[Funland] Giới thiệu bản dịch mới sách: Hoàng Lê nhất thống chí.

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,533
Động cơ
711,487 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Các cụ yêu Lịch sử đều biết cuốn tiểu thuyết Lịch sử nổi tiếng : Hoàng Lê nhất thống chí.
Mặc dù đã có nhiều bản dịch, tiêu biểu nhất là bản dịch của Ngô Tất Tố năm 1942 (tái bản 1958), bản dịch của Nguyễn Đăng Tấn – Nguyễn Công Liên xuất bản năm 1950 dưới tiêu đề Hậu Lê thống chí, bản dịch của Nguyễn Đức Vân và Kiều Thu Hoạch xuất bản năm 1964, tái bản vào năm 1970; 1984; 1987 và được nhà xuất bản Giáo dục xuất bản nhưng ở thể chọn lọc dùng trong nhà trường. Tuy nhiên, em vẫn quyết dịnh dịch lại toàn bộ tác phẩm từ nguyên tác chữ Hán, với quan điểm là dịch đúng nguyên tác, giữ lại đầy đủ văn phong thế kỷ 18,bổ sung những phần còn thiếu mà các bản dịch trước đây chưa dịch hoặc dịch không trọn vẹn, hiệu đính lại các danh từ tên riêng, bổ sung chú thích cụ thể về địa danh trong sách và cung cấp cho người đọc thông tin về địa danh đó ở hiện tại,không sử dụng quá nhiều ngôn ngữ hiện đại nhằm đưa Hoàng Lê nhất thống chí đến gần hơn với độc giả hiện đại, giúp người đọc không biết chữ Hán vẫn có thể tiếp cận một trong những di sản văn học quý giá bậc nhất của dân tộc. Trong quá trình chuyển ngữ, chúng tôi cố gắng giữ lại phong vị cổ kính của nguyên tác, đồng thời diễn đạt bằng tiếng Việt trong sáng, dễ hiểu, có chú thích cần thiết để giúp người đọc nắm được bối cảnh lịch sử và văn hóa của từng sự kiện, nhân vật. Với tranh minh họa, chắc chắn bản dịch mới sẽ làm các cụ thêm hứng thú và yêu quý lịch sử nước nhà hơn.
Trong bản dịch mới này, em có bổ sung rất nhiều tài liệu mới được công bố của phía Trung Quốc, Đài Loan và cả thư từ, ghi chép gốc của các giáo sĩ phương Tây có mặt tại nước ta đúng vào thời điểm ấy, những tài liệu này giúp người đọc có cái nhìn toàn diện, khách quan hơn, đồng thời cũng giúp bạn đọc đối chiếu, so sánh với những gì mà Hoàng Lê nhất thống chí nghi chép, các sách đó bao gồm:
1. Khâm Ðịnh An Nam Kỷ Lược
2. Khâm Ðịnh Việt Sử Thông Giám Cương Mục
3. Ðại Nam Chính Biên Liệt Truyện
4. Thanh Sử Cảo
5. Cố Cung Bác Vật Viện (Ðài Loan)
6. Việt Nam Hán Văn Yên Hành Văn Hiến Tập Thành
7. Thanh Cao Tông Thập Toàn Võ Công Nghiên Cứu
8. Càn Long Trọng Yếu Chiến Tranh Chi Quân Nhu Nghiên Cứu
9. Bulletin des Amis du Vieux Huế
10. Bulletin de l’École Française d’Extrême-Orient
11. Tập San Sử Ðịa [Saigon]
12. Lưu trữ Hội truyền giáo Paris [Missions étrangères de Paris – MEP]
13. Việt-Thanh chiến dịch [Nguyễn Duy Chính]
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,533
Động cơ
711,487 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
LỜI NGƯỜI DỊCH
Hoàng Lê nhất thống chí皇黎一統志 hay An Nam nhất thống chí安南一統志, hay Lê quý ngoại sử黎季外史 là cuốn tiểu thuyết văn xuôi viết bằng chữ Hán vào cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, nằm trong bộ Ngô gia văn phái tùng thư của các tác giả thuộc dòng họ Ngô Thì ở làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, Hà Nội, là một trong những tác phẩm văn học–lịch sử đặc sắc của văn học trung đại Việt Nam, Tác phẩm do nhóm Ngô gia văn phái吳家文派 biên soạn, đứng đầu là Ngô Thì Chí吳時志 và Ngô Thì Du吳時悠, -những nhà Nho trí thức tiêu biểu của đất nước thời Lê mạt.
Ngô gia văn phái吳家文派 là một nhóm các nhà văn Việt Nam thuộc dòng họ Ngô Thì ở làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay thuộc huyện Thanh Trì, Hà Nội). Ngô Chi Thất và Ngô Trân là người đề xướng và dựng nên Văn phái, về sau được mệnh danh là Ngô gia văn phái, gồm 15 tác giả thuộc 9 thế hệ, trên dưới 200 năm, từ đầu thế kỷ thứ 17 đến đầu thế kỷ thứ 20. Ta có thể kể ra vài tác giả đã tham gia viết cuốn sách này:
1. Ngô Thì Chí (1753–1788), tự: Học Tốn, hiệu: Uyên Mật, là con trai thứ hai của Ngô Thì Sĩ. Ông thi đỗ Hương tiến, làm quan đến chức Thiêm thư Bình chương Tỉnh sự, nhưng việc quan không phải là việc làm ông quan tâm. Tác phẩm chính của ông là: Học Phi thi tập, Học Phi văn tập và Hào mân khoa sứ. Ngoài ra, ông chính là người khởi đầu viết bộ tiểu thuyết lịch sử nổi tiếng Hoàng Lê nhất thống chí 17 hồi, mà 7 hồi đầu là do ông viết.
2. Ngô Thì Du (1772-1840), tự: Trưng Phủ, hiệu: Văn Bác, là con trai của Ngô Thì Đạo. Dưới triều Nguyễn, ông được bổ làm Đốc học Hải Dương. Nhưng chẳng bao lâu sau, ông xin được từ chức, về ở quê nhà. Tác phẩm chính của ông là quyển Trưng Phủ công thi văn và viết một số hồi cho cuốn tiểu thuyết này [từ hồi 8 đến hồi 14].
Đây là một cuốn tiểu thuyết lịch sử viết theo lối chương hồi, ghi chép về sự thống nhất vương triều nhà Lê vào thời điểm Tây Sơn diệt Trịnh trả lại Bắc Hà cho Vua Lê đến khi Nguyễn Ánh đánh bại Tây Sơn, thống nhất cả nước. Đây là tác phẩm viết theo thể chí – một lối văn ghi chép sự vật, sự việc, do một số tác giả kế tục nhau viết, trong những thời điểm khác nhau. Được sáng tác trong khoảng thời gian dài từ cuối Triều Lê sang đầu Triều Nguyễn (cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX). Toàn bộ tác phẩm gồm có 17 hồi.
Bảy hồi đầu tiên là phần Chính biên do Ngô Thì Chí viết, mười hồi tiếp theo là phần Tục biên, trong đó có 7 hồi được cho là Ngô Thì Du viết, còn 3 hồi cuối cùng viết có tính chất chắp vá, lại có cả những sự việc thời Tự Đức, tương truyền do Ngô Thì Thuyết (có người đọc là Thiến), còn các nhà nghiên cứu cho là có thể của một tác giả vô danh khác.
Cuốn sách phản ánh trung thực và sinh động những biến động dữ dội của xã hội Đại Việt trong giai đoạn cuối triều Lê-Tây Sơn-đầu triều Nguyễn, từ sự suy vong của triều Lê, sự nổi dậy và thống nhất đất nước của phong trào Tây Sơn, cho đến sự khôi phục vương quyền của vua Gia Long. Với giọng văn trang trọng, kết hợp giữa tự sự, nghị luận và bút ký lịch sử, tác phẩm không chỉ ghi lại một cách tỉ mỉ những sự kiện trọng đại mà còn thể hiện tâm tư, quan điểm của tầng lớp sĩ phu trước vận mệnh quốc gia.
Đây là tác phẩm văn học có một số tình tiết hư cấu, tuy nhiên tác giả là người đương thời nên đã mô tả khá sinh động về những biến động trong xã hội phong kiến cuối thế kỷ 18. Những nhân vật thuộc tầng lớp trên của xã hội phong kiến không còn là những thần tượng thiêng liêng, tôn quý mà là hiện hữu của sự suy bại. Trong triều đình, vua không ra vua, chúa không ra chúa. Trịnh Sâm sống xa hoa, sủng ái Đặng Thị Huệ, lập Trịnh Cán phế Trịnh Tông gây ra nạn kiêu binh. Vua Cảnh Hưng cam chịu sống bạc nhược, Trịnh Tông trở thành con rối của đám kiêu binh; Thái Phi mẹ chúa Trịnh Tông phải chắp tay lạy xin đám lính, Hoàng tử nhà Lê như con rối, con tin của Trịnh phủ, thích lập, thích phế, thậm chí giết ngay cũng được trước sự bất lực của vua Lê. Lê Chiêu Thống bị nhân dân căm ghét vì bán nước và luồn cúi trước tướng Tôn Sĩ Nghị nhà Thanh; hình ảnh giám quốc Lê Duy Cận được mô tả là "bị thịt trong túi da". Ngoài triều, quan lại, tướng tá nhiều người tráo trở bất lương, không còn giữ đạo vua tôi. Mai Doãn Khuê vừa bày mưu cho kiêu binh xong lại đi tố cáo, Nguyễn Cảnh Thước công khai đòi tiền mãi lộ và lột áo bào của vua Chiêu Thống trên đường chạy trốn.
Hoàng Lê nhất thống chí còn phản ánh phần nào cuộc sống của nhân dân thời Lê mạt: cuộc sống không có trật tự, không an toàn, không ấm no trước nạn binh hỏa và nạn đói. Một phần lớn nội dung tác phẩm phản ánh khá đậm nét về nhà Tây Sơn. Dù đứng trên lập trường ủng hộ nhà Hậu Lê đối lập, các tác giả dành nhiều sự trang trọng đối với lực lượng Tây Sơn mà tiêu biểu là Nguyễn Huệ. Ông được mô tả là một "anh hùng hào kiệt", "dũng mãnh và có tài cầm quân". Trận Ngọc Hồi – Đống Đa đánh đuổi quân Thanh cũng được tác phẩm phản ánh khá chi tiết.
Hoàng Lê nhất thống chí là tác phẩm tự sự lịch sử. Trên thực tế, tác phẩm không giữ nguyên thi pháp cổ điển của thể loại như mô tả ngoại hình nhân vật theo lối tượng trưng, ước lệ, mà có những đặc điểm được các nhà nghiên cứu đánh giá là đậm sắc thái của Việt Nam. Ngôn ngữ trong tác phẩm là ngôn ngữ động, mang phong cách lối nói dân gian giàu hình tượng, đôi khi có khoa trương, phóng đại hài hước, không bị gò bó theo khuôn của Hán học, vì vậy nội dung có sức hấp dẫn đặc biệt. Các nhà nghiên cứu đánh giá rất cao giá trị nghệ thuật của đoạn đối thoại giữa Nguyễn Hữu Chỉnh và người em rể.
Thành công lớn nhất của tiểu thuyết này là xây dựng được những nhân vật điển hình đa dạng, vừa khái quát vừa sâu sắc. Nhân vật lịch sử có đời sống nội tâm phức tạp và số phận cụ thể trong tổng hòa các mối quan hệ xã hội.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,533
Động cơ
711,487 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
LỜI TỰA CỦA SÁCH

