 1 xe thông tin và điều khiển; các thiết bị bảo đảm và cất giữ tên lửa.
Được trang bị tên lửa chống hạm siêu âm, bay bám mặt biển 3M-54E, tầm bắn 220 km, tên lửa chống hạm dưới âm, bay bám mặt biển 3M-54E1, tầm bắn 300 km (có khả năng làm tê liệt, thậm chí đánh chìm tàu sân bay) và tên lửa hành trình dưới âm, tấn công mặt đất chính xác cao 3M-14E, tầm bắn 275 km; với 1 hệ thống điều khiển duy nhất nên Kalibr-M (Club-M) có tính linh hoạt, hiệu quả cực kỳ cao và tính vạn năng trong sử dụng, kể cả ở chiến trường hoàn toàn trên bộ.
Vì thế, Kalibr-M (Club-M) cho phép xây dựng hệ thống phòng thủ vạn năng, đồng thời có thể sử dụng như hệ thống tấn công mặt đất ở chiến trường trên bộ thuần tuý.
Ngoài các biến thể đầu tiên là Kalibr-NKE (Club-N) trang bị cho tàu nổi và Kalibr-PLE (Club-S) trang bị cho tàu ngầm các loại và Kalibr-A (Club-A) trang bị cho máy bay, Morinformsystema-Agat tiếp tục phát triển thêm các biến thể Club-U (thiết kế module) dành cho tàu nổi, Club-K bố trí trong container triển khai trên trận địa bờ biển, tàu hỏa, xe tải hay tàu biển.
Mới đây, các công ty Morinformsystema-Agat, NPP radar-MMS và Ilyushin đã ký hợp đồng chế tạo biến thể Club lắp trên máy bay vận tải Il-76, có thể phóng các tên lửa của Club-K và dự kiến phóng thử lần đầu vào cuối năm 2011-năm 2012.
Hệ thống tên lửa bờ biển đa năng Kalibr-M/Club-M bao gồm: 1 xe bệ phóng; 3 xe tiếp đạn; các tên lửa hành trình 3M-54E, 3M-54E1 và 3M-14 trong các ống phóng; 1 xe bảo đảm kỹ thuật; 1 xe thông tin và điều khiển; các thiết bị bảo đảm và cất giữ tên lửa.
Được trang bị tên lửa chống hạm siêu âm, bay bám mặt biển 3M-54E, tầm bắn 220 km, tên lửa chống hạm dưới âm, bay bám mặt biển 3M-54E1, tầm bắn 300 km (có khả năng làm tê liệt, thậm chí đánh chìm tàu sân bay) và tên lửa hành trình dưới âm, tấn công mặt đất chính xác cao 3M-14E, tầm bắn 275 km; với 1 hệ thống điều khiển duy nhất nên Kalibr-M (Club-M) có tính linh hoạt, hiệu quả cực kỳ cao và tính vạn năng trong sử dụng, kể cả ở chiến trường hoàn toàn trên bộ.
Vì thế, Kalibr-M (Club-M) cho phép xây dựng hệ thống phòng thủ vạn năng, đồng thời có thể sử dụng như hệ thống tấn công mặt đất ở chiến trường trên bộ thuần tuý.


Các tên lửa hành trình chống hạm siêu âm 3M-54E (trên) và 3M-54E1 Club (okb-novator.ru)
3M-54E (SS-N-27 Sizzler) mang phần chiến đấu 200 kg, dùng để tiêu diệt tàu nổi các loại (tàu tuần dương, khu trục, đổ bộ, vận tải, tàu tên lửa cỡ nhỏ…) đơn lẻ hay trong đội hình tốp. Phần lớn đường bay, tên lửa bay với tốc độ dưới âm, khi cách mục tiêu 20 km, tên lửa đột ngột tăng tốc lên tốc độ khủng khiếp 2,9M khiến phòng không tàu địch cực kỳ khó chặn đánh. Biến thể 3М54E1 có phần chiến đấu nặng gấp đôi (400 kg) và tầm bắn xa hơn (300 km).


Tên lửa tấn công mặt đất 3M-14E (army-news)
Tên lửa tấn công mặt đất 3M-14E bay bám địa hình, sử dụng hệ dẫn vệ tinh GLONASS hay GPS chính xác cao và đầu tự dẫn radar chủ động, dùng để tiêu diệt các mục tiêu quân sự, hành chính, kinh tế cố định như hạ tầng công nghiệp, trung tâm phát thanh-truyền hình, các sở chỉ huy, sân bay... trên lãnh thổ đối phương.
Chỉnh sửa cuối: