[Funland] Giới thiệu bản dịch mới sách: Hoàng Lê nhất thống chí.

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,536
Động cơ
711,984 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Lại nói về Thuận Hóa, từ năm Giáp Ngọ [1774] đã trở thành lãnh thổ của ta [tức triều Lê-Trịnh], triều đình xem Phú Xuân là trọng trấn cực biên, lưu lại ba nghìn quân đồn trú, ba vạn quân luân phiên thay đổi, đặt một Đại tướng và một Phó tướng, một Đốc thị và một Phó Đốc thị. Từ Ải Vân trở vào, các nơi hiểm yếu đều đặt đồn trại. Tuyển mộ dân để tăng binh, khai khẩn đất để tăng lương, thông thương buôn bán, khai thác lợi lộc từ núi biển, thi cử để chọn nhân tài, ban danh tước để thu phục lòng người, kiểm soát và quản lý mọi mặt đều chu đáo. Chỉ có Đại tướng Tạo Quận Công造郡公 [tức là Phạm Ngô Cầu], vốn là người nhu nhược, chỉ giỏi dùng lời nói để đối phó với người khác, còn khi đối mặt với biến cố hay khống chế tình hình thì không phải sở trường của ông ta. Trước đây, Đốc thị Nguyễn Lệnh Tân阮令賓 nhiều lần nói rằng Tây Sơn có thể gấp rút đánh chiếm, nhưng bị Tạo Quận Công gạt bỏ. Lệnh Tân tâu lên triều đình rằng:
- Tạo Quận Công vì hèn nhát mà làm hỏng mưu quốc, Thuận Hóa chắc chắn sẽ mất vào tay Tạo Quận Công. Xin bãi chức Tạo Quận Công và phong Phó tướng làm Đại tướng, may ra Thuận Hóa mới có thể giữ được.
Nhà Chúa thấy Thuận Hóa mới bình định, lại thích Tạo Quận Công hòa nhã, trầm ổn, nên bãi chức Đốc thị của Lệnh Tân và thay bằng người khác. Lúc bấy giờ, Bảng nhãn Lê Quý Đôn黎貴惇 sau khi khảo sát các ghi chép về sấm truyền liên quan đến Tây Sơn, tâu với nhà vua rằng:
- Tây Sơn có đất đế vương, đến năm thứ mười hai, thế lực của họ sẽ không thể ngăn cản. Đại tướng Thuận Hóa e rằng không phải đối thủ, xin nhà vua lưu ý.
Nhà Chúa cũng cho là quá lời, không mấy để tâm. Sau đó, biên giới không có việc gì, nam bắc đều yên ổn, Thuận Hóa trở thành một vùng đất thái bình.
Tháng Tư năm Bính Ngọ, bỗng có một thuyền khách buôn từ phương Bắc đến. Chủ khách vào yết kiến Tạo Quận Công, dùng thuật số nói rằng vận mệnh về cuối đời của Tướng công có phúc lộc không thể tả, nhưng tiểu hạn lại gặp xung, cần đề phòng nguy hiểm bệnh tật, nay đã vào hạ, nên tu sửa trai đàn cầu nguyện thì sẽ tốt. Tạo Quận Công tin lời, lập đại trai đàn, cầu nguyện bảy ngày đêm. Các quân sĩ đều phục dịch, ngày đêm không nghỉ. Bỗng nghe tin bộ binh giặc đã chiếm Ải Vân, tướng giữ Ải Vân là Quyền Trung Hầu權忠侯 đã tử trận, các đội thủy quân từ đường biển cũng kéo đến, chỉ trong chốc lát sẽ tới nơi. Tạo Quận Công hoảng hốt quay về thành, không biết làm gì. Các quân sĩ đã lâu ngày lao động mệt mỏi, bỗng nghe tin giặc, đều tan mật mất vía. Tạo Quận Công sai người tìm khách phương Bắc, nhưng đã không còn thấy đâu, lúc đó mới biết đó là một tên thám tử dùng mưu kế gian xảo.
Nguyễn Chỉnh阮整 khi ở Tây Sơn, biết Tạo Quận造郡 nhát gan lại lắm mưu mẹo, dụ hàng chưa chắc đã tin, bèn viết thư sáp, sai người mật báo cho phó tướng Thể Quận體郡 [Hoàng Đình Thể], nói rằng quân Tây Sơn rất sắc bén, mũi nhọn không thể chống đỡ nổi. Thể Quận vốn cùng Nguyễn Chỉnh đều là môn hạ của Huy Quận暉郡, nếu có thể lấy thành mà hàng, có thể giữ được giàu sang phú quý. Lại ngầm báo cho người đưa thư cố ý làm sai, để thư đến tay đại tướng Tạo Quận. Tạo Quận nhận được thư, giữ lại không công bố, ngầm có ý muốn đầu hàng. Chẳng bao lâu, quân địch kéo đến đông đảo, đại tướng và phó tướng họp bàn chống cự. Thì ra thành Phú Xuân富春 tựa sông, từ mặt nước giữa sông nhìn lên chân thành cao hơn hai trượng. Lúc đó, thủy quân địch từ dưới lên trên, ngửa bắn không tới thành, trong thành đóng cửa cố thủ, dốc toàn quân chống địch. Quân địch bộ binh lại vào thuyền truy đuổi bắn trả, không sót một chiếc nào, sĩ khí quân ta hơi được chấn hưng. Đêm đó, nước triều dâng cao, nước sông dâng vây quanh chân thành. Địch cho thủy quân bắn thẳng vào thành, lại cho bộ binh vây cổng thành. Đại tướng sai phó tướng cùng với thuộc hạ là Kiên Kim Hầu堅金俟 và những người khác ra thành đón đánh. Phó tướng có hai con trai, đều là liệt hiệu (quan binh cấp thấp), theo cha ra trận, dựa vào lũy mà bày trận, chống cự hơn một canh giờ, thuốc súng và tên đều hết. Phó tướng sai người vào thành xin tiếp viện. Đại tướng ngồi trên lầu thành, sai người đóng cửa lại không cho vào, nói:
- Đội quân nào đó, ngoài khẩu phần chế độ, đều đã có thuốc đạn riêng rồi, còn đi đòi hỏi ai nữa!
Phó tướng cả giận, nói với các tướng rằng:
- Tạo Quận phản rồi! Nay ta chém cửa mà vào, trước hết chặt đầu lão tặc này, sau đó mới ra trận!
Ông quay sang nhìn các con, nói:
- Các con hãy đương đầu cản địch, ta lát nữa sẽ ra.
Bèn thúc voi xông vào. Voi lùi lại, trận hình hỗn loạn, quân giặc thừa thế xông tới. Hai con trai của phó tướng phóng ngựa ra trận, vung đao giết được vài trăm người. Quân địch kéo đến đông hơn, chặt chân ngựa, ngựa ngã, hai người đi bộ vẫn giết được vài chục người. Bị thương nặng, sức yếu, họ kêu cha cứu, phó tướng vội thúc voi quay lại cứu, thì lúc đó hai con trai đã bị đao chém chết tại trận, Kiên Kim Hầu cũng tử trận. Phó tướng thu quân, muốn bày trận khác, ngoảnh đầu lại thì trên thành đã treo cờ trắng. Người giữ voi nhảy khỏi voi mà chạy trốn, giặc đuổi theo bắn voi, phó tướng chết trên yên voi. Đại tướng mở cổng thành, bày nghi trượng ra nghênh đón. Bình平 [Nguyễn Huệ] cho quân xông vào thành, đại sát không ngớt, Đốc thị Nguyễn Trọng阮仲 tử chiến, binh lính trấn thủ bỏ chạy ra ngoài thành, đều bị dân bản xứ giết sạch. Trong trận đó, hàng vạn sinh mạng ở Phú Xuân không còn sót một ai.

1760345724340.png
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,536
Động cơ
711,984 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Phú Xuân đã bị phá, Bình thừa thắng chia quân đánh lấy đồn Đồng Hải峒海屯. Tướng đồn là Vị Phái Hầu Diệp Đồng Ninh Tốn渭派侯葉同寧遜 nghe tin đã bỏ chạy, mất toàn bộ đất Thuận Hóa順化. Đó là ngày 14 tháng 5 năm Bính Ngọ, niên hiệu Cảnh Hưng景興. Bình chiếm được Thuận Hóa, họp các tướng bàn việc sửa chữa ranh giới cũ của sông La羅河, rồi dùng hịch báo tin thắng trận lên Tây Sơn Vương西山王.
Nguyễn Chỉnh nói:
- Minh công明公 [chỉ Nguyễn Huệ] nhận lệnh lấy Thuận Hóa, một lần ra quân là định xong, uy danh chấn động thiên hạ. Đạo dùng binh, một là thời, hai là thế, ba là cơ. Ba điều này nếu có thể nắm bắt, đi đâu cũng thắng. Nay tướng lĩnh Bắc Hà北河 lười biếng, quân lính kiêu ngạo, triều đình không còn kỷ cương, ta thừa thế mà lấy. Cái gọi là 'kiêm nhược công muội, thủ loạn vũ vong' [gom yếu đánh mờ, nhân loạn mà coi thường kẻ mất nước]. Cơ hội và thời cơ này không thể bỏ lỡ!
Bình nói:
- Bắc Hà là nước lớn, có rất nhiều nhân tài, tục ngữ có câu 'ong còn có độc', há có thể khinh suất được sao?