Còn có tên gọi là «An Nam nhất thống chí 安南一統志», là một cuốn tiểu thuyết lịch sử chữ Hán của Việt Nam được hoàn thành vào khoảng cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19, miêu tả câu chuyện lịch sử về thời kỳ nhà Hậu Lê suy vong và nhà Tây Sơn trỗi dậy.
Lời tựa 序
Cuốn sách được đặt tên là «Nhất Thống一統». Tác giả giải thích lý do đặt tên này là bởi vì sự sụp đổ của nhà Hậu Lê bắt nguồn từ việc Trịnh Vương Sâm sủng ái Đặng phi. Việc này dẫn đến việc phế bỏ con trưởng lập con thứ, gây ra biến loạn trong quân đội, và cuối cùng dẫn đến loạn Tây Sơn, khiến nhà Trịnh diệt vong.
Lê Hiển Tông黎顯宗 với tuổi già 70 mỏi mệt tại vị, đã tận mắt chứng kiến sự kiện "nhất thống" [có thể hiểu là việc Tây Sơn thống nhất hoặc kiểm soát đất nước]. Việc Tây Sơn chiếm giữ quốc gia, và nhà Lê đi đến hồi kết, cũng bắt đầu từ đây.
Vì vậy, cuốn sách lấy tên «Nhất Thống», hàm ý bao quát toàn bộ thời kỳ lịch sử đó. Tác phẩm trước gồm mười bốn hồi, sau tiếp theo ba hồi nữa (tổng cộng 17 hồi, được xác nhận bởi mục lục), và kết thúc với việc Tây Sơn chủ bị bắt [Hồi mười bảy: 定昇龍偽主就擒 – Định Thăng Long ngụy chúa tựu cầm], và Lê quân [chỉ vua Lê Chiêu Thống] được an táng [Hồi mười sáu: 葬燕京黎皇飲恨 - Táng Yên Kinh Lê Hoàng ẩm hận, Hồi mười bảy: 葬磐石皇妃從殉 - Táng Bàn Thạch Hoàng phi tòng tuẫn].
Đoạn lời tựa cũng liệt kê các đời hoàng đế nhà Lê kể từ khi Trang Tông莊宗 trung hưng. Danh sách bao gồm Trang Tông, Trung Tông, Anh Tông, Thế Tông, Kính Tông, Thần Tông, Chân Tông, Gia Tông, Hy Tông, Dụ Tông, Vĩnh Khánh (?), Thuần Tông, Hiển Tông, Ý Tông, Chiêu Thống, tổng cộng mười sáu vị hoàng đế.
Tiếp đó là danh sách các đời chúa Trịnh kể từ Đại Vương Kiểm. Danh sách bao gồm Đại Vương Kiểm, Triết Vương Tùng, Nghị Vương Tráng, Dương Vương Tạc, Khang Vương Căn, Nhân Vương Bàng, Thuận Vương Cương, Tư Vương Kiên, Thịnh Vương Sâm, Linh Vương Khải, Đô Vương Bồng, tổng cộng mười một vị vương.
 
Chỉnh sửa cuối:

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,533
Động cơ
711,487 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Bìa sách
1760342910111.png
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,533
Động cơ
711,487 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
LIỆT KÊ CÁC VUA LÊ TRUNG HƯNG

[1. Lê Trang Tông 黎莊宗 (1515 - 9 tháng 3 năm 1548), hay còn gọi là Trang Tông Dụ Hoàng đế 莊宗裕皇帝, tên thật là Lê Ninh 黎寧, là vị Hoàng đế thứ 12 của nhà Hậu Lê và là vị Hoàng đế đầu tiên của nhà Lê Trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông còn được dân gian ưu ái đặt cho mỹ danh nghèo nàn là Chúa Chổm.]
[2. Lê Trung Tông 黎中宗 (1535 - 24 tháng 1 năm 1556) là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Lê trung hưng và là thứ 13 của nhà Hậu Lê, ở ngôi từ năm 1548 đến năm 1556, tổng cộng được 8 năm. Ông là con trai trưởng của Lê Trang Tông, vị vua thứ 12 của triều Hậu Lê, vua đầu của nhà Lê trung hưng, mẹ là Trinh Thục Hoàng thái hậu Trịnh Thị Ngọc Cửu - cháu 4 đời của Thượng đẳng Phúc thần Đại vương Trịnh Khắc Phục, quê làng Thủy Chú (nay là xã Xuân Thắng, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa) - theo gia phả Hán văn của họ Trịnh (Thủy Chú).]
[3. Lê Anh Tông 黎英宗 (1532 - 22 tháng 1 năm 1573), tên húy là Lê Duy Bang 黎維邦, là hoàng đế thứ ba của Nhà Lê Trung hưng và là hoàng đế thứ 14 của nhà Hậu Lê nước Đại Việt. Ông trị vì từ năm 1556 đến năm 1572, tổng cộng 16 năm, trong thời kỳ Nam-Bắc triều.
Anh Tông xuất thân là cháu năm đời của Lê Trừ, anh trai vua Lê Thái Tổ. Khi Lê Trung Tông mất không có người nối dõi, Thái sư Trịnh Kiểm lập Anh Tông lên ngôi, đóng tại hành cung Vạn Lại, cai quản vùng đất Đại Việt từ Thanh Hóa trở vào nam, đánh nhau với nhà Mạc ở phía bắc. Khi ấy nhà Lê vừa mới trung hưng, chính sự còn khá non nớt nhưng được Thái sư Trịnh Kiểm hết lòng phò tá, tiếp tục dựng nên cơ nghiệp. Sau này con Trịnh Kiểm là Trịnh Tùng lên kế nghiệp, làm Thái úy. Năm 1573, Anh Tông ghét Trịnh Tùng chuyên quyền, bèn lập mưu cùng Lê Cập Đệ phế bỏ Trịnh Tùng. Trịnh Tùng biết được, giết Lê Cập Đệ khiến Anh Tông phải đem theo 4 hoàng tử chạy ra Nghệ An. Sau Trịnh Tùng sai Tống Đức Vị giết Anh Tông.]
[4. Lê Thế Tông 黎世宗 (1567 - 12 tháng 10 năm 1599), tên húy là Lê Duy Đàm 黎維潭, là vị hoàng đế thứ tư của Hoàng triều Lê - giai đoạn Trung hưng và thứ 15 của triều Hậu Lê nước Đại Việt, ở ngôi từ năm 1573 đến năm 1599. Ông là hoàng đế nhà Lê đầu tiên trở lại nhập chủ Thăng Long sau 66 năm nhà Lê Sơ bị họ Mạc cướp ngôi (1527-1593) và hoàn thành công cuộc trung hưng vương triều.
Ông là con thứ năm của Lê Anh Tông, sinh ra trong thời kỳ Nam - Bắc triều. Năm 1573, Anh Tông thấy Tả tướng Trịnh Tùng chuyên quyền, bèn cùng 4 hoàng tử lớn bỏ hành cung Vạn Lại trốn ra Nghệ An. Đúng ngày đầu năm mới 1573, Trịnh Tùng lập Lê Duy Đàm mới 5 tuổi lên ngôi hoàng đế, 3 tuần sau Trịnh Tùng sai Tống Đức Vị ngầm giết Anh Tông. Thời kỳ Thế Tông tại vị, Trịnh Tùng nắm toàn bộ quyền quân quốc, tiếp tục tiến hành cuộc chiến với nhà Mạc ở Đông Kinh. Sau nhiều chiến dịch lớn, năm 1592 Trịnh Tùng đánh bại quân Mạc, lấy lại Đông Kinh và rước Thế Tông về kinh đô cũ. Do vậy, quốc sử Đại Việt do chúa Trịnh chỉ đạo biên soạn xem Lê Thế Tông là vua có công khôi phục cơ nghiệp nhà Hậu Lê. Trên thực tế, dù nhà Lê được tái lập nhưng quyền lực thực sự đã rơi vào tay Trịnh Tùng, nhà vua chỉ còn lại hư vị. Năm 1599, Thế Tông phong Trịnh Tùng làm Bình An vương, bắt đầu một thời kỳ được gọi là thời vua Lê - chúa Trịnh. Ngày 24 tháng 8 âm lịch năm 1599, Thế Tông mất, ở ngôi được 26 năm, thọ 33 tuổi, táng tại Hoa Nhạc lăng華岳陵. Sau cái chết của ông, con thứ tư của ông là Lê Duy Tân được Trịnh Tùng đưa lên ngôi vua, tức vua Lê Kính Tông.
[5. Lê Kính Tông黎敬宗 (1588 – 23 tháng 6 năm 1619) có tên là Lê Duy Tân 黎維新, là vị Hoàng đế thứ 5 của nhà Lê Trung hưng và thứ 16 của nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam, người huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa. Ông làm vua từ năm 1599 đến năm 1619. Vua Lê Kính Tông húy là Lê Duy Tân, là con thứ của Lê Thế Tông, mẹ là Ý Đức Hoàng thái hậu Nguyễn thị, người xã Duy Tinh, huyện Thần Lộc (nay là xã Thuần Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa).
Năm 1599, Tả tướng Trịnh Tùng ép vua Lê Thế Tông phải phong cho mình làm Đô Nguyên súy Tổng quốc chính thượng phụ Bình An vương, là chức quan cao nhất trong triều, chỉ đứng sau vua. Ông lại cho xây phủ chúa ở ngay bên cạnh triều đình vua Lê, và từ đó phủ chúa trở thành nơi bàn định công việc của đất nước. Triều đình chỉ còn là hư danh, vua Lê chỉ có 5.000 lính túc vệ, thuế 1.000 xã để chi dụng, còn những việc đặt quan, thu thuế, bắt lính, trị dân, đều thuộc về quyền họ Trịnh cả; chỉ có khi nào thiết triều hay là tiếp sứ thì mới cần đến vua mà thôi. Đó là bắt đầu sự nghiệp 200 năm của các chúa Trịnh ở Đàng Ngoài.]
[6. Lê Thần Tông黎神宗 (1607 – 2 tháng 11 năm 1662) tên húy là Lê Duy Kỳ 黎維祺, là vị hoàng đế thứ sáu của nhà Lê Trung hưng và thứ 17 của nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Ông cũng là vị Vua Việt Nam duy nhất hai lần lên ngôi, có đến 4 người con đều làm vua và là vị vua Việt Nam đầu tiên lấy vợ phương Tây cũng như là vua có nhiều vợ là người các dân tộc khác.
[7. Lê Chân Tông黎真宗 (1630 – 2 tháng 10 năm 1649) tên húy là Lê Duy Hựu 黎維祐, 黎維禔, là vị Hoàng đế thứ 7 của nhà Lê Trung hưng và thứ 18 của triều Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam, ở ngôi từ năm 1643 đến năm 1649, tổng cộng 6 năm. Ông lên ngôi từ tháng 10 năm 1643, sau khi vua Lê Thần Tông nhường ngôi cho ông, đến tháng 10 năm 1649.Ông là con trưởng của vua Lê Thần Tông, làm vua được 7 năm, thọ 20 tuổi. Táng tại lăng Hoa Phố. Do ông mất trẻ không có con trai nối dõi nên vua cha là Lê Thần Tông lại ra làm vua lần thứ hai.]
[8. Lê Huyền Tông黎玄宗 (1654 – 16 tháng 11 năm 1671) tên thật là Lê Duy Vũ 黎維禑, tên khác là Lê Duy Hi 黎維禧, là vị Hoàng đế thứ tám của nhà Lê Trung hưng và thứ 19 của triều Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam.]
[9. Lê Gia Tông 黎嘉宗 (1661 – 27 tháng 4 năm 1675), tên húy là Lê Duy Cối 黎維禬, 黎維𥘺, là vị Hoàng đế thứ 9 của nhà Lê Trung hưng và thứ 20 của nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam, lên ngôi ngày 19 tháng 11 năm Tân Hợi (1671) khi mới 10 tuổi. Đến ngày 27 tháng 4 năm Ất Mão (1675), vua bị bệnh mất.]
[10. Lê Hy Tông 黎熙宗 (15 tháng 3 năm 1663 – 3 tháng 4 năm 1716) tên húy là Lê Duy Cáp 黎維祫 hay Lê Duy Hiệp, là vị vua thứ 10 của nhà Lê Trung hưng và thứ 21 của nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Ông được người đời ca ngợi là vị vua anh minh đức độ bậc nhất thời Lê Trung hưng.]
[11. Lê Dụ Tông 黎裕宗 (1679 – 27 tháng 2 năm 1731) là vị Hoàng đế thứ 11 của Nhà Lê Trung hưng và thứ 22 của triều Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Ông có tên húy là Lê Duy Đường 黎維禟, 黎維禎 – là con trai trưởng của vua Lê Hy Tông.]
[12. Lê Duy Phường 黎維祊, (1709 – 1735) hay Vĩnh Khánh Đế hoặc Hôn Đức công, là vị Hoàng đế thứ 12 của nhà Lê Trung hưng và thứ 23 của triều Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Ông là con trai thứ, đồng thời là đích tử của vua Lê Dụ Tông và Hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trang hay Trịnh Thị Ngọc Phúc, con gái Đề quận công Trịnh Lan. Về thứ thì Trịnh thị là cô họ của Chúa Trịnh Cương. Do xuất thân như thế nên ông được lập làm Thái tử tháng 4 năm 1729, thay cho anh trưởng là Duy Tường. Năm đó, Lê Duy Phường 21 tuổi. Cùng tháng đó, do tác động của Trịnh Cương, Lê Dụ Tông lui về điện Càn Thọ làm Thái thượng hoàng, truyền ngôi cho Duy Phường.Lê Duy Phường lên ngôi vua, đặt niên hiệu là Vĩnh Khánh 永慶, tôn mẹ làm Trịnh Thái hậu, vợ ông cũng là con gái họ Trịnh được lập làm Hoàng hậu, ban lời chiếu khá dài nói về công lao sáng lập của Thái Tổ, khôi phục văn miếu của Thái Tông, ưa chuộng Nho học của Nhân Tông, công cuộc thịnh trị của Thánh Tông, nối nghiệp vững vàng của Hiến Tông và Túc Tông, công cuộc trung hưng vương triều và vai trò của nhà Trịnh rồi rộng ban 5 ân điển cho thần dân cả nước.
Tháng 10 năm 1729, Trịnh Cương mất, con là Trịnh Giang lên nối ngôi. Cũng như các đời trước, vua Vĩnh Khánh không có thực quyền. Việc điều hành triều chính do Trịnh Giang định đoạt. Trịnh Giang biết cha từng có ý thay ngôi Thế tử của mình, bèn giết Nguyễn Công Hãng vì Công Hãng từng đề nghị Trịnh Cương việc đó. Trịnh Giang còn mang ý định thay đổi ngôi vua do Trịnh Cương đã sắp đặt để ra oai với thần hạ. Năm 1731, Thượng hoàng Lê Dụ Tông qua đời. Năm 1732, vua Vĩnh Khánh bị ép ra ở cung riêng. Những thứ cung đốn cho vua dùng đều bị Trịnh Giang hạ lệnh xén bớt đi. Về việc này, sách Lê sử tục biên chép là do nhà vua hoang dâm càn rỡ không kiêng kị gì, chúa Trịnh chưa nỡ phế, chỉ đưa ra ở cung riêng. Nhưng tính xấu vẫn chưa bỏ được, lại tư thông với phi tần của Trịnh Cương, nên các đại thần cùng nhau liên danh xin phế truất nhà vua.
Tháng 8 năm 1732, Trịnh Giang vu cho vua Vĩnh Khánh tư thông với vợ Trịnh Cương, rồi phế bỏ ông làm Hôn Đức công 昏德公, phế Thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trang làm Quận quân; lập con trưởng của Dụ Tông (anh cả của Duy Phường) là Lê Duy Tường lên ngôi, tức là Lê Thuần Tông. Duy Phường bị dời đến ở một ngôi nhà ở bên ngoài. Lúc đó ông 24 tuổi. Tháng 4 năm 1735, vua anh Lê Thuần Tông mất. Trịnh Giang lập em Duy Phường là Lê Duy Thận làm vua, tức là Lê Ý Tông. Tháng 9 năm 1735, Trịnh Giang sai người thắt cổ giết Lê Duy Phường. Năm đó ông 27 tuổi. Đến năm Vĩnh Hựu thứ 6 (1740) thời vua Lê Ý Tông, Trịnh Giang bị truất, Trịnh Doanh lên làm Chúa, mới cho làm lễ chiêu hồn vua Vĩnh Khánh, táng ở xã Kim Lũ, huyện Thanh Trì (tục gọi làng Lũ, nay thuộc phường Đại Kim, quận Hoàng Mai, Hà Nội).]
[13. Lê Thuần Tông 黎純宗 (16 tháng 3 năm 1699 – 5 tháng 6 năm 1735) là vị Hoàng đế thứ 13 của triều Lê Trung hưng nước Đại Việt, đồng thời là Hoàng đế thứ 24 của nhà Hậu Lê, ông tên thật là Lê Duy Tường 黎維祥, 黎維祜, là con trai trưởng của vua Lê Dụ Tông và mẹ là Cung phi Trần Thị. Thời kì này, ông làm vua cũng chỉ là bù nhìn, triều đình trong tay Trịnh Giang. Thuần Tông ngôi khá ngắn ngủi chỉ được 4 năm, thọ 37 tuổi, mất tháng 4 năm 1735 và sau khi băng được quần thần dâng tôn thụy hiệu là Thuần Tông Giản Hoàng đế.]
[14. Lê Ý Tông 黎懿宗 (29 tháng 3 năm 1719 – 10 tháng 8 năm 1759), tên húy là Lê Duy Thận 黎維祳 hay Lê Duy Chấn, là vị Hoàng đế thứ 14 của nhà Lê Trung hưng và thứ 25 của nhà Hậu Lê, đồng thời vua Lê Ý Tông cũng là Thái thượng hoàng cuối cùng trong lịch sử Việt Nam.]
[15. Lê Hiển Tông 黎顯宗 (20 tháng 5 năm 1717 – 10 tháng 8 năm 1786), tên húy là Lê Duy Diêu 黎維祧, là vị hoàng đế áp chót của nhà Lê Trung hưng cũng như là thứ 26 của nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Ông ở ngôi từ tháng 5 năm 1740, sau khi Trịnh Doanh ép vua Lê Ý Tông nhường ngôi cho ông, đến ngày 17 tháng 7 năm 1786.Trong suốt thời gian trị vì ông chỉ dùng một niên hiệu là Cảnh Hưng. Ông là đích trưởng tử của vua Lê Thuần Tông, làm vua được 46 năm, thọ 69 tuổi, là vị vua ở ngôi lâu nhất và là vua thọ nhất của nhà Hậu Lê.]
[16. Lê Chiêu Thống 黎昭統 (1765 – 1793) hay Lê Mẫn Đế 黎愍帝, tên thật là Lê Duy Khiêm 黎維, khi lên ngôi lại đổi tên là Lê Duy Kỳ 黎維祁, là vị hoàng đế thứ 16 và là hoàng đế cuối cùng của Hoàng triều Lê nước Đại Việt, giữ ngôi từ cuối tháng 7 âm lịch năm 1786 tới đầu tháng 1 âm lịch năm 1789. Lê Duy Kỳ là cháu đích tôn của vua Lê Hiển Tông, ông lên ngôi trong bối cảnh quân Tây Sơn từ phương Nam tràn chiếm Bắc Hà, lật đổ chúa Trịnh. Triều đại của ông chứng kiến sự thay đổi lớn từ việc kết thúc các đời chúa Trịnh, đến sự phát triển của nhà Tây Sơn, và việc cầu viện nhà Thanh đem quân sang đánh Quang Trung với hy vọng trở lại ngai vàng.
Lê Chiêu Thống bị giới làm sử đời sau phê phán gay gắt vì việc ông rước quân Thanh vào nước ta.]
 