Nguyễn Chỉnh nói:
- Nhân tài Bắc Hà, chỉ có một mình thần thôi! Thân thần đã đi rồi, liền thành nước trống, công xin đừng nghi ngờ.
Bình vốn giỏi dùng lời nói để bẻ bẽ người khác, nói đùa rằng:
- Không nghi ngờ là ở người khác, chứ chẳng phải nghi ngờ ở công đấy ư!
Nguyễn Chỉnh biến sắc tạ tội, nói:
- Thần tự nhận mình ngu dốt, quá lời khi nói nước không có nhân tài vậy thôi!
Bình lại an ủi và giải thích cho ông, lại nói:
- Nước bốn trăm năm tuổi, ta một sớm cướp lấy, người đời gọi quân ta là gì?
Nguyễn Chỉnh nói:
- Nước thần có vua có chúa (còn gọi là vua và vương), đó là việc biến nghịch xưa nay. Trịnh Vương鄭王 danh xưng là "Phù Lê" (phò giúp nhà Lê), nhưng thực chất là khống chế thiên tử. Dân chúng từ trước đến nay đều không ưa Trịnh, mỗi lần anh hùng khởi sự đều không mượn danh hiệu tôn phò nhà Lê, nhưng vì vận số nhà Trịnh chưa dứt nên việc không thành. Nay trong sách Địa Ký chép rằng: 'Không vương không bá, quyền nghiêng thiên hạ, truyền hai trăm năm, trong nhà khởi hoạ'. Tính từ Thái Vương đến Tĩnh Vương đã đủ hai trăm năm. Nếu minh công thực sự có thể lấy danh nghĩa diệt Trịnh phù Lê, thì thiên hạ không ai không hướng phục, đây là công lao phi thường có một không hai.
Bình nói:
- Việc này rất hay, nhưng ta nhận lệnh chiếm Thuận Hóa, không phải nhận lệnh đánh nước người, sao lại làm trái đây?
Chỉnh nói:
- Kinh Xuân Thu truyện春秋傳 có câu: 'Làm trái nhỏ mà công lớn, ấy là có công, sao lại nói là trái?' Vả lại, công không nghe câu: 'Tướng ở ngoài, quân lệnh có khi không cần tuân theo' ư?
Bình là người anh minh, quyết đoán, nghe lời Chỉnh, rất hợp ý mình. Bèn cho Chỉnh dẫn quân tiên phong, vượt qua cửa biển Đại An安海門 [Cửa biển Đại An xưa, còn được gọi là cửa biển Thần Phù, là một cửa biển quan trọng trên tuyến đường thủy xưa, nằm ở khu vực giáp ranh giữa huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình và huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Ngày nay, cửa biển này đã bị bồi đắp bởi phù sa và trở thành một vùng đất cách bờ biển hơn 10km, thuộc địa phận xã Yên Lâm, Yên Mô, Ninh Bình và Nga Điền, Nga Sơn, Thanh Hóa], trước hết chiếm lấy kho lương Vị Hoàng渭潢 [Nam Định], còn mình thì dẫn thủy quân theo sau, hẹn Chỉnh khi đến Vị Hoàng thì đốt lửa hiệu làm tin.
Bố trí đã định, Chỉnh dẫn binh xuất phát trước, đi qua Nghệ An, Thanh Hóa, mỗi nơi chia ra mấy trăm quân du kích, làm ra vẻ uy thế dồn ép. Trấn thủ Nghệ An là Đang Trung Hầu鐺忠侯 [Bùi Thế Toại], trấn thủ Thanh Hóa là Thùy Trung Hầu垂忠侯 [Tạ Danh Thuỳ], đều bỏ thành mà chạy.
Ngày mùng 6 tháng 6, Chỉnh đến Vị Hoàng, tướng giữ đồn mới nghe tin đã bỏ chạy, hàng triệu hộc lương thực đều bị Chỉnh thu được. Chỉnh đốt lửa hiệu làm tin, Bình thấy hiệu lửa, lập tức tự mình dẫn một nghìn thuyền từ biển mà ra. Dân bản xứ Nghệ An leo núi, nhìn ra biển thấy thuyền lầu cờ xí, than rằng:
“Tục ngữ có câu: 'Rắn cắn gà nhà'. Họ quả thực có tội, nhưng đây cũng là việc làm ngàn đời có một.
Chỉnh ở Vị Hoàng hội quân với Bình, thế lực càng mạnh, những kẻ phản bội trong nước thường báo tin trước cho quân Chỉnh, đem hết tình hình quốc gia cho địch. Mà tình hình hư thực của địch thì triều đình hoàn toàn không hay biết. Trước đó, khi Phú Xuân thất thủ, tin biên cảnh về đến kinh, những người bàn bạc đa số nói rằng Thuận Hóa vốn không phải đất của triều đình, tiên triều hao phí quốc lực mà chiếm lấy, lại tốn công trấn giữ, rốt cuộc không ích lợi gì, nay mất đi, cũng là một điều may. Chỉ cần bàn tính việc đóng quân ở Nghệ An như cũ, xác định lại biên giới cũ, ta coi việc mất Thuận Hóa là điều may, họ ắt sẽ lấy việc xâm phạm ta làm bài học răn đe, chắc không cần lo lắng. Thế là trên dưới đều yên tâm. Sau đó, chợt nghe tin trấn Nghệ An thất thủ, quân địch sắp đến, bấy giờ mới cuống cuồng mất vía. Liền lấy Thái Đình Hầu泰亭侯 làm thống trấn, đem 27 kỳ hiệu, chống địch ở Nghệ An. Thái Đình Hầu nhận lệnh hơn mười ngày, chưa chỉnh đốn xong, đến khi ra khỏi thành nửa ngày, quân địch đã đến Vị Hoàng. Bèn sai Thái Đình Hầu đem binh chống giữ ở Sơn Nam, lại thêm Liên Trung Hầu Đinh Tích Nhưỡng丁錫壤 đốc suất thủy đạo, cùng các tướng Vệ Tả衛左, Vệ Hữu衛右, Ngũ Hầu五侯, Ngũ Thiện五善, Ngũ Trung Trạch五中擇 và các đội kỵ binh, thuyền binh cùng Thái Đình Hầu thủy bộ cùng xuất phát.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,536
Động cơ
711,984 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Khi ấy Chỉnh đang chống giữ thủy khấu [bọn cướp biển?] ở Hải Dương, đến lúc này thủy khấu và quân Nam hội lại, vẫn dùng Nhưỡng quay lại đối phó với đường phía nam. Nhưỡng là danh tướng đất Hàm Giang邯江 [Hàm Giang là tên một làng thuộc huyện Cẩm Giàng, nay là phường Quang Trung, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương], từ lâu có môn vọng, triều đình chuyên giao trách nhiệm thủy chiến cho Nhưỡng. Thủy quân của Nhưỡng quyết chiến ở Lục Môn綠門, giằng co với giặc. Lúc đó gió đông nam rất mạnh, giặc từ hạ lưu cho năm thuyền chiến làm tiền bộ tiên phong, giương buồm ngược dòng lên, đại quân theo sau từ từ tiến tới. Nhưỡng thấy thuyền tiên phong của giặc đến, liền cho thủy quân dàn ngang sông thành trận chữ "nhất". Ra lệnh cho các quân bắn súng Bảo Lân寶麟銃 vào thuyền giặc. Bắn một tiếng, thuyền giặc không động, Nhưỡng ra lệnh bắn lại, buồm thuyền đều cuốn vào, các quân đều mừng, cho rằng địch có ý sợ hãi. Nhưỡng ra lệnh bắn hết ba tiếng, quân giặc bắn một phát đại bác như sấm, viên đạn bay lên cây cổ thụ, gãy làm hai đoạn. Khi ấy Trướng Trung Hầu帳忠侯 xuất binh ở hai bên bờ, thấy đạn súng bay tới, kinh hoàng quá muốn vỡ trận, địch thừa thế bỏ thuyền lên bờ, quân của Trướng Trung Hầu đều bỏ chạy, địch tiến thẳng đến Hiến Doanh憲營 [Hiến Doanh thời Lê, một trung tâm thương mại sầm uất, tương ứng với khu vực phố Hiến ngày nay, thuộc thành phố Hưng Yên], Trướng Trung Hầu và Đốc Đồng Nguyễn Huy Bình阮輝平 một mình lẩn trốn, Thái Đình Hầu đóng quân ở Kim Động Khẩu金洞口 cũng tự tan rã mà bỏ chạy.
Lúc đó, biên thư báo cấp, các quan văn võ ở kinh thành, ai nấy lo liệu vợ con, cất giấu tiền của, không một ai dám tự mình nhận việc đánh giặc. Chúa thấy Tham Tụng Bùi Huy Bích裴輝璧 đã làm tể tướng lâu ngày mà vô dụng, đến lúc này lại không có một kế sách chế ngự nào, trong lòng rất chán ghét. Cận thần công kích càng dữ dội, bèn bãi chức tể tướng, cho ra làm đốc chiến. Tể tướng đã bị bãi, lòng người càng hoang mang, Chúa bèn triệu Công Xán公燦 mật nghị về việc chống địch hay tránh địch. Công Xán nói:
- Giặc hành quân sâu vào, không kiêng nể gì, nên dụ vào gần kinh đô, một trận mà tiêu diệt chúng, ấy cũng là một đạo dùng binh kỳ lạ. Vả lại, kinh sư là căn bản của thiên hạ, nếu bỏ đi thì sẽ đi đâu? Nếu ngự giá lúng túng xuất thành, lòng người sẽ tan rã, ấy là dâng cả nước cho địch. Nay chỉ nên xin Thái Phi và lục cung tạm thời ra khỏi thành mà thôi.