Chỉnh sửa cuối:

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,533
Động cơ
711,487 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
PHẦN DANH SÁCH CÁC CHÚA TRỊNH


Chúa​
Ở ngôi​
Đời hoàng đế​
Miếu hiệu​
Thụy hiệu​
Ghi chú​
Trịnh Kiểm鄭檢​
1545–1570
(25 năm)​
Lê Trang Tông (1533–1548), Lê Trung Tông (1548–1556), Lê Anh Tông (1556–1573)Thế Tổ
世祖
Minh Khang Thái vương
明康太王
Đương thời khi cầm quyền, ông không xưng là chúa nhưng được đời sau truy tôn là Minh Khang Thái vương. Do đó, ông không phải là vị chúa Trịnh đầu tiên.
Trịnh Cối
鄭檜
1570​
Lê Anh TôngKhông cóKhông cóNăm 1570, đầu hàng nhà Mạc, được Mạc Kính Điển phong làm Trung Lương hầu 忠良侯. Sau khi chết được Lê đế xá tội, truy tặng Thái phó, tước Trung quốc công 忠國公. Do đó, ông không được xem là chúa Trịnh đầu tiên.
Bình An vương Trịnh Tùng鄭松
1570–1623
(53 năm)​
Lê Anh Tông, Lê Thế Tông (1573–1599), Lê Kính Tông (1599–1619), Lê Thần Tông (1619-1643)Thành Tổ
成祖
Triết vương
哲王
Ông là vị chúa Trịnh đầu tiên trong lịch sử. Con thứ của Thế Tổ Minh Khang Thái vương Trịnh Kiểm.
Thanh Đô vương Trịnh Tráng 鄭梉
1623–1657
(34 năm)​
Lê Chân Tông (1643–1649), Lê Thần Tông (lần hai: 1649–1662)Văn Tổ
文祖
Nghị vương
誼王
Con thứ hai của Bình An vương Trịnh Tùng, cháu nội của Thế Tổ Minh Khang Thái vương Trịnh Kiểm.
Tây Định vương Trịnh Tạc鄭柞
1657–1682
(25 năm)​
Lê Thần Tông, Lê Huyền Tông (1662–1671), Lê Gia Tông (1671–1675), Lê Hy Tông (1675–1705)Hoằng Tổ
弘祖
Dương vương
陽王
Con thứ hai của Thanh Đô vương Trịnh Tráng, cháu nội của Bình An vương Trịnh Tùng, chắt của Thế Tổ Minh Khang Thái vương Trịnh Kiểm.
Định Nam vương Trịnh Căn鄭根
1682–1709
(27 năm)​
Lê Hy Tông, Lê Dụ Tông (1705–1729)Chiêu Tổ
昭祖
Khang vương
康王
Con trưởng của Tây Định vương Trịnh Tạc, cháu nội của Thanh Đô vương Trịnh Tráng, chắt của Bình An vương Trịnh Tùng.
An Đô vương Trịnh Cương鄭棡,
1709–1729
(20 năm)​
Lê Dụ Tông
(1705-1729)
Hy Tổ
禧祖
Nhân vương
仁王
Cháu chắt của Trịnh Căn, cháu nội của Lương Mục vương Trịnh Vịnh, con trai của Tấn Quang vương Trịnh Bính.
Uy Nam vương Trịnh Giang鄭杠
1729–1740
(11 năm)​
Lê Đế Duy Phường, Lê Thuần Tông (1732–1735), Lê Ý Tông (1735–1740)Dụ Tổ
裕祖
Thuận vương
順王
Con trưởng của Trịnh Cương, bị ép nhường ngôi và tôn lên làm Thái thượng vương năm 1740.
Minh Đô vương Trịnh Doanh鄭楹
1740–1767
(27 năm)​
Lê Ý Tông, Lê Hiển Tông (1740–1786)Nghị Tổ
毅祖
Ân vương
恩王
Con thứ của An Đô vương Trịnh Cương, em trai của Uy Nam vương Trịnh Giang.
Tĩnh Đô vương Trịnh Sâm鄭森
1767–1782
(15 năm)​
Lê Hiển Tông
(1740–1786)
Thánh Tổ
聖祖
Thịnh vương
盛王
Con trưởng của Minh Đô vương Trịnh Doanh, cháu nội của An Đô vương Trịnh Cương.
Điện Đô vương Trịnh Cán鄭檊
9–10/1782 (
1 tháng)​
Lê Hiển Tông (
1740–1786)
Xung Mẩn vương 沖愍王Con thứ của Tĩnh Đô vương Trịnh Sâm, cháu nội của Minh Đô vương Trịnh Doanh, chắt của An Đô vương Trịnh Cương. Bị phế làm Cung quốc công và mất sau loạn kiêu binh 1782. Sau khi mất được ban thụy là Trung Cần[3].
Đoan Nam vương Trịnh Tông鄭棕
10/1782–1786
(4 năm)​
Lê Hiển Tông
(1740–1786)
Linh vương
靈王
Con trưởng của Tĩnh Đô vương Trịnh Sâm, cháu nội của Minh Đô vương Trịnh Doanh, chắt của An Đô vương Trịnh Cương.
Án Đô vương Trịnh Bồng鄭槰
1786–1787
(1 năm)​
Lê Mẫn Đế
(1786–1789)
Con trưởng của Uy Nam vương Trịnh Giang, trốn mất tích sau 1787.
 
Chỉnh sửa cuối:

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,533
Động cơ
711,487 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Chưa xuất bản bác ạ, đăng cho các cụ OF "xài" trước.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,533
Động cơ
711,487 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
HỒI THỨ NHẤT
鄭宣妃寵冠後宮, 王世子廢居幽室.
Trịnh Tuyên phi sủng quán hậu cung, vương thế tử phế cư u thất
[Trịnh Tuyên phi được sủng ái đứng đầu hậu cung, Vương thế tử bị phế giam phòng kín]
--------------------
Kể về thời Hoàng triều nhà Lê, Trang Tông Dụ Hoàng莊宗裕皇帝 đế trung hưng tại Mã Tịch Giang馬漆江, khi ấy Thế tổ Minh Khang世祖明康, Thái vương Trịnh Kiểm太王鄭檢 làm phụ tá, giết giặc Mạc, trở về cố đô. Họ Trịnh thế tập vương vị, nắm giữ đại quyền, hoàng gia dần dần suy yếu, truyền đến thời Hiển Tông Vĩnh Hoàng đế顯宗永皇帝niên hiệu Cảnh Hưng景興, Thánh Tổ Thịnh Vương聖祖盛王 [Trịnh Sâm, được gọi là Thịnh Vương trong mục lục của một số bản khác] chuyên hành uy phúc [tự ý dùng quyền lực và ban phát ân huệ, tức là nắm giữ toàn bộ quyền hành, muốn làm gì thì làm], vua chỉ khoanh tay rủ áo mà thôi.
Thịnh Vương [Trịnh Sâm] là người cương minh anh đoán, trí tuệ hơn người, có văn tài võ lược, đọc rộng kinh sử, thích làm thơ phú. Khi đã nối ngôi, chật hẹp chế độ các triều trước [coi các chế độ triều đình trước đó là hẹp hòi và nhỏ bé] quốc chính triều cương, một phen chỉnh đốn, bọn gian tà bè đảng, lần lượt dẹp yên. Có chí một mình xoay chuyển trời đất [khuynh đảo thiên hạ], dẹp yên nước Chất [chỉ Hoàng Công Chất 黃公質, (31 tháng 1 năm 1706 - 21 tháng 3 năm 1769), là thủ lĩnh một cuộc khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài lớn giữa thế kỷ 18, chống lại triều đình vua Lê chúa Trịnh trong suốt 30 năm] và bình định vùng Ninh [Trấn Ninh, chỉ vùng đất căn cứ cuộc khởi nghĩa của Hoàng thân Lê Duy Mật黎維樒 (? – 1770) con thứ vua Lê Dụ Tông, Trấn Ninh là một vùng đất gồm các tỉnh Hủa Phăn, một phần Xiêng Khoảng của Lào thời Lê vẫn thuộc Đại Việt, sau bị Nguyễn Ánh cắt tặng Lào], quân vương sư đến đâu, không gì không thắng. Bấy giờ bốn phương yên ổn, kho tàng sung thực, Vương dần có lòng kiêu căng xa xỉ, phi tần thị nữ, tùy ý hưởng lạc.
Một hôm, Tiệp dư Trần Thị Vịnh陳氏詠, sai nữ tỳ Đặng Thị Huệ鄧氏蕙 mang hộp hoa đến trước ngự, nàng Đặng Thị người Phù Đổng扶董, sinh ra đã mắt phượng mày ngài, vô cùng xinh đẹp, Vương thấy thì ưa thích, nhân đó mà riêng tư với nàng. Từ đó dần được sủng ái, lời nói không gì không nghe theo, cùng Vương ở chung chính tẩm, như vợ chồng nhà dân thường. Xe ngựa quần áo, xa xỉ cùng cực, hơi có gì không vừa ý, thì làm ra vẻ tiều tụy, than khóc, để làm rối lòng Vương. Vương có một viên dạ minh châu, là vật thu được khi bình phương Nam [tháng 9 âm lịch năm 1774, Trịnh Sâm cử Hoàng Ngũ Phúc làm Bình nam thượng tướng quân, Bùi Thế Đạt làm phó tướng, thống lĩnh tướng sĩ 33 doanh cùng quân thủy, quân bộ các đạo Thanh, Nghệ, vùng đông nam, tổng số quân gồm ba vạn. Quân Trịnh lấy danh nghĩa giúp Nguyễn đánh Tây Sơn để tiến quân, quân Trịnh thắng quân Nguyễn và làm chủ Thuận-Quảng, đóng quân tại Phú Xuân] xâu vào khăn đầu của Vương để chơi. Đặng Thị đùa nghịch viên châu, Vương nói:
- Khéo nhẹ tay thôi, đừng để hạt châu bị trầy xước.
Đặng Thị bèn ném viên châu xuống đất mà khóc rằng:
- Vật gì thế này! Viên châu này chẳng qua là vào Quảng Nam lấy về đền cho Vương là được, Vương sao lại coi trọng của mà khinh người!
Bèn tự phế mình ở biệt cung, từ chối không gặp. Chúa nhiều lần nhún nhường để làm vui lòng, họ Đặng mới bắt đầu làm lành. Đến khi Đặng thị có thai, chúa sai người cầu trăm vị thần, khẩn mong sinh được thánh tử. Đủ tháng thì sinh con trai, chúa yêu quý nhất, đầy trăm ngày, chúa lấy tên riêng lúc nhỏ của mình là Cán檊 đặt cho, ý lấy sự giống mình vậy. Năm đó thi Hương trường thứ ba, đề thi là:
山川英毓,河海秀鍾 [Sơn Xuyên anh dục, Hà hải tú chung]
[Non sông hun đúc anh tài, sông biển tụ khí tốt lành]
Các quan văn võ, đón ý chỉ, cũng nhiều người lấy星輝海潤 [Tinh huy Hải nhuận] "sao sáng biển nhuận" làm lời chúc mừng. [Cán] Đầy một tuổi vóc dáng đầy đặn, khác người thường. Vừa biết nói, đối đáp rõ ràng, cử chỉ nghiêm chỉnh như người lớn. Các quan văn võ có người vào yết kiến, đều tiếp đón nghiêm túc. Hoặc cách một năm gặp lại, đều có thể nhớ tên họ, kể lại chuyện cũ. Chúa mệnh cho các quan văn làm bài tụng mười sáu chữ sai người vú em dạy dỗ, một lần nghe qua là thuộc làu, chúa càng thêm vui mừng thỏa mãn. Đặng thị do đó ngầm có ý cướp ngôi thế tử.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,533
Động cơ
711,487 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
1760343410807.png