Chúa nghe theo. Chúa tự nghĩ trong số võ thần chỉ có Thạc Quận Công碩郡公 [Hoàng Phùng Cơ] là lão tướng đáng tin cậy, liền triệu về triều từ Sơn Nội. Thạc Quận Công lập tức dẫn 500 nghĩa dũng vào hộ vệ. Người dân kinh đô thấy Thạc Quận Công trở về, lòng người hơi yên ổn. Thạc Quận Công vào yết kiến, Chúa nói:
- Công bỏ quả nhân ư! Nay quốc thế như thế này, phải làm sao đây?
Thạc Quận Công khóc mà nói:
- Thần chịu ơn sâu của quốc gia, thề không cùng giặc sống chung. Cha con thần còn chín người, một trận quyết tử với thành, thần xin cầm roi theo dưới ngự giá của quân vương, vương đừng lo lắng.
Chúa bèn xuất năm nghìn lạng bạc, ban cho Thạc Quận Công làm quân phí, Thạc Quận Công bèn ra luyện binh, một ngày tập hợp được hơn một nghìn người, quân lính tinh nhuệ nhất, Chúa ra lệnh xuất thành đóng quân, Thạc Quận Công bèn xuất quân đóng tại hồ Vạn Xuân萬春湖 [Hồ Vạn Xuân có từ thời Tiền Lý, được cho là nằm ở xã Vạn Phúc, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Có tài liệu còn gọi hồ này là đầm Vạn Phúc]. Lúc ấy gió đông nam thịnh hành, chỉ có đường thủy là trọng yếu nhất. Thủy quân của Liên Trung đã bại, địch chiếm được một con đường sông Cái (Đại Giang) sạch sẽ, thẳng lên kinh kỳ. Chúa sai Tứ Thị Thủy四侍水 [viên quan trông coi quân thuỷ] là Bật Chúng畢眾 chống giữ ở cửa Thúy Ái翠靄口 [Cửa Thúy Ái, thời Lê, nằm ở vị trí thuộc vùng ven sông, là một "châu" (tương đương xã) thuộc tổng Thanh Trì, huyện Thanh Trì, trấn Sơn Nam Thượng (sau là tỉnh Hà Nội, rồi Hà Đông). Cụ thể hơn, vào đầu thế kỷ XIX, Thúy Ái là một đơn vị hành chính cấp xã thuộc tổng Thanh Trì, huyện Thanh Trì, trấn Sơn Nam Thượng. Sau này, vào năm 1831, khu vực này thuộc tỉnh Hà Nội và từ năm 1904 thuộc tỉnh Hà Đông], thủy quân địch đến bến Nam Xà南佘津, bỏ thuyền lên bờ, tập kích thủy quân Thúy Ái.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,536
Động cơ
711,984 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Trước đó, thủy quân nghe tin giặc còn xa, hơi lơ là không phòng bị, thuyền neo dọc bờ, tản mát ở các bãi sông, chợt thấy địch đến, không kịp lên thuyền, thuyền bè đều bị địch chiếm, chỉ có một viên thiên tướng họ Ngô, một mình cầm đao đứng trên đầu thuyền, chống cự hơn một khắc, quân Tây Sơn dùng đại bác bắn vào đầu thuyền Trung Trạch中擇船 [tên chiếc thuyền chỉ huy], người ấy trúng đạn mà chết, giặc bèn đổ bộ. Quân của Thạc Quận Công đang ăn, quân giặc ập đến, bỏ giáp mà chạy, địch [từ 2 phía] tả hữu kẹp lại đánh chém loạn xạ, thây chất đầy bãi sông, những kẻ chết ở hồ Vạn Xuân không kể xiết. Thạc Quận Công chỉ còn lại hơn mười thủ hạ, cùng tám người con, bao quanh dưới chân voi của Thạc Quận Công, tựa vào voi mà chống cự. Sáu người con kịch chiến chết trước voi. Thạc Quận Công sai voi nô quỳ voi xuống, cùng hai người con còn lại tìm đường mà chạy, chỉ thoát được thân mình.
1760345871026.png
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,536
Động cơ
711,984 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Thuỷ binh của giặc đến thẳng phía tây bến Long Tân, Chúa đích thân ngự ở lầu Ngũ Long五龍樓 bày trận [vào thế kỷ thứ XVII, chúa Trịnh Doanh cho xây lầu Ngũ Long mang hình năm con rồng, lầu cao chót vót ba tầng chính, năm tầng mái, cao khoảng 120 thước (tương đương 60m). Lầu được xây dựng kiên cố bằng đá phiến lớn. Có hai mặt thềm đá bậc lên tầng lầu, chính giữa là điện Quang Minh. Phía ngoài lan can, cửa lớn rộng sơn son. Trong điện cột lớn sơn son thiếp vàng. Tầng dưới lầu Ngũ Long là nơi thiết yến tiệc, đón các tân khoa làm lễ trao áo mũ. Trên điện Quang Minh là nơi chúa ngự duyệt thủy quân, ngoài sông Hồng làm lễ kỳ đạo. Lầu có ba cửa lớn. Khuôn cửa có đặc điểm khép chéo góc với bộ khung lớn. Phần mái trên điện Quang Minh có năm tầng mái đắp năm con rồng nổi thân vẩy dát mảnh sứ tầu vàng óng ánh. Vây rồng bằng đá cẩm thạch mầu. Khi mặt trời chiếu sáng, ánh nắng rọi vào mình rồng óng ánh như đang chuyển động theo ánh mặt trời, khi ánh sáng thay đổi. Lầu có năm tầng mái, có rồng trang trí nên gọi là lầu Ngũ Long. Dưới chân lầu là nơi diễn võ thuật, thi bắn đánh vật, ngày nay khu vực Lầu có lẽ nằm ở khu vực gần hồ Hoàn Kiếm, phía đông hồ, thuộc thôn Cựu Lâu, huyện Thọ Xương, nay là khu vực Bưu điện Hà Nội và Bảo tàng Lịch sử Việt Nam ] chia thành năm quân: quân bộ bên trái đóng ở Tây Long, quân bộ bên phải đóng ở Tây Hổ, quân bộ phía trước đóng ở cổng thành lầu tiền, quân bộ phía sau đóng ở bờ hồ Thủy quân lầu hậu, vẫn có hai kiệu hộ vệ ở trung quân. Giặc từ cồn cát sông tiến vào, Vương ở trên lầu, cho phép trống trận của tiền trận vang lên, quân bộ tiền quân bắt đầu bắn. Bắn một hồi, quân giặc cúi mình né đạn mà tiến vào, Chúa đích thân mặc áo giáp, xuống lầu cưỡi voi, cầm cờ đỏ ba lần chỉ và vẫy, trống và hiệu lệnh thúc giục các quân tiến lên, các quân nghe trống nhìn cờ xông tới. Giặc dùng hỏa hổ bắn ra, các quân hoảng sợ mất vía, đều vứt giáo bỏ giáp xuống bờ sông, bỏ chạy không màng thân mình.
1760345934457.png
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,536
Động cơ
711,984 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Chúa thấy quân tan rã, nhìn trước sau trái phải các quân, đã không còn một ai, giặc không biết đó là Vương, vội tranh nhau xông vào phủ, không còn uy hiếp voi nữa, vương vội cởi giáp, đội khăn chữ đinh, lui ngồi sau yên ngựa bọc da, vội thúc voi quay về phủ. Vượt qua cửa Tuyên Võ, mấy chục tên giặc đi trước đã vào phủ, cắm cờ ngoài phủ, vương bèn thúc voi đi từ hồ Minh Đường明堂湖 [hồ Minh Đường, còn được gọi là Hồ Giám hay Hồ Văn, thời Lê, nằm ở phía Nam của Văn Miếu - Quốc Tử Giám, ngay sau cổng Đại Trung Môn và Khuê Văn Các, hiện nay thuộc địa chỉ 58 Quốc Tử Giám, Phường Văn Miếu, Quận Đống Đa, Thành Phố Hà Nội] về phía cửa An Hoa Ổ安華塢 [cửa An Hoa, một trong ba cửa của Hoàng thành Đông Kinh thời Lê, nằm ở phía Đông, tương ứng với vị trí ngày nay của các phố Hàng Cân, Hàng Đường ở Hà Nội] mà chạy.
1760346104218.png
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,536
Động cơ
711,984 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Khi Bình đã vào thành, hạ lệnh nghiêm cấm các quân không được cướp bóc trong kinh kỳ. Bình bèn vào phủ An Đốn安頓, lúc đó một hai cận thần và thân quân, biết nhà Chúa đi về phía Tây, lần lượt đuổi theo, đến ngoài cửa thành, vẫn còn chín con voi, hơn mười con ngựa, hơn nghìn binh lính. Vượt qua địa giới Từ Liêm慈廉, dân làng từ xa trông thấy màu cờ binh lính, nghi là quân giặc, bồng bế nhau mà chạy. Quan quân từ xa trông thấy, lại nghi là quân giặc, bỏ giáp mà chạy mất quá nửa. Đến huyện An Lãng安朗縣 [huyện Yên Lãng thời Lê thuộc trấn Sơn Tây, phủ Tam Đới, sau này là một phần của tỉnh Vĩnh Phúc, và hiện nay là huyện Mê Linh thuộc thành phố Hà Nội. Cụ thể, thời Lê, Yên Lãng nằm trong lộ Tam Giang, phủ Tam Đới, trấn Sơn Tây] có Nguyễn Noãn阮暖 ở phía hữu, là người Vân Điềm雲恬, Đông Ngạn東岸 [Vân Điềm, thuộc huyện Đông Ngạn thời Lê, nằm sát bên bờ sông Cầu, nay là xã Vân Hà, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. Làng Vân Điềm còn có tên Nôm là Kẻ Đóm và có lịch sử gắn liền với vùng đất Đông Ngàn, một trung tâm văn hóa Nho học phát triển thời bấy giờ], con trai của Nguyễn Thưởng阮賞. Vốn là gia thần của nhà Chúa, đón chúa trên đường, quỳ bên vệ đường, tâu rằng:
- Thần trước đây nhận lệnh chiêu binh, nay đã được năm trăm người, đang chờ ở bờ Bắc sông, cúi xin xa giá vượt sông về phía Bắc, tạm nghỉ đêm ở quán của thần, để mưu tính việc sau này.
Vương ra lệnh gọi người chèo thuyền qua sông, nhưng những người chèo thuyền đều bỏ chạy tán loạn, chỉ tìm được một chiếc thuyền nhỏ ba lá, mỗi lá chỉ chứa được mười ba mười bốn người, vương vội lên thuyền, chỉ có năm sáu tiểu hoàng môn小黃門 và người hộ vệ là Noãn đi theo, còn quân lính, voi ngựa, ở lại trên bờ không thể qua sông, nhìn thấy chúa đã lên bờ bên kia, thì đều trốn tán loạn. Khi chúa đã lên bờ, hoàn toàn không thấy binh vệ, hỏi Noãn. Noãn thưa:
- Binh vệ hiện đang ở quán của thần, xin vương đi bộ, không xa về phía trước.
Chúa hối hận vì bị Noãn lừa, hơn nữa sợ từ đây về phía trước, càng không biết đường đi có an toàn không? Không ai có thể tin được, chỉ có văn thần tiến sĩ là đáng tin cậy, bèn hỏi Noãn:
- Ở các thôn làng gần đây có tiến sĩ nào tên là gì không?
Noãn đáp:
- Nơi đây không có ai, chỉ có thiêm sai Tri Lại Phiên添差知吏番 Lý Trần Quán李陳瑻. Trước đây vâng lệnh chiêu dụ, tạm đóng ở xã Hạ Lôi下雷社. Nhưng không biết hiện nay còn ở đó không?
Chúa nói:
- Ngươi hãy đi thăm hỏi, nếu gặp người này, hãy bí mật nói rõ tình hình, để ông ta vì ta mà mưu tính.
Noãn vâng mệnh vào gặp Lý Trần Công [tức là Quán, Công là cách gọi kính trọng], thuật lại sự việc từ đầu đến cuối. Lại nói:
- Thần trước đây vâng lệnh chiêu binh, nay hiện có binh vệ chờ đợi, ở ranh giới huyện nào đó, Quan trường hãy mưu tính mượn binh khí, hộ vệ vương qua ranh giới huyện ta, thì sẽ được an toàn.
Công có quen biết một người tên Trang莊 ở Hạ Lôi làm tuần huyện, vốn là thủ lĩnh giặc cướp, trước đây từng đến cửa nhà Công, lúc đó Công ở Hạ Lôi, cũng dựa vào Trang để bảo vệ, bèn nói với Trang:
- Tham Tụng Kế Liệt Hầu繼烈侯 tránh loạn đến nương tựa, phiền ngươi hộ vệ, đưa qua ranh giới.
Trang đáp:
- Vâng!
Công bèn cùng Trang theo Noãn đi gặp chúa, nguyên Công trước cũng chỉ là một tiểu thần của triều đình, chưa từng được gặp mặt chúa, chúa cũng chưa từng biết Công. Vừa thấy Công đến, chúa bảo thị thần hỏi:
- Đây là ai?
Đáp:
- Là Lý Trần Quán.
Nhà chúa bấy giờ mới khiêm tốn đáp lại, chưa biết nói gì. Công cũng cung kính gấp bội, vào gặp nhưng không dám nhìn thẳng. Giữa vương và thần, đều không ý thức được đã lộ ra bản sắc. Một lúc lâu, vương nói chuyện với Công, mới đến chuyện tâm sự. Công chỉ Trang nói:
- Thần có người này, là môn hạ của thần, người này cũng có thể gánh vác được.
Quay lại nói với Trang:
- Hãy hộ vệ Quan trường qua ranh giới thật tốt.
Trang đáp:
- Vâng!
Công bèn từ biệt chúa về phòng. Trang dùng năm mươi người dưới quyền, hộ vệ chúa mà đi. Đến căn phòng riêng của Lý Trần Quán, Trang hỏi:
- Công mỗ [chỉ Trịnh Tông, mỗ là lời nói xấc xược, lúc này Trang không coi chúa Trịnh ra gì nữa] không phải là Đoan Nam Vương đó sao, xin hãy nói thật với thần. Nếu không sẽ có biến cố khác, xin đừng trách thần.
Nhà chúa lúc đầu vẫn còn giấu giếm đáp:
- Ngươi hỏi vậy có phải gây họa không! Ta chỉ là Tham Tụng Bùi Huy Bích đi làm việc thôi.
Trang nói:
- Công đừng nói lời lừa người, hôm qua thấy thần thái ẩn giấu của quân thần, còn lừa được ai? Từ xưa đến nay việc hưng khởi là lẽ thường, tính ra Công cũng khó thoát dù có tránh, đừng tự làm vất vả.
Bèn dẫn chúa về nhà mình, chúa biến sắc giận dữ nói:
- Mệnh ta là ở trời, Đoan Nam Vương Đại Nguyên Soái大元帥端南王 chính là ta, dù chết trong tay người dân, cũng là ý trời, mặc ngươi làm đi.
Trang bèn sai người phi ngựa báo cho giặc, tất cả những người đi theo đều bị bắt giữ. Công nghe có biến, đích thân đến chỗ chúa, dập đầu xuống đất nói:
- Gây họa cho vương đến nông nỗi này, là tội của thần.
Chúa nói:
- Mỗi người một lòng, khanh có thể can dự vào việc đó sao?
Công [Lý Trần Quán] ra nói với Trang:
- Vương là chúa tể chung của thiên hạ, còn ta là thầy của ngươi. Đại nghĩa quân thần, sao lại nhẫn tâm như vậy?
Trang nói:
- Quan trường không báo cho thần sớm hơn, khiến thần lầm tưởng là vương, nếu vương thoát khỏi tay thần, quân Nam [quân Tây Sơn] hỏi tội thần, Quan trường còn có thể biện giải thay sao? Sợ thầy không bằng sợ giặc, yêu chúa không bằng yêu thân. Thần không bị Quan trường làm cho lầm lạc đâu.
Bèn ép chúa về phòng, quát tay sai đưa chúa ra khỏi kinh thành, Công tiến đến bái chúa, gào khóc gọi trời nói:
- Ôi ôi trời ơi! Thần giết chủ của thần, trời có biết chăng!
Nhà chúa an ủi:
- Lòng trung thành của khanh, quả nhân đã hiểu rõ, đừng tự oán trách.
Công muốn nói vương nán lại một chút, chưa kịp nói lời từ biệt, chúa đã bị Trang thúc ép đi rồi. Đến quán trọ trên đường nghỉ một lát, chúa lấy được con dao nhỏ của người nhà trọ, tự rạch cổ. Trang vội giật lấy dao, vết thương nông và nhỏ, chúa dùng ngón tay xé rách vết thương, lại bị Trang ngăn lại. Một lát sau, chúa cảm thấy trong lòng phiền muộn, xin nước trong mát, Trang đồng ý. Chúa uống nước rồi băng hà. Trang đưa vương về kinh, giặc rất vui mừng. Phơi xác vương ngoài cửa Tuyên Võ, để thị uy thiên hạ.


1760346174831.png


1760346233643.png
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,536
Động cơ
711,984 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Sau đó, [Nguyễn Huệ] hạ lệnh chuẩn bị liệm, mọi thứ đều như nghi thức dành cho một vị vương. Dùng chiếc kiệu nhỏ có đầu bằng rồng trang trí, đưa Vương đến táng tại lăng Cung quốc công [lăng của Trịnh Cán, em Trịnh Tông]. Còn phong Trang làm Tráng Nghĩa hầu壯義侯, kiêm trấn thủ Sơn Tây. Lúc đó là ngày 27 tháng 6 năm Bính Ngọ [23 tháng 7 năm 1786]. Công [Lý Trần Quán] đang ở Hạ Lôi, từ biệt Vương về phòng, nói với chủ nhà trọ rằng:
- Là thần làm lầm chúa ta, tội đáng chết. Ta dù không chết, cũng không có cách nào tự bạch tấm lòng này với trời đất. Có thể chuẩn bị cho ta một cỗ quan tài, mười thước vải trắng, để ta tự làm theo chí nguyện của mình.