Minh họa Trịnh Sâm
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,533
Động cơ
711,487 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Họa phẩm mô tả Tĩnh Đô vương Trịnh Sâm và Tuyên phi Đặng Thị Huệ thưởng trà tại Tả Vọng đình.
1760343473826.png

 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,533
Động cơ
711,487 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Lại nói Vương thế tử Trịnh Tông鄭棕, là con của Dương Thái phi楊太妃 sinh ra. Thái phi tên là Ngọc Hoan玉歡, người Long Phúc龍福, Thạch Hà石河 [nay là làng Long Phúc, xã Thạch Khê, huyện Thạch Hà, Hà Tĩnh]. Em gái bà là cung tần của Ân Vương恩王 [cha của Thịnh Vương, tức là Trịnh Doanh], sinh ra Thụy Quận công, được Ân Vương yêu quý nhất. Thái phi nhờ em gái mà được gặp chúa, từ khi vào cung về sau, ngày tháng trôi qua hiu quạnh. Bỗng đêm mộng thấy thần nhân ban cho một đoạn gấm vóc sặc sỡ, có vẽ đầu rồng, không biết điềm gì, đem kể cho người hầu là Khê Trung hầu溪忠侯 nghe, Khê Trung hầu biết đó là điềm sinh thánh tử. Ngày hôm sau chúa mệnh triệu cung tần Ngọc Khoan 玉寬vào hầu, Khê Trung cố ý làm sai, triệu Thái phi vào hầu, chúa thấy không vui, nhưng việc đã lỡ triệu, không đành lòng đuổi đi, gọi Khê Trung lại trách mắng. Khê Trung dập đầu tạ tội, kể lại đầu đuôi chuyện giấc mộng của Thái phi, tâu bày từng việc, chúa cũng im lặng không đáp. Thái phi một lần chịu ơn mưa móc, liền mang thai, đến kỳ sinh hạ được con trai. Chúa tự nghĩ đầu rồng có tượng bậc quân vương, nhưng rồng vẽ không phải rồng thật, lại có đầu mà không có đuôi, cũng không phải điềm lành hoàn toàn. Vả lại, em của Tiền triều Trịnh Cối Vương鄭檜王 là Trịnh Lệ鄭棣, cũng là người Long Phúc sinh ra [tức cùng quê với Dương Thái phi] [Dương Thái phi người Long Phúc, Thạch Hà], đều mưu nghịch mà không thành, [Chúa Trịnh Sâm] lòng không vui lắm. Văn võ bái hạ [khi Trịnh Tông ra đời], Chúa lấy cớ không phải do đích mẫu sinh ra, từ chối không nhận lời chúc mừng.
Đến khi [Thế tử Trịnh Tông] lớn lên, dung mạo tuấn mỹ, mà Chúa không mấy yêu quý. Thế tử tính thích võ, không thích học, năm bảy tuổi, Chúa mệnh cho Tiến sĩ khoa Canh Thìn là Nguyễn Khản阮侃 làm Tả Tư giảng, Tiến sĩ khoa Kỷ Sửu là Trần Thản陳坦 làm Hữu Tư giảng, Thản không lâu sau mất, Khản vì nắm quyền bính, ra vào trong ngoài, cũng không đúng lúc đến giảng, chỉ có năm sáu người tùy tùng giảng, khuyên học cho xong chuyện. Chúa hơi biết điều đó, càng không vui, theo lệ cũ Vương thế tử năm mười hai tuổi, ra ở Đông cung, bấy giờ quần thần xin, Chúa không cho phép, chỉ cho ở nhà dinh thự của A bảo Huân Quận công阿保焮郡公, Đông cung bỏ trống, như thể còn chờ đợi điều gì vậy. Đến khi Thế tử mười lăm tuổi, con trai nhỏ là Cán ra đời, Chúa yêu quý con nhỏ. Sau ba năm, Thế tử mười tám tuổi, theo lệ cũ được mở phủ [nghĩa là có dinh thự và bộ máy hành chính riêng của Thế tử], bấy giờ quần thần không ai dám nói, mà Chúa cũng không nhắc đến. Bởi vậy ngôi vị kế thừa chưa định, lòng người không nhất trí, những ai thuộc về Thế tử thì phụ theo Thế tử, phe cánh họ Đặng thì phụ theo Vương tử Cán, dần dần nảy sinh cục diện đối địch nhau. Họ Đặng tự cho rằng Thế tử tuổi đã lớn, cánh vây đã thành, mà con trai Cán còn nhỏ, càng thêm mưu tính tự bồi đắp thế lực.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,533
Động cơ
711,487 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Lúc bấy giờ, Huy Quận công Hoàng Tố Lí 黃素履 [tức là Hoàng Đình Bảo] có uy tín lớn, thường dựa vào Đặng Thị để được nâng đỡ, còn Đặng Thị cũng dựa vào Huy Quận để làm chỗ dựa. Huy Quận là bề tôi trung thành của triều đình, lại là cháu của Bình Nam Thượng Tướng Quân Hoàng Ngũ Phúc. Người này phong thái thanh nhã, có đủ tài văn võ. Ban đầu, ông thi đỗ giải nguyên trong khoa Ất Dậu kỳ thi Hương, sau đó lại thi đỗ tiến sĩ khoa Bính Tuất. Lúc ấy, Ân Vương (Trịnh Doanh) rất coi trọng Hoàng Ngũ Phúc, nên gả con gái thứ hai cho Huy Quận. Uy quyền của Hoàng Ngũ Phúc ngày càng lớn, khiến người đời sinh lòng ngờ vực không thể đo lường được, đều bàn tán rằng:
– Quận Hoàng sẽ chiếm lấy thiên hạ.
Tin đồn lan đến tai Huy Quận. Khi tra các sách sấm truyền, thấy có câu:
- Nhất Thỉ trục quần Dương 一豕逐群羊 [Một con heo đuổi đàn dê].
Người ta hiểu rằng: vua và Thái tử đều chưa được thiên mệnh, mà thiên ý đã thuộc về Huy Quận. Có kẻ còn bịa ra lời sấm:
- Thảo nhất điền bát草一田八 [Cỏ một ruộng tám], ám chỉ chữ “Hoàng” 黃
Lại có câu:
- Thổ tích Vân gian nguyệt, Hoàng hoa ánh nhật hương” 土疋雲間月, 黃華映日香 [Đất với tấm vải dưới trăng, hoa Hoàng nở rộ dưới ánh mặt trời].
“Thổ tích nguyệt” 土疋月 ghép lại thành chữ “Tế” 婿 – tức phò mã.
“Hoàng hoa nhật” 黄华日 ghép lại thành chữ “Diệp” 曄 – tức Diệp Quận (Hoàng Ngũ Phúc).
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,533
Động cơ
711,487 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
1760343683170.png

Minh họa Trịnh Tông bị cha thất sủng
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,533
Động cơ
711,487 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Lại nữa, tên cũ của Huy Quận là Đăng Bảo登寶, người đời cũng đem ra bàn tán. Vì vậy, Hoàng Diệp cảm thấy nghi ngại về những biểu hiện đáng ngờ, bèn sai Huy Quận đổi tên thành Tố Lí. Sau đó, Hoàng Diệp tự xin từ chức vì bệnh mắt, chuyện này không được đề cập nhiều nữa.
Trở lại năm Giáp Ngọ [1774], Diệp Quận (tức Hoàng Diệp) được lệnh tiến hành chiến dịch Nam chinh, mang theo Huy Quận (Hoàng Tố Lí) đi cùng. Huy Quận vốn thông thạo binh pháp do Diệp Quận truyền dạy, được các tướng sĩ kính nể; lại giỏi dùng người, nên hào kiệt đều sẵn lòng theo giúp, nhiều lần đánh bại quân địch lập công lớn, danh tiếng ngày càng vang dội. Khi Thuận Hóa bình định xong, Diệp Quận qua đời. Chúa Trịnh liền cử Huy Quận thay thế, nắm giữ đội quân cũ của Diệp Quận, làm trấn thủ đất Nghệ An. Tại chức trấn thủ, Huy Quận dẹp giặc cướp, cấm đúc tiền tư, kiềm chế cường hào, ngừng kiện tụng vô lý, khiến trong vùng yên ổn thái bình. Ông thu dụng nhân tài, phân bổ chức vụ rõ ràng, dưới quyền có các chức như Tả hữu tham quân, v.v… Do đó, dân gian xôn xao đồn rằng:
– Huy Quận sẽ nổi loạn.
Chúa Trịnh mỗi ngày lại bàn bí mật với những cận thần như Nguyễn Khản, cùng Thế tử A Bảo Hưng Quận công và Nguyễn Đĩnh阮挺 để tìm cách trừ khử. Họ dùng từ ẩn ngữ gọi Huy Quận là ‘chữ thập’ 十, vì chữ ‘thập’ gần giống với chữ ‘Nghệ’ 乂, ý chỉ nơi ông trấn thủ là Nghệ An. Cuộc bàn mưu thường được giữ kín, chỉ có Đặng Thị biết rõ. Công chúa mà Huy Quận lấy thường xuyên ra vào phủ Đặng, phục vụ ả. Đặng Thị bèn kể hết mọi việc cho công chúa nghe. Huy Quận trong lòng bất an, liền tấu xin về triều, chúa đồng ý. Huy Quận suy nghĩ: tuy Đặng Thị được sủng ái, nhưng con trai còn nhỏ, trong khi Thế tử đã trưởng thành. Nếu cứ dựa vào Đặng Thị, e không bền lâu. Vì vậy, sau khi về triều bèn đem châu báu hối lộ các cận thần của Thế tử, mong được thân thiết. Rồi lại chuẩn bị một trăm lượng vàng, mười tấm lụa Nam Kinh, làm lễ vật đến yết kiến Thế tử. Nhưng Thế tử từ chối nhận lễ vật và không tiếp kiến, còn nói riêng với những người hầu cận rằng:
– Tên phản tặc này tại sao không ở lại trấn thủ mà nổi loạn, lại vội vã xin hồi triều? Sau này ta sẽ tịch thu gia sản nó, đâu cần cái lễ vật này!
Huy Quận tự hiểu mình không thể được Thế tử tha thứ, bèn quyết tâm liên kết chặt chẽ với Đặng Thị, âm thầm nuôi ý định đổi ngôi Chúa, dâng nhà riêng của Diệp Quận trước đây để làm phủ cho Vương Tử Cán (con Đặng Thị). Từ đó, Huy Quận chính thức trở thành người thân tín của Đặng Thị. Còn Đặng Thị, cũng hết lời bảo vệ Huy Quận trước mặt chúa. Nhờ thế, Huy Quận được vào triều làm quan to, mở doanh trại Trung Nhuệ中銳, quản lý công việc triều đình, đồng thời giữ chức trấn thủ Sơn Nam từ xa. Với sự hậu thuẫn của Đặng Thị, Huy Quận nắm quyền lực trong ngoài, ảnh hưởng lan rộng khắp thiên hạ. Các tướng lĩnh võ thần như cai kỳ trấn thủ, đều xuất thân từ cửa hạ của ông. Chỉ có Sơn Tây trấn Hồng Lĩnh hầu Nguyễn Khản山西鎮鴻嶺侯阮侃, giữ vai trò Tả Tư giảng của Thế tử世子左司講, và Kinh Bắc trấn là Tuân Sinh hầu Nguyễn Khắc Tuân阮克遵, là thế tử A Bảo世子阿保 và con nuôi của Hân Quận công焮郡公, đứng về phía Thế tử, đối lập với Huy Quận. Từ đó, phe cánh đối lập hình thành rõ rệt.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,533
Động cơ
711,487 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Nói lại chuyện Thế tử [Trịnh Tông], từ khi Vương Tử Cán [con Đặng Thị] ra đời, lòng rất uất ức [nguyên văn: 懣懣Mẫn mẫn: Uất ức, buồn bực] lo sợ không được lập làm người kế vị, bèn cùng với các gia thần tiểu thụ [小豎 gia thần nhỏ, kẻ phục vụ gần gũi], là Thế Thọ勢壽, Thẩm Trù審籌, các nho sinh như Đàm Xuân Thụ譚春樹, và những kẻ xuất thân tạp lưu [雜流出身tạp lưu xuất thân: xuất thân thấp kém, không rõ lai lịch] như Vĩnh Võ永武, ngày đêm bàn tính nhưng chưa biết làm thế nào. Lúc ấy, chúa Trịnh [Sâm] vừa bị bệnh cũ tái phát, tình hình khá nặng. Một hôm, Thế tử mơ thấy mình mặc áo màu quý sắc, đầu đội mũ có chữ đinh丁, đứng ở chính đường phủ chúa. Sáng hôm sau, bảo với các gia thần rằng:
– Ta mơ thấy như vậy, đó là áo phục tang chế thời quốc quân băng hà. Không lâu nữa, trong cung sẽ có biến, ta phải sớm liệu kế.
Phe phe cánh nhỏ bé liền xin được ngầm sửa soạn binh khí, thu dụng dũng sĩ, chờ đến lúc trong cung xảy ra bất trắc thì đóng cửa thành, giết chết Huy Quận, Đặng Thị và Vương Tử Cán, khiến chúng không thể lên ngôi; rồi sai người ngựa nhanh báo tin cho hai trấn Tây Bắc, đưa quân vào kinh để áp đảo các đại thần, giúp Thế tử giữ được ngôi. Thế tử nghe theo kế ấy, công khai tuyên bố sẽ có lệnh Nam chinh, nhân đó bí mật sai người báo tin cho Khê Trung hầu, gửi một nghìn lượng bạc, giao cho Đàm Xuân Thụ chia cho các người liên quan, âm thầm sắm sửa vũ khí. Lại bí mật thông báo cho các viên chức trấn thủ Tây Bắc, kêu gọi nghĩa dũng, sắp xếp xong xuôi thì vừa lúc chúa bệnh khỏi, việc này bị rò rỉ ra ngoài.
Có người tên Tằng Phát – Nguyễn Huy Bá曾發阮輝伯, vốn tính tình gian hiểm, thường báo cáo việc riêng để cầu quan chức. Năm trước, y đã từng tố giác Nguyễn Huy Cơ阮輝基 và Thuỵ Quận công瑞郡公 mưu phản, nhờ đó được tiến cử. Nay đang bị cho về trí sĩ, nên rất mong được trọng dụng. Y bèn sai con dâu trưởng vào làm cung nữ cho phủ Đặng Thị, thường xuyên thu thập tin tức về việc Thế tử chơi bời, nói lại với Đặng Thị để lấy lòng. Y còn ngấm ngầm sai thân tín trà trộn vào dinh hạ của các quan trấn Tây Bắc để do thám. Khi nắm được đại lược âm mưu, y liền vào mách với Đặng Thị. Đặng Thị đem sự tình bàn bạc với Huy Quận, Huy Quận dạy cách viết tấu trình kín, tự mình mang theo người vào trong phủ chúa, đợi khi mọi người lui hết mới trình lên. Chúa xem xong nổi giận, định giao người xử lý gấp. Huy Quận can rằng:
– Thế tử quả thật có lỗi, nhưng dám làm điều lớn như vậy, thực ra là do hai viên quan trấn Tây Bắc chủ mưu. Nay cả hai đều cầm quân đóng ở ngoài. Nếu vội vàng xử trí, e sẽ sinh biến loạn khác. Chi bằng trước hết triệu họ về kinh, giam giữ tại phủ, rồi mới công bố tội trạng mà trị tội.
Chúa nghe theo:
– Phải!
Sáng hôm sau, chúa triệu Thế tử vào, giả vờ trách vì học hành cẩu thả, rồi lệnh cho về ở trong ba gian nhà tại Trạch Các [澤閣Trạch Các: nơi giam giữ hoàng tử phạm lỗi]. Đồng thời bổ nhiệm Nguyễn Nhân阮 đậu tiến sĩ khoa Bính Tuất làm Tả Tư giảng, Nguyễn Quân阮昀 đậu tiến sĩ khoa Mậu Tuất làm Hữu Tư giảng, đồng thời triệu hồi hai viên quan trấn Tây Bắc về kinh.
Việc này xảy ra vào ngày Rằm tháng Tám năm Canh Tý – niên hiệu Cảnh Hưng.
[Vụ án năm Canh Tý: Vụ án năm Canh Tý xảy ra vào tháng 9 năm Canh Tý (1780). Đây là một vụ án lớn đã xảy ra ngay trong phủ chúa Trịnh, mà bên nguyên đơn là Nguyễn Huy Bá, người theo phe Tuyên Phi Đặng Thị Huệ; và bị can là Trịnh Khải (còn có tên là Tông, con trưởng của Tĩnh Đô vương Trịnh Sâm), cùng với một số đại thần đương thời. Theo sử Việt thì vụ án này đã làm cho nội bộ nhà Lê - Trịnh ở Đàng Ngoài thêm rạn nứt, thêm suy yếu. Nguyên nhân vụ án là do Trịnh Khải là con trưởng đã lớn dẫu vậy nhưng ngôi Thế tử vẫn bị bỏ ngỏ mà trong khi đó chúa Trịnh Sâm lại hết mực cưng sủng Đặng Thị Huệ và con trai Trịnh Cán. Vì vậy Trịnh Khải lo sợ một ngày không xa cha sẽ sắc phong Trịnh Cán làm Thế tử chứ không phải mình. Vả lại, khi đó lại có tin đồn rằng chúa Trịnh Sâm đang bị bệnh rất nặng, nên Trịnh Khải nghĩ rằng phải gấp rút hành động để giành thế chủ động vốn thuộc về mình trước phe Tuyên phi.
Trịnh Khải bàn mưu với gia thần là Đàm Xuân Thụ, Thế Thọ, Thẩm Thọ và Vĩnh Vũ bí mật sắm sửa vũ khí, chiêu tập dũng sĩ, để chờ thời cơ giết chết Đặng Thị Huệ và Hoàng Đình Bảo. Ngoài ra, Trịnh Khải còn ngầm liên kết với Trấn thủ Sơn Tây là Hồng lĩnh hầu Nguyễn Khản, Trấn thủ Kinh Bắc là Tuân sinh hầu Nguyễn Khắc Tuân để sẵn sàng hỗ trợ việc tranh ngôi Thế tử của mình.
Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục, có kể rằng: Quan Đốc đồng Kinh Bắc là Ngô Thì Nhậm từng giữ việc ngày ngày giảng sách cho (Trịnh) Khải, cũng rất được Khải thân yêu. Tên đầy tớ, cũng là học trò của (Thì) Nhậm lúc này đang giữ sách cho Khải là Hà Như Sơn biết được cơ mưu trên, bèn nói với Nhậm.
Bấy giờ có viên Cấp sự trung là Nguyễn Huy Bá, vốn tính ưa giảo hoạt, từng vì tội tham ô mà bị bãi chức. Bá cho con dâu vào thị tì, hầu hạ Đặng Thị (Huệ), lại còn sai người thân tín vào cầu cạnh để làm môn hạ của Nguyễn Khắc Tuân (là người đối nghịch với phe Đặng Thị Huệ). Nhờ kẻ thân tín này, mà Bá dò biết được cơ mưu, liền tố cáo ngay với Đặng Thị (Huệ). (Ngô Thì) Nhậm cũng phụ họa với Đặng Thị, bèn cùng với Bá hợp mưu tố cáo rằng Khải đã lén lút liên hệ với hai viên trấn thủ (Sơn Tây & Kinh Bắc) để làm chuyện phản nghịch. (Trịnh) Sâm giận lắm, cho triệu (Hoàng) Đình Bảo vào phủ bàn việc này.
(Trịnh) Sâm muốn trị tội ngay, song (Hoàng) Đình Bảo can rằng: "Sở dĩ (Trịnh) Khải dám làm chuyện ghê gớm này, chung quy cũng vì có hai viên trấn thủ Sơn Tây & Kinh Bắc chủ mưu. Nay, cả hai người này đang cầm quân ở ngoài, nếu vội vàng trị tội thì sợ là sẽ có biến cố khác. Vậy chi bằng hãy triệu hết hai viên trấn thủ ấy về triều rồi hãy trị tội cũng không muộn". (Trịnh) Sâm cho lời ấy là phải.