Chủ nhà khuyên can, nhưng Công không nghe theo, nói:
- Ta chết tự có cách khác, không phải người có thể ngăn cản được. Người nào thương ta thì hãy làm theo ý ta.
Qua hai ngày, cơn phẫn nộ của Công càng dâng cao. Chủ nhà không thể ngăn Công được nữa, biết chí của Công không thể lay chuyển, đành chuẩn bị mọi thứ theo lời Công dặn. Công bèn ra lệnh đào một cái hố ở hậu viên nơi mình ở, đặt quan tài vào trong hố. Rồi lấy một mảnh vải trắng xé làm khăn đội đầu, một đoạn đai lưng, vẫn mặc mũ áo quay mặt về hướng Nam mà lạy hai lạy nữa. Lạy xong, bỏ mũ ra đội khăn, thắt đai lưng, nằm yên trong quan tài, bảo chủ nhà đậy nắp lại. Đậy xong, Công ở trong quan tài nói:
- Vẫn còn thiếu một lời, cần phải tự nói ra.
Chủ nhà lại mở nắp quan tài, Công đọc một câu đối rằng:
- Ba năm hiếu đã trọn, mười phần trung chưa hết. 三年之孝已完,十分之忠未盡.
Lại nói:
- Phiền ông đem câu này làm di chúc cho con ta, ngày sau dán ở giữa sảnh đường để thờ ta.
Nói xong, lại tiếp:
- Đa tạ chủ nhân, ta từ đây xin cáo biệt!
Chủ nhà cùng năm sáu người hầu lạy biệt trước quan tài xong, đậy nắp quan tài, lấy đất lấp và đắp mộ. Lúc đó là ngày 29 tháng 6, tức là hai ngày sau khi Vương mất. Công là người Vân Canh, Từ Liêm, đỗ tiến sĩ khoa Bính Tuất [1766]. Công là người giản dị, chất phác, tính tình cực kỳ hiếu thảo. Thời gian chịu tang cha mẹ ba năm, nhà mồ đều tuân theo lễ pháp. Công thường tự nói:
- Ta nay đã bốn mươi tuổi, việc làm trong đời, chỉ có ba năm này là gần với đạo người nhất.
Có lẽ vì tự thấy mình không hối tiếc như vậy, nên lời nói lúc lâm chung cũng như vậy, đó là sự tự hứa hẹn của Công. Sau khi Công mất, thiên hạ không ai không đau xót cho Vương và kính trọng Công. Truy nguyên cội rễ tai họa, không ai không oán [Nguyễn Hữu] Chỉnh. Chỉnh cũng tự biết rõ điều đó. Chỉnh có người quen tên là Đỗ Thế Long杜世龍, người Hoằng Liệt弘烈, Thanh Trì青池, tính tình xảo quyệt. Khi Chỉnh bị liên lụy việc quan, Long cũng vì cớ khác mà đắc tội, cùng Chỉnh ở trong ngục. Long giỏi làm từ khúc quốc âm, ngang tài với Chỉnh. Đến khi Chỉnh ra khỏi Tây Sơn, Long vẫn còn bị giam. Chỉnh về kinh, sai người thả Long ra, đãi Long như thượng khách, mỗi khi hỏi việc quốc gia, Long biết gì nói nấy, lời nào cũng được nghe theo. Đến lúc này, Chỉnh nói với Long:
- Vương [chỉ Trịnh Tông] không tin lòng ta, khinh suất tự làm tổn hại sinh mệnh. Nếu Vương có còn sống, ta cũng sẽ sắp xếp cho Vương một nơi thanh nhàn, không để Vương mất danh lộc.
Long nghe ý lời Chỉnh, bỗng nhiên có ý muốn lập lại họ Trịnh, muốn nhân ý tứ này của Chỉnh mà xoay chuyển tình thế, để cứu vãn cơ hội.

Đúng là:
毀卵逞殘嗟毒手,存雛妄想笑癡心。
Hủy noãn sính tàn ta độc thủ, tồn sồ vọng tưởng tiếu si tâm.
[Đập trứng khoe tàn ác than độc thủ, Giữ gà con vọng tưởng cười cái lòng u mê].
Chưa biết chuyện này thế nào, hãy xem hồi sau phân giải.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,536
Động cơ
711,984 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
HỒI THỨ NĂM
扶正統上公覲闕, 締鄰婚公主出車.
Phù chính thống thượng công cận khuyết, đế lân hôn công chúa xuất xa
[Phò chính thống thượng công (Nguyễn Huệ) đến chầu vua (Lê Hiển Tông), kết nối tình lân bang công chúa (Lê Ngọc Hân) lấy chồng]

Lại nói Đỗ Thế Long nghe lời Chỉnh có ý hậu đãi nhà chúa, bèn nói với Chỉnh rằng:
- Những gì ông làm tuy là nhân nghĩa, nhưng hành động thì lại tàn nhẫn. Nay ông có thế xoay núi đổ biển, quả thực được sự giúp đỡ của quý quốc, nhưng ban đầu ông xuất thân, cầm binh phong hầu, há chẳng phải là ân huệ vương sao? Ông lấy việc diệt Trịnh phò Lê làm danh nghĩa cho hành động này, thì thật quá đáng! Nếu cho rằng việc vương uy hiếp hoàng gia [nhà Lê] là có lỗi, sao không nghĩ đến công lao phò tá hai trăm năm? Hoài niệm cái mới mà bỏ cái cũ là bất nghĩa; truy cứu cái lỗi mà che lấp công lao là bất nhân, bất nghĩa bất nhân gọi là tàn nhẫn. Bậc đại trượng phu lập thân mà có thể tự nhận mình là kẻ tàn nhẫn sao!
Mặt Chỉnh biến sắc như đất, từ từ đáp rằng:
- Phong tước cấp đất là ân riêng của một người; cương thường là đại nghĩa của thiên hạ. Ta vì phò tá mà hành động, để củng cố cương thường, tự nhiên là chí nhân đại nghĩa, mà ông lại cho là tàn nhẫn, há chẳng quá đáng sao! Nếu không phải ta nhìn nhận sai, thì lời ông nói là quá đáng rồi.
Long nói:
- Quân vương vốn đã tự tôn, cần gì phải phò tá? Chẳng qua là mượn cớ này để thực hiện mưu đồ chiếm đoạt mà thôi! Vả lại, quốc gia như chén vàng không tì vết, một khi ông vô cớ dẫn người khác [Tây Sơn] đến, giết chủ tướng của họ, hại dân của họ, người trong thiên hạ sẽ coi ông là sói lang, cú mèo, hươu hoẵng, tàn nhẫn chưa phải là quá đáng! Nay ông dựa vào nước ngoài, như cáo mượn oai hùm, e rằng lòng người nhớ Trịnh, việc ấy sẽ biến đổi, một khi họ bỏ ông mà đi, ông với thân phận nhỏ bé, mang tội tày trời, làm sao tự lập được trong thiên hạ?
Chỉnh nghiến răng giận dữ, nhưng vẫn giữ vẻ mặt điềm tĩnh đáp:
- Thế thì bạn của sói lang, cú mèo, hươu hoẵng, sẽ mưu tính điều gì cho sói lang, cú mèo, hươu hoẵng?
Long nói:
- Ông đến đây chẳng qua là vì cảnh báo về việc trấn giữ trước kia và kiêu binh, nay kiêu binh đã bị tiêu diệt, ý nguyện của ông đã được thỏa mãn. Nếu ông thực sự có thể nhanh chóng quay lại đường lối của mình, đối tốt quý quốc, khiến họ thỏa mãn mà trở về, sau đó chọn một người hiền đức trong tông thất họ Trịnh để lập làm vương khác, còn ông tự mình làm phụ tá, đây sẽ là công lao hiển hách có một không hai.
Chỉnh nói:
- Hay! Ta sẽ suy nghĩ, ông cứ về đi, tìm người khác biết ăn nói, khéo léo sửa lời lẽ, đợi người thích nghe, để dùng lời nói mà làm nổi bật bản thân.
Long ra về, Chỉnh nói:
- Long có thể [phải] đưa [xuống] nước, không thể ở đất liền, để làm mê hoặc thiên hạ.
Rồi sai người chặn ở ngoài cửa, trói ngược lại và ném xuống giữa dòng sông Nhị Hà cho chết đuối.
Lại nói Tây Sơn Nguyên soái từ khi mới đến Vị Hoàng, liền dâng tấu bản, thuật rõ ý muốn tôn phò, bí mật dâng lên Hoàng thượng. Người ngoài cũng phần nào biết được điều này, mọi người cho rằng tình thế địch khó lường, lời nói chưa chắc đáng tin. Quan quân, lại sĩ trong kinh thành không ai là không tranh nhau bỏ chạy trước. Những người bận việc công hoặc vì cớ khác mà chưa kịp ra khỏi thành, đến ngày hai mươi sáu cũng hốt hoảng bỏ chạy. Mang theo túi xách, vác hòm đồ, dân chúng quanh kinh thành chặn đường cướp đoạt hết. Tông thất đại thần và các quan đại phu có xe ngựa, bị dân chúng cướp bóc, số người phải bỏ chạy trơ trọi một mình không sao kể xiết. Các quân lính tan rã chạy ra dân gian, đến đâu cũng bị vạch tội kiêu căng lộng hành, tìm đủ cách làm nhục, không chút dung thứ.
Có một người trần truồng chạy, đến gần cửa Ổ Môn塢門. Dân chúng chỉ trỏ nói:
- Tên bụng to kia chẳng phải là lính kiêu binh đó sao, lôi lại đánh chết đi!
Người đó vội đáp:
- Không phải đâu! Tôi là huyện úy Thọ Xương壽昌縣尉.
Dân chúng cười ồ lên:
- Người ta thường nói “bụng to như bụng huyện doãn”, quả đúng như vậy!
Người đó cũng cười rồi bỏ đi. Cùng ngày hôm đó, người Thanh [Hoa kiều] dắt díu nhau về nước, số người chết đói trên đường lại đến hàng trăm. Chỉ có các chi phái tông thất hoàng tộc, gia thần trong điện, các quân lính trong điện, và dân thường các phường quanh điện đều yên ổn như cũ. Ngày thành thất thủ, Bình (Nguyễn Huệ) vào kinh, trước tiên sai một tướng thân cận dẫn một đội quân bao quanh bảo vệ điện. Lúc bấy giờ Hoàng thượng có bệnh, các hoàng tử hầu bệnh trong điện. Thấy lính canh sân điện đứng vòng quanh như tường, nghi là giặc đến bức bách vua, vội vàng đỡ Hoàng thượng dậy, định đỡ ra hậu uyển Tam Sơn三山后苑 mà trốn [Hậu uyển Tam Sơn, hay còn gọi là Tam Sơn Uyển, là một địa điểm thuộc khu vực kinh thành Thăng Long thời nhà Lê, cụ thể nằm ở phía Tây Nam của Hoàng thành, bên cạnh Hồ Tây. Đây là nơi dành cho các phi tần, cung nữ và công chúa trong cung đình, là một khu vườn rộng lớn với nhiều công trình kiến trúc và cảnh quan đẹp]. Vừa lúc đó, thấy vị tướng kia quỳ giữa sân, dâng tấu bản lên trán kính cẩn dâng lên. Gia thần trong điện vội ra đón, đưa vào để vua xem. Lời tấu trước hết thăm hỏi sức khỏe của Hoàng thượng, sau xin hẹn ngày khác vào chầu. Hoàng thượng xem tấu xong mới yên lòng.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,536
Động cơ
711,984 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Sáng sớm ngày hôm sau, Bình và Chỉnh (Nguyễn Hữu Chỉnh) đến sân điện Vạn Thọ yết kiến. Thị giả vào tâu. Hoàng thượng ở trong chăn, vén màn cho Bình vào yết kiến cạnh ngự tháp. Bình quỳ lạy xuống đất, hành lễ năm lạy ba vái. Vua sai hoàng tử đỡ dậy, mời đến ngồi ở ghế bên trái cạnh ngự tháp. Bình khiêm nhường không dám nhận. Vua lại ba lần dụ bảo, Bình liền ngồi nửa người, cúi đầu ở cuối chiếu. Vua ân cần an ủi, vỗ về. Bình nói:
- Thần vốn là kẻ thất phu ở Tây Sơn, thừa thời cơ mà nổi lên, chưa từng mặc áo của Bệ hạ, ăn lộc của Bệ hạ. Chỉ vì thánh đức của Bệ hạ rộng lớn, thần ở chốn man di vẫn hằng ngưỡng mộ. Hôm nay lại được thấy dung nhan rồng, cũng là do tấm lòng thành kính của thần cảm động mà đến vậy! Vả lại họ Trịnh vô lễ, lấn át vua, Trời cao mượn tay thần, diệt họ Trịnh để làm rạng oai đức của Bệ hạ. May mắn mà thành công, thực là nhờ hồng phúc của Bệ hạ mà nên. Chỉ mong thánh thể khang cường, cai trị thiên hạ, khiến thần cũng được hưởng phúc.
Vua nói:
- Đa tạ Lệnh công đã ban tình cảm thân thiết, vượt ngàn dặm xa xôi đến đây, làm phiền người hầu kẻ hạ. Quả nhân ở ngôi thanh đạm, không có gì để tặng.
Bình nói:
- Thần đến đây là để tôn phò, há tính công lao gì sao? Việc đến đây hoàn toàn là ý trời, không phải mưu kế của người mà đạt được. Nếu thần có lòng riêng thân với Bệ hạ, thì những thuyền binh lính này, thần đều có thể điều khiển. Còn như nước lũ bi thương, gió nam thịnh hành, há sức thần có thể làm được? Đây thực là mệnh trời. Bệ hạ thống nhất cả cõi, để gây dựng cơ nghiệp muôn đời. Thần nguyện từ nay Bệ hạ lập phép đặt kỷ cương, yên nội trị ngoại giao, dùng đó đưa đời này đến thái bình, thì thần đã được ban ơn rất nhiều rồi!
Bình quay lại nhìn Chỉnh nói:
- Đây là cố thần của Bệ hạ!
Chỉnh vội đến trước ngự tọa bái kiến. Vua ban cho ngồi. Bình nói:
- Người này được Bệ hạ ban tước lộc, nghĩ chắc chưa nhiều, nhưng lòng trung thành với Bệ hạ, trong nước không ai bằng. Thần được đến đây, đều nhờ sức phò trợ của y.
Vua nói:
- Chỉnh có thể trung thành cũng là do Lệnh công làm nên vậy!
Chỉnh dập đầu tạ ơn rằng:
- Quả như lời thánh dụ!
Vua an ủi, vỗ về một lúc lâu, Bình nói:
- Nay thánh thể đã bớt chút mệt mỏi, tiếp đón hẳn đã lao nhọc, thần xin tạm về doanh trại. Sau này xin không định kỳ vào chầu. Nếu có điều gì hỏi han, xin chờ thánh chỉ.
Vua nói:
- Quả nhân có thiên hạ mà không can dự, buông tay áo khoanh tay đã hơn bốn mươi năm. Nay lại đã già yếu, kế sách quốc gia, mưu lược binh đao, không phải điều đã từng vạch ra. Công đã có lòng tôn phò, nên ở lại nước tôi để giúp quả nhân, xin đừng bỏ rơi!
Bình nói:
- Thần vâng mệnh Vương huynh [Nguyễn Nhạc], chỉ lấy Thuận Hóa, đến đây là để hoàn tất việc, không dám ở lâu. Tuy nhiên, bốn phương chưa yên, cũng cần dẹp yên một phen, sau đó mới xin cáo từ.

Vua sai đứa hầu trà pha trà ban cho. Bình thong dong uống trà rồi cáo lui, Chỉnh cũng theo đó.
1760346386101.png
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,536
Động cơ
711,984 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Chỉnh lúc ngồi chầu, thấy trăm quan tản mát, gia thần của Hoàng thượng không một ai có thể ứng đối được, hoàng thân chỉ có Thanh Nguyên hầu清源侯 Lê Duy Thiều黎維韶, Cái Sơn hầu蓋山侯 Lê Duy Phục黎維復, đều là người tầm thường, xem ra không thành triều đình. Chỉ có văn thần Lê Duy Lâm黎維琳, Lê Duy Thiệu黎維紹, đều là khách du tử ở Thăng Long, đặc biệt nghèo mà không bỏ đi, nương tựa ở nội điện, do Thanh Nguyên hầu tiến cử, Hoàng thượng dùng họ để chuẩn bị văn thư. Hai người này Chỉnh trong lòng cũng không thích. Bèn nghĩ đến những người vốn thường tham dự chính sự gần đây của triều đình, những người bình thường vẫn biết đến là: Tứ Xuyên hầu泗川侯 Lê Duy Phiên黎維藩, Kiến Xuyên hầu建川侯 Trương Đăng Quỹ張登揆, Thao Đường hầu韜堂侯 Uông Sĩ Lãng汪士朗, Luyện Đường hầu練堂侯 Trần Công Xán陳公燦, thêm sai Nhữ Công Trấn汝公瑱, Hoàn Quận công完郡公 Nguyễn Hoàn阮完, tổng cộng sáu người. Chỉnh dâng tấu xin Hoàng thượng chiếu triệu, Hoàng thượng liền triệu họ.
Phiên và Trấn đã lâu bỏ việc ở nhà, Hoàn, Quỹ, Xán, Lãng đều tránh loạn chạy ra ngoài thành. Các quan đều được chiếu triệu về kinh, chỉ có Trấn lấy cớ bệnh tật từ chối. Lãng thấy bị triệu và có lời khiển trách, trước tiên đem ấn Bộ Binh và quân lương mà mình nắm giữ nộp xuống hàng, Chỉnh trả lại ấn và cho về. Thế là các quan ngày ngày đến triều đình bàn việc, quan lại nghe tin, lần lượt về kinh. Hoàng thượng ra lệnh cho các quan tùy việc mà ứng đối với Bình. Bình tự nghĩ mình từ phương xa biên ngoài đến, chưa am hiểu tập tục trong nước, phàm là việc ứng đối với quan lại triều đình, đều nghe theo Chỉnh. Chỉnh nói với Bình rằng:
- Ngài đến đây lấy danh nghĩa là tôn phù nhất thống, thiên hạ không ai là không mong muốn. Thế nhưng, cái gọi là nhất thống đó, cần phải mọi quyền bính việc quân việc nước đều do một mình quyết định, mới là thực chất của việc tôn phù. Ngài nên có điều để làm cho nó thành sự thật. Việc gặp mặt Vạn Thọ ngày hôm qua vẫn còn là gặp riêng, việc đó chưa được công khai với thiên hạ. Cần chọn ngày lành, chầu kiến thành lễ, khiến thiên hạ đều biết, mới là hành động chính đáng và lớn lao.
Bình nghe theo, bèn chọn ngày mùng 7 tháng 7 âm lịch, xin Hoàng thượng thiết đại triều ở điện Kính Thiên. Trăm quan theo thứ tự đứng hầu, Bình tự mình dẫn tướng sĩ từ Đoan Môn vào, thực hiện lễ năm lạy ba vái. Bình viết sớ trình bày công diệt họ Trịnh, đồng thời dâng sổ sách binh dân, xin Hoàng thượng đặt quan chia chức. Hoàng thượng nhận triều xong, ra lệnh tiễn Bình ra ngoài cửa điện rồi bãi triều. Ngày hôm sau, Hoàng thượng ra lệnh cho triều thần phong Bình làm Nguyên soái Phù Lập Dực Vận Võ Uy Quốc công元帥扶立翊運武威國公, có chiếu chỉ, liền phong ở quân thứ. Bình vái lạy nhận sắc phong, lễ xong, sai sứ giả vào tạ ơn, lễ nghĩa chu đáo.
Sau đó, Bình nói riêng với Chỉnh rằng:
- Ta dẫn mấy vạn quân đến một trận mà định thiên hạ, một tấc đất, một người dân nước Nam, không gì là không thuộc về ta! Dù ta xưng đế xưng vương, có gì là không được? Sở dĩ ta nhường mà không ở ngôi, là vì ta hậu đãi nhà Lê vậy! Nguyên soái, Quốc công đối với ta có thêm thắt gì đâu, chẳng phải nước Nam dùng hư danh để ràng buộc ta ư? Nếu ta không nhận, sợ Hoàng thượng cho ta là kiêu căng, nhận mà không nói, thì người trong nước sẽ cho ta là man rợ, cho nên nhân tiện mà nói ra vậy thôi.
Chỉnh biết Bình không vừa ý, bèn giả vờ như lời Hoàng thượng nói riêng mà tiết lộ cho Bình rằng:
- Hoàng thượng từng nói riêng với thần rằng: 'Hoàng gia thanh đạm, không có vật gì có thể tặng, rất biết chức tước nhỏ nhoi không đủ để làm tăng giá trị của ngài, chỉ là vì tục nước trọng lễ, tạm dùng để tỏ lòng thành kính với ngài'. Ý ban đầu của Hoàng thượng, tự nghĩ mình tuổi cao, sợ sau khi ngài về, không có người để trông cậy, muốn kết tình thân hai họ, đời đời kết thông gia, không biết ý ngài thế nào? Cho nên không dám nói rõ ra.
Bình nói:
- Từ xưa đến nay, người chinh chiến lòng trướng khuê là thiết tha nhất, Hoàng thượng cũng thấu hiểu ý này ư! Lấy em trai của Tây Vương làm cháu rể của Hoàng đế nước Nam, môn đăng hộ đối như vậy, nghĩ rằng người cũng không có nhiều.
Cả buổi đều cười lớn, rồi lại nói:
- Chỉ là nói đùa vậy thôi! Ý này của Hoàng thượng có thể nói là lão luyện, muốn thành hòa hiếu hai nước.
Trịnh biết Bình đồng ý, bèn vào tâu Hoàng thượng, vừa trình bày việc đó, lại hỏi công chúa con gái của Hoàng đế chưa gả còn mấy người?
Hoàng thượng có năm, sáu người con gái đã lớn mà chưa gả chồng. Trong số đó, chỉ có một vị công chúa tên là Ngọc Hân玉焮, nhan sắc tuyệt trần, đức hạnh vẹn toàn, được Hoàng thượng hết mực yêu thương. Người thường nói:
- Con gái này sau này phải gả cho vương giả, không thể gả cho phò mã tầm thường được. Đến lúc này, Hoàng thượng nghe lời Chỉnh, trong lòng đã ưng thuận. Người nói với Chỉnh:
- Trẫm còn nhiều con gái trong cung, chỉ có Ngọc Hân là có chút nhan sắc, nhưng tình cảm người cha thường thiên vị con mình, không biết người ngoài nhìn vào thì thế nào? Khanh cứ ở đây, đợi Trẫm cho triệu đến xem, khanh tự chọn người nào thấy hợp, rồi tán thành cho Trẫm.
Bèn truyền lệnh cho thị vệ triệu tập, chốc lát các công chúa cùng ra trước ngự tiền, Chỉnh vừa nhìn thấy liền nói:
- Hợp ý rồi! Đây quả là một nhân duyên tốt đẹp, hạ thần xin làm người xe duyên, chắc chắn sẽ thành công tốt đẹp.
Rồi Chỉnh quay về thuật lại với Bình rằng:
- Hôm qua, hạ thần đã lén lút tiết lộ lời của Thượng công, khi tâu lên Hoàng thượng, Người rất đỗi vui mừng, nói với hạ thần rằng: 'Đã được ý của Tôn công như vậy, đây cũng là duyên trời sắp đặt. Trẫm có vị công chúa thứ chín, năm nay mười sáu tuổi, xin được sủng ái hậu đình, để phụng khăn lược, nhằm giúp hai nước thành thân, đời đời giữ gìn hòa hiếu.
Bình đùa đáp:
- Ta ra đi để dẹp loạn, lại trở về để lấy vợ, lũ tiểu tử kia sẽ cười chê thế nào đây? Mặc dù vậy, ta chỉ quen con gái Nam Hà, không biết con gái Bắc Hà thế nào? Nay cần phải thử xem có tốt không?
Cả bàn đều cười vang, Chỉnh đáp lại Bình:

- Hạ thần từ xa bái lạy Hoàng thượng bệ hạ vạn tuế, từ chốn sơn cốc xa xôi hẻo lánh đến đây, há dám lỗ mãng như vậy? May mắn thay được ghi danh vào kim ngọc điệp phả, thực là kỳ duyên ngàn năm có một, kẻ sơn dã không thể nào kìm được sự vui mừng khôn xiết!
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,536
Động cơ
711,984 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Đến khi Chỉnh về tâu lại, Hoàng thượng bèn gả công chúa cho Bình. Bình bèn chọn ngày mùng mười tháng này, sắm sửa hai trăm lạng vàng, hai nghìn lạng bạc, hai nghìn tấm đoạn gấm màu [của phương] Nam, cùng bày biện binh khí cờ xí. Sai văn thần là Thị lang bộ Hình liền cầm tấu bản đến điện Vạn Thọ. Hoàng thượng sai Hoàng tử Sùng Nhượng Công崇讓公 tiếp nhận [tức là Lê Duy Cận, ông từng được quân Tây Sơn lập lên làm Giám quốc Đại Việt trong thời gian ngắn ngủi 1787-1788], rồi cáo với Thái Miếu. Định ngày hôm sau sẽ đưa dâu, sai các Hoàng thân, Phi chủ cùng các quan văn võ, mỗi người sắm sửa xe ngựa, đến ngày đó đợi ngoài cửa điện, đưa công chúa về phủ Bình.
Sáng sớm hôm sau, Bình sai quan làm tấu bản xin nghênh hôn. Sai binh lính đứng hai bên đường phố, từ cửa điện đến cửa phủ. Sĩ nữ kinh thành đứng xem đông như hội, ai nấy đều cho là việc hiếm có từ xưa đến nay. Xe công chúa đến cửa phủ, Bình cưỡi kiệu rồng vàng ra đón. Công chúa vào phủ, Bình bày tiệc ngoài, đãi tiệc các Hoàng thân, Phi chủ và các quan văn võ, ngồi theo thứ bậc. Tiệc xong, lại riêng biệt sắm hai trăm lạng bạc làm quà tặng, sai quan nói lời kính nhường, đưa tiễn ra cửa phủ.
Các quan trở về tập hợp tại công đường bộ Lễ, đều nói:
- Thiên tử có được chàng rể hiền! Từ nay An Nam ta có quốc gia kết hôn thông gia.
Công chúa mới về, còn e thẹn, sau đó quen dần, cùng Bình vào viếng Thái Miếu bái yết các tiên Hoàng đế. Lễ xong, cùng ngồi xe trở về. Bình vốn kiêu căng ngạo mạn, nói với công chúa:
- Trong số con cái hoàng gia, mấy ai được vinh hoa như công chúa!
Công chúa đáp:
- Lộc của hoàng gia bạc bẽo, các hoàng tử công chúa đều thanh bần. Duy thiếp có duyên được sánh duyên cùng Lệnh công, ví như ngọc vụn bay trong mưa, được rơi vào lầu đài là may mắn của thiếp vậy!
Bình rất đỗi vui mừng.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,536
Động cơ
711,984 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Ngày mười bốn tháng đó, Hoàng thượng bệnh nặng. Bình muốn nhân lúc Hoàng thượng còn sống để nhận lễ triều hạ nhất thống, nhằm hiển thị cho trong ngoài thấy công lao phò tá của mình đã hoàn thành, bèn chọn ngày mười lăm tổ chức đại triều lễ, viết bản tấu xin Hoàng thượng.