Nghe theo lời bàn của Hoàng Đình Bảo, chúa Trịnh Sâm bèn hạ lệnh triệu hồi Nguyễn Khản về kinh, rồi cho bí mật bắt hết bè đảng của viên trấn thủ này. Đồng thời, chúa cũng cho triệu Nguyễn Khắc Tuân về triều. Sau khi giam tất cả lại, chúa sai Ngô Thì Nhậm cùng viên hoạn quan là Phạm Huy Thức cùng lo việc tra khảo. Bất ngờ, cha Ngô Thì Nhậm là Ngô Thì Sĩ mất, nên ông phải về chịu tang, nên chúa dùng Lê Quý Đôn để thay.
Kết cục, theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục, thì: Đàm Xuân Thụ, Thế Thọ, Thẩm Thọ và Vĩnh Vũ đều bị giết. Nguyễn Khản, Nguyễn Khắc Tuân đều bị giam vào ngục, còn Nguyễn Phương Đính (hoặc Định) bị kết tội nuôi dưỡng Trịnh Khải không nên người, bị lột hết chức tước và đuổi về làng. Sau, Nguyễn Khắc Tuân và Chu Xuân Hán đều uống thuốc độc mà chết. Riêng Trịnh Khải bị phế, chỉ được ở ngôi nhà ba gian, ăn uống đi lại đều không được tự do.
Sách Lê Quý dật sử do Bùi Dương Lịch soạn, còn cho biết người nhũ mẫu của Trịnh Khải là Thị Quỳnh (vợ của người lính Sơn Tây là Quỳnh Tài, nhờ có nhiều sữa tốt, nên được làm vú nuôi) chạy trốn ở Sơn Tây, vào làm bà vãi ở chùa, (cũng) bị lính đuổi theo, bắt được giải về kinh, chúa cho voi đực dày xéo.
Ở sách này, chỉ ghi ba đại thần theo phe Trịnh Khải đều phải mất mạng, đó là: Khê trung hầu, Tuân sinh hầu (Nguyễn Khắc Tuân) đều uống thuốc độc tự tử, Nguyễn Quốc Tuấn (thuộc hạ của Khắc Tuân) bị án chém; còn Trịnh Khải bị quản thúc ngặt trong một ngôi nhà ba gian.
Thấy nhiều người bị án, ai nấy đều ái ngại nhưng không dám nói ra. Bấy giờ, chỉ có viên Tri châu là Lê Vĩ, dâng thư xin tội cho Trịnh Khải, nhưng thư ấy không được chúa Trịnh Sâm xem xét. Ngay trong năm này, mặc dù Trịnh Cán chỉ mới 4 tuổi vẫn được lập làm Thế tử, và Quận Huy được cử làm A phó để phò tá.
Vụ án năm Canh Tý đã làm cho triều đình Lê-Trịnh bị tổn thất nhân sự, nội bộ nhà Lê - Trịnh thêm rạn nứt và suy yếu. Phe Trịnh Khải thất thế và phe Đặng Tuyên phi - Trịnh Cán thắng thế. Tuy nhiên, cục diện này không duy trì lâu, chỉ 2 năm sau, Trịnh Sâm chết, phe Trịnh Tông lại trỗi dậy, xảy ra loạn kiêu binh giết quận Huy và lật đổ Trịnh Cán, sau đó còn làm hỗn loạn và khổ sở cho rất nhiều người trong suốt mấy năm liền, khiến Bắc Hà thêm suy yếu.
Đốc đồng trấn Kinh Bắc Ngô Thì Nhậm có phải là người đồng tố giác việc mưu sự của phe Trịnh Khải hay không, vẫn còn là một nghi vấn trong sử Việt. Kết tội Ngô Thì Nhậm, có Khâm định Việt sử thông giám cương mục. Sách này chép:
Trước khi Ngô (Thì) Nhậm tố cáo cơ mưu của Trịnh Khải, có đem bàn với cha là Ngô (Thì) Sĩ. Ngô (Thì) Sĩ cố sức ngăn... Đến khi hay tin Ngô (Thì) Nhậm đã tố cáo, Ngô (Thì) Sĩ buồn bực mà uống thuốc độc tự tử. Ngô (Thì) Nhậm, vì có công tố giác, được thăng làm Hữu Thị lang bộ Công, nhưng thiên hạ lúc ấy lại có câu rằng: "Sát tứ phụ nhi Thị lang", nghĩa là "giết bốn người cha mà làm Thị lang".
Và sách Lê Quý dật sử:
... (Ngô Thì) Sĩ thấy con bè đảng xu phụ Tuyên Phi (Đặng Thị Huệ), vu khống Thế tử, ông bất bình, ra sức khuyên ngăn, nhưng (Ngô Thì) Nhậm không nghe, ông phẫn uất uống thuốc độc tự tử... (Sau vụ án) cất nhắc Ngô Thì Nhậm làm Công bộ tả thị lang, vì tố cáo Thế tử (Trịnh Khải) nên được ban thưởng, thăng vượt cấp bảy lần.
Bênh vực ông, có Hoàng Lê nhất thống chí này. Theo sách này thì chỉ có một mình Nguyễn Huy Bá đứng ra tố giác. Sách này còn kể Nhậm đã có lời khuyên Nguyễn Khắc Tuân phải hỏa tốc về kinh can ngăn Trịnh Khải dừng lại cơ mưu, nhưng không được nghe. Đến khi ông Tuân bị bắt giam, ông Nhậm định tìm cách gỡ tội, nhưng vì việc tang nên phải về. Tuy nhiên người đương thời là Phạm Đình Hổ cho rằng Ngô Thì Chí khi viết Hoàng Lê nhất thống chí đã che đậy cho Ngô Thì Nhậm:
Năm Canh Tý phát ra cái án của Thế tử là do Ngô Thì Nhậm.Thì Nhậm nhờ công ấy được thăng làm Công bộ thị lang. Người thời bấy giờ có câu: "Giết bốn cha mà được thị lang, trung cần chí hiếu". Cái lỗi của Thì Nhậm, dư luận không dung thứ. Khi em là ông Thì Chí vào làm Thiêm tri hình phiên, có soạn bộ sách Nhất thống chí; chép về cái mật án ấy, cũng có che đậy đi ít nhiều. Nhưng về những việc trong cung phủ thì chép được tường lắm, không nên nhất nhất đều chê cả.
Năm Nhâm Dần (1782), quân ưu binh giết Hoàng Đình Bảo, bỏ Trịnh Cán và Đặng Thị Huệ, lập Trịnh Khải lên làm chúa. Bị cho là người có liên quan đến vụ án Canh Tý, Ngô Thì Nhậm phải trốn về quê vợ ở Bách Tính, Nam Định (nay là Bách Tính, Nam Hồng, Nam Trực, Nam Định) lánh nạn, rồi theo giúp nhà Tây Sơn. Chính vì vậy, có người cho rằng sử nhà Nguyễn và Lê Quý dật sử đều có cái nhìn không mấy thiện cảm về ông; còn sách Hoàng Lê nhất thống chí, các tác giả đều là người cùng họ Ngô Thì, nên có thể có thiên vị.]
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,533
Động cơ
711,487 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Trở lại chuyện Ngô Thì Nhậm吳時任, một gia thần của Thế tử, từng đậu tiến sĩ khoa Ất Mùi [1775], được bổ làm Đốc đồng trấn Kinh Bắc, rất thân thiết với Tuân Sinh hầu – viên trấn thủ Kinh Bắc, bất kỳ việc gì trong trấn đều bàn bạc với nhau, duy chỉ có chuyện mưu đồ của Thế tử thì không hề hé lộ. Trước đó vài ngày, có một tên gia thần nhỏ của Thế tử tên là Sơn Thọ山壽, từng là môn sinh của Ngô Thì Nhậm. Thế tử sai Sơn Thọ đem âm mưu kể lại cho Thì Nhậm nghe, đồng thời bí mật sai người đến thị trấn Lạng Sơn mua ngựa đỏ hùng dũng dùng vào việc binh. Ngô Thì Nhậm nghe xong vô cùng kinh ngạc, nói rằng:
– Thế tử là người thừa kế quốc gia, đất nước vốn là của Thế tử, há có sợ mất ngôi mà lại tính đến chuyện này? Chắc chắn là do đám nịnh thần dụ dỗ. Thế tử còn trẻ tuổi, tâm huyết sôi nổi, suy nghĩ chưa chín chắn. Chúa thượng sáng suốt, sao có thể giấu giếm được? Lo rằng tai họa sẽ bất ngờ ập xuống, khiến những kẻ làm tôi như chúng ta không còn chỗ đứng.
Liền vội vàng chạy đến gặp Tuân Sinh hầu, thuật rõ mọi việc, khuyên nên lén vào kinh thành tấu trình, can gián Thế tử, khiến ông từ bỏ ý định để ngăn chặn mối họa về sau. Nhưng Tuân Sinh hầu từ chối, nói:
– Chức phận nhỏ bé của tôi chỉ lo việc phòng thủ và điều tra, ngoài ra không liên quan. Việc này chẳng đáng để nhắc tới.
Ngô Thì Nhậm thở dài rồi ra về.
Vài ngày sau, quả nhiên nhận được lệnh triệu tập. Tuân Sinh hầu và Ngô Thì Nhậm lập tức lên đường. Đến khi vào kinh, thấy viên trấn thủ Sơn Tây và Hưng Quận công đã bị triệu hồi, đang đứng chờ xử tội ở Tả xuyên đường左穿堂. Tuân Sinh hầu xin vào yết kiến chúa tại điếm Quyển Bồng卷蓬店, nhưng chúa không tiếp, sai cận thần là Quyến Trung hầu眷忠侯 trách mắng rằng:
– Ông cùng Thế tử âm mưu phản loạn. Ông cứ ra ngoài lo việc quân, ta đã có tướng mạnh chống lại rồi.
Tuân Sinh hầu ra ngoài, gặp Ngô Thì Nhậm ở Tiểu Bút điếm小筆店, nắm tay than rằng:
– Tôi phục vụ chủ thượng [chúa Trịnh] từ khi còn trong bụng mẹ. Nay lại bị gọi là giặc. Hôm qua lời ông nói tưởng dễ dàng, ai ngờ hôm nay lại thế này! Biết phải làm sao đây?
Ngô Thì Nhậm cũng xúc động, không biết đáp sao.
Tuân Sinh hầu bèn viết sớ tấu, trình bày toàn bộ sự việc, nhờ Quyến Trung hầu chuyển lên. Nhưng chúa đang giận dữ, không thèm đọc, ra lệnh lấy sớ ra khỏi túi và xé ngay trước mặt Tuân Sinh hầu. Tuân Sinh hầu lặng lẽ nhặt tờ sớ rách rời rồi lui ra, kinh hoàng mất cả phương hướng, không biết phải nói gì. Viên trấn thủ Sơn Tây cũng càng thêm hoảng sợ, muốn kêu oan nhưng không dám tự mình trình bày, liền cùng nhau cầu khẩn Ngô Thì Nhậm rằng:
– Chúng tôi chức vị cao, dễ bị vu oan, nói gì cũng không được tin. Mong Ngài lấy những điều ngài biết, viết sớ tố cáo đám nịnh thần, hy vọng rửa sạch oan khuất, Thế tử cũng được yên ổn.
Ngô Thì Nhậm đành miễn cưỡng nghe theo. Không ngờ, khi chúa xem sớ, càng thêm tức giận, nói:
– Quả nhiên như lời người ta nói, không phải là vu oan!
Liền sai Ngô Thì Nhậm cùng Đường Trung hầu堂忠侯 điều tra vụ việc. Ngô Thì Nhậm và Đường Trung hầu muốn giải thoát cho Thế tử, nhưng cuối cùng vì việc cha mất mà xin từ chức, tránh xa vòng xoáy tranh đoạt. Chúa Trịnh lại sai Tham tòng Bảng nhãn – Nghĩa Phái hầu Lê Quý Đôn黎貴惇 thay mình điều tra. Sự việc cuối cùng được phơi bày rõ ràng. Chúa bèn triệu các đại thần vào nội điện, vừa khóc vừa nói:
– Quả nhân thật bất hạnh! Gặp phải đứa con bất hiếu, bề tôi bất trung, âm mưu phản nghịch. Việc làm của chúng giống như việc thái tử thừa thiên thời xưa, nhưng lòng dạ còn độc ác hơn nữa. Nay phải phế trưởng lập thiếu废长立少 [bỏ người lớn lập kẻ nhỏ, ý nói phế Tông lập Cán], thực tình không thể khác được. Xin các khanh hãy hiểu cho lòng ta, hãy xử theo quốc pháp.
Triều đình nghị án: tất cả những người phạm tội đều đáng bị xử tử, riêng Thế tử thì không dám tự ý luận định. Sau khi trình lên, chúa phê bằng bút tích riêng rằng:
– Theo phép Xuân Thu, tội này đáng trị theo mức nặng nhất. Nhưng niệm tình thân tộc, lòng không nỡ, nên chỉ nên giáng xuống làm con út, suốt đời giữ phận thần tử. Các bề tôi, duy có viên trấn thủ Sơn Tây và Khê Trung hầu từng phục vụ ta từ lâu ngày, có công lao, nên đặc xá, giam cầm mà thôi. Hân Quận công A Bảo vốn tính chất phác, không can dự, miễn chết, bãi chức, trở về dân thường.
Lệnh ban ra, Khê Trung hầu và Tuân Sinh hầu đều uống thuốc tự tử. Tuân Sinh hầu có một văn thư dưới trướng tên là Nguyễn Quốc Trấn阮國鎮 cũng bị liên lụy, xử tử. Trước lúc hành hình, y lớn tiếng mắng chửi:
– Trời không có mặt trời, triều đình không có quan chức chính trực, sao để Quốc Trấn mang nỗi oan này!
Rồi dặn người thân quen nhét bút và giấy vào ống tay áo, nói:
– Sống không rửa được oan, chết sẽ đi kiện nơi Âm phủ!
Người nghe ai cũng cảm thấy đau xót.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,533
Động cơ
711,487 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Sau khi Thế tử bị phế truất, chúa liền lệnh cho ở trong ba gian nhà tại Trạch Các, sai người canh giữ nghiêm ngặt. Mọi việc ăn uống, ra vào đều không được tự do; các gia thần cũ cũng không được phép lui tới. Từ đó, phe cánh Thế tử lần lượt tản mác chạy trốn, còn phe của Đặng Thị ngày càng lộng hành, từ quan to đến chức nhỏ ai nấy đều lại gần nịnh bợ, chúa cũng đối đãi với ả càng thêm trọng vọng. Đặng Thị bèn nhân cơ hội này xin vua gả công chúa [đúng ra phải là Quận chúa, vì dù sao chúa Trịnh vẫn dưới vua Lê một bậc, con gái chúa Trịnh không thể gọi là Công chúa được] Ngọc Lan 玉蘭公主cho em trai mình là Đặng Mậu Lân茂麟, chúa đành miễn cưỡng đồng ý.
Quận chúa tên là Ngọc Lan, hiệu là Xuyên栓, là người con gái mà chúa yêu quý nhất. Ban đầu, Chúa sinh hai quận chúa; Quận chúa trưởng là Ngọc Ánh玉映公主, hiệu là Thanh聲, đã lấy Trang Trung hầu Bùi Thế Toại 裴世遂 (con trưởng của Đoan Quận công Bùi Danh Đạt裴名達, nguyên trấn thủ Nghệ An). Quận chúa thứ hai là Ngọc Lan, vẫn chưa gả. Quận chúa tính tình hiền hậu, từ nhỏ sống trong Thuỷ Tinh Cung水晶宮, không chịu [được] gió nắng. Nơi ở của nàng, chúa dặn dò kỹ càng: các cung nữ phải nói khẽ để khỏi làm nàng giật mình. Khi trưởng thành, mỗi lần vào yết kiến, chúa đều bảo ngồi bên cạnh như hồi còn bé, mọi điều xin xỏ đều được chấp thuận. Các quan đại thần và con cháu công thần nhiều lần xin cầu hôn, nhưng chúa đều chưa chọn ai. Một lần, chúa hạ chỉ triệu tập văn võ triều thần và hậu duệ công thần vào lựa chọn, bảo quận chúa tự chọn người vừa ý để gả, nhưng nàng chẳng ưng ai. Nay Đặng Thị xin cho em trai, chúa muốn từ chối nhưng ngại mất lòng, đành bèn miễn cưỡng đồng ý.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,533
Động cơ
711,487 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
1760344073258.png