Đến ngày đó, đặt đại nhạc ở hai bên thềm rồng, quan lễ bày la liệt nghi trượng, nghi vệ, tấu xin Hoàng thượng ra. Các hoàng tử đỡ vua lên ngai vàng, phát hiệu lệnh bắn ba phát pháo, trăm quan lần lượt triều hạ. Lễ xong, ban xuống chiếu thư nhất thống, yết ở ngoài cửa Đại Hưng大興門. Thiên hạ thần dân đều ca tụng Hoàng thượng phúc lộc thọ khảo, có thể nói là hoàn mỹ. [cửa Đại Hưng thời Lê, hay còn gọi là Cửa Nam, nằm ở phía nam của Hoàng thành Thăng Long, thuộc khu vực phố Cửa Nam hiện nay tại Hà Nội. Cửa Đại Hưng là một trong bốn cửa chính của Hoàng thành Thăng Long thời nhà Lê, cùng với các cửa Tường Phù, Quảng Phúc và Diệu Đức. Cửa này có vị trí ở phía nam, gần với khu vực mà ngày nay là phố Cửa Nam. Thời nhà Lê, tại khu vực cửa Đại Hưng, triều đình cho xây dựng đình Quảng Văn, đặt trống đăng văn và dán chiếu chỉ của nhà vua].
Ngày hôm sau, bệnh của Hoàng thượng chuyển nặng, Công chúa mời Bình vào hầu bệnh. Bình nói:
- Nay ta đối với Hoàng thượng nghĩa như cha con, thật lòng muốn nhân lúc Hoàng thượng còn sống, được chiêm ngưỡng dung nhan sáng trong để bày tỏ tình cảm ngưỡng mộ. Nhưng ta vừa từ xa đến, người trong nước chưa chắc đã tin hoàn toàn! Hôm qua Hoàng thượng ra triều, ai biết thánh thể có bệnh? Khiến ta đến mà Hoàng thượng băng hà, chẳng phải sẽ để lại cho ta tiếng thị phi vô cùng sao! Công chúa cứ về hầu, nói với các hoàng huynh đệ để họ hiểu ý ta!
Công chúa bèn từ biệt trở về. Đêm đó, Hoàng thượng tinh thần sảng khoái, gọi Hoàng tự tôn đến, dặn dò việc quốc gia đại sự. Lại gọi Công chúa đến dạy về đạo làm vợ, dặn dò tỉ mỉ chu đáo. Ngày mười bảy, giờ Mão, Hoàng đế băng hà tại Chính Tẩm Điện, lúc đó 70 tuổi, tại vị 47 năm [Dương lịch là ngày 10 tháng 8 năm 1786].
Hoàng đế râu rồng, mũi rồng, tóc hạc, mắt phượng; đi như nước chảy, ngồi như núi vững; tính tình nhân từ hòa nhã, giản dị. Khi còn là Hoàng tử, vì việc Hoàng tử Duy Mật維密 làm phản, bị vương gia nghi ngờ, giam lỏng tại nhà Nội thị Hồng Quận Công洪郡公. Năm Canh Thân [1740], Nghị Tổ mới lập, Hồng Quận Công trấn thủ Sơn Nam, Vương lệnh chuyển giam sang nhà Vương Cữu Bỉnh Quận Công王舅炳郡公. Bỉnh Quận Công ban đầu không biết Vương đã có lệnh, đêm mơ thấy Thiên tử đến nhà mình, cờ xí, nhã nhạc, rực rỡ nghi vệ thái bình. Sáng hôm sau thấy Hồng Quận Công giải Hoàng tử đến giam, Bỉnh Quận Công cả kinh, nghĩ giấc mộng đêm qua chắc chắn không phải ngẫu nhiên, bèn vào tâu với Vương. Lúc đó bốn phương nhiễu loạn, thế nước nguy cấp, Vương [Trịnh Doanh] thấy được điềm lành này, muốn mượn phúc đức của người ấy để bình định thiên hạ, bèn đón Hoàng tử lên ngôi Hoàng đế, lập niên hiệu Cảnh Hưng. Hoàng đế đã lập, bốn phương dần yên, thiên hạ yên bình trở lại. Vương biết phúc của Hoàng đế không cạn, càng kính trọng hết mực. Hoàng đế cũng khiêm tốn tin cậy Vương. Vương thường xuyên dâng cúng, đồ dùng của Hoàng đế dư dả. Hoàng đế buông rèm rủ áo, vô vi, mặc sức vui chơi giải trí, lại còn nhiều tài khéo léo, kỹ nghệ, tự sáng tác tân thanh trong nhạc cung đình, cực kỳ thanh tao thoát tục. Thường dựa theo bản đồ Tam Quốc, sai cung nữ mặc giáp phục cầm gươm giáo, chia thành ba trận Thục蜀, Ngụy魏, Ngô吳, dạy họ ngồi dậy, tấn công, đâm chém để mua vui lúc nhàn rỗi. Cuối đời bị Thánh Tổ chèn ép, người thường không chịu nổi sự phẫn uất, nhưng Hoàng đế vui chơi tự tại, chưa từng chút nào nản lòng. Cả tả hữu đều can gián, vua nói:
- Các ngươi chỉ biết một mà không biết hai, Hoàng gia với Vương gia, thế tất phải nghi kỵ lẫn nhau. Trẫm nếu vì mất quyền mà buồn bực, Vương gia tất sẽ ngầm có mưu đồ khác, cho nên Trẫm giả vờ vui chơi tự giải trí để tránh họa đó!
Lại thường nói với cung nhân:
- Đến đời ta, tất sẽ thấy việc thống nhất thiên hạ, nhưng đó không phải là điều ta vui sướng.
Cung nhân hỏi:
- Vương gia lấn lướt như thế, Vương gia bại thì là phúc của Hoàng gia! Bệ hạ sao lại không vui?
- Thượng hoàng đáp:
- Trời sai Vương gia phò ta, Vương gánh lo, ta hưởng vui. Vương bại thì nỗi lo lại về ta, ta vui sao được?
Khi Đoan Nam Vương mới lên ngôi, quân lính kiêu binh thường có mưu đồ phò tá thống nhất, ngầm xin ý vua. Tả hữu đều khuyên vua nghe theo, vua nói:
- Trẫm thật lòng nghe theo ý trời, mới được đến nước này. Mưu kế của người, Trẫm không làm. Kẻ nào dám nói lại, Trẫm sẽ giao cho Vương xét xử theo phép!
Thế là mưu đồ đó dừng lại. Đến nay Bình làm việc phò tá, trên mặt Thượng hoàng tỏ ra vui mừng nhưng trong lòng lại lo âu, mọi việc ứng phó đều là bất đắc dĩ. Đến khi bệnh nặng, vua nói với Hoàng Tự Tôn皇嗣孫 [tức Lê Chiêu Thống]:
- Ta sớm tối sắp trút bỏ gánh nặng, nỗi lo ở chính mình ngươi, ngươi hãy ghi nhớ điều đó!
Khi sắp băng hà, vua nói:
-Sau khi ta nhắm mắt, việc truyền ngôi đại sự, phải từng việc một bẩm báo với hắn, không được khinh suất.
Nói xong, liền băng hà. Hoàng Tự Tôn lên ngôi.
 

sondong

Xe điện
Biển số
OF-85751
Ngày cấp bằng
18/2/11
Số km
3,297
Động cơ
445,542 Mã lực
Em đánh dấu đọc sau , tất cả các bản dịch của cụ em đều không bỏ sót bản nào
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,536
Động cơ
711,984 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Trước đó, Công chúa về với Bình, Bình hỏi khắp các Hoàng tử ai là người hiền tài, Công chúa đều kể rõ ràng từng người một. Lại hỏi phẩm cách của Hoàng Tự Tôn thế nào? Công chúa chưa thoát khỏi thói thường của phụ nữ, tự cho rằng anh ruột thân hơn cháu, sợ Tự Tôn sẽ đoạt ngôi của Sùng Nhượng Công, bèn nói:
- Hoàng Tự Tôn phẩm cách tầm thường.
Do đó Bình không hài lòng với Hoàng Tự Tôn. Đến lúc này, Thượng hoàng bệnh nặng, triều đình bàn bạc lập Hoàng Tự Tôn, sai người báo cho Bình, nhưng Bình không cho phép. Sứ giả về, triều đình tranh cãi chưa quyết, bỗng có một người ngồi giữa lớn tiếng nói:
- Nếu Tự Tôn không lập, thiên hạ tất loạn, họ Lê tất vong, lỗi ở Công chúa. Công chúa đã thật sự làm lỡ đại kế xã tắc, đáng phải xóa tên khỏi tông thất, để Công chúa về Tây Sơn hưởng giàu sang phú quý, trong tộc ta không thiếu một người này.
Nhìn lại thì đó là Hoàng thân Vượng Quận Công旺郡公. Công chúa sợ hãi, bèn về xin Bình, Bình đồng ý. Đến khi vua băng hà, bá quan mới phò Tự Tôn lên ngôi. Ngày hôm đó, Bình ở trong phủ, nghe tin Tiên đế băng hà, truyền lệnh cho các quân thị vệ chỉnh đốn xe kiệu, nghi trượng để chờ sau khi Hoàng Tôn lên ngôi, nếu Hoàng tộc có người đến lo việc tang lễ, thì đích thân đến lễ tang. Tự Hoàng không hiểu ý này, không dám phiền xin, chỉ sau khi vào cung mới bắt đầu trình báo với Bình. Bình giận vì không xin trước, cho rằng Tự Hoàng tỏ ra xa lạ, sai người hoãn lễ đăng cơ, muốn