Minh họa quận chúa Ngọc Lan
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,533
Động cơ
711,487 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Nói lại về Đặng Mậu Lân, người này tính tình hung bạo, từ khi Đặng Thị được sủng ái, y yên chí dựa thế hoành hành. Xe cộ, áo mão đều giống như bậc quân vương. Y thường mang theo hàng chục tên tay chân, mỗi người đều mang đao thương, đi ngang dọc khắp kinh thành. Gặp xe ngựa nào, bất kể là ai, y cũng cố gây sự, đánh đập, sỉ nhục để lấy vui. Gặp phụ nữ trên đường, nếu thấy dễ coi, y lập tức kéo rèm xe, lôi vào trướng để giở trò đồi bại. Nếu nàng ấy chống cự, y liền cắt vú. Nếu chồng hay cha nàng ấy dám mở miệng, y liền đánh gãy răng, thậm chí đánh chết. Người đời sợ y hơn cả hổ báo, ngay cả chúa cũng biết rõ điều này. Sau khi hứa gả quận chúa, chúa lại suy nghĩ âu lo, vì nhớ rằng quận chúa tính tình yếu đuối, liệu có chịu nổi kẻ thô bạo như Mậu Lân? Ngày rước dâu về, chúa lấy cớ quận chúa chưa từng trải qua bệnh đậu, nên chưa cho động phòng. Chúa sai A Bảo cùng các cung nữ canh giữ quận chúa, lại sai nội quan Sử Trung hầu史忠侯giám sát, tuyệt đối không cho Đặng Mậu Lân chạm vào nàng.

1760344170718.png

Đặng Mậu Lân và lũ lâu la

Chính là:
少女芳心原不怯,今郎好事更多磨
Thiếu nữ phương tâm nguyên bất khiếp, Kim lang hảo sự cánh đa ma.
[Thiếu nữ phương tâm vốn chẳng sợ, Ai ngờ lang tử lắm tai ương.]
Chuyện sau ra sao, xin mời đón đọc hồi sau.
---------------------
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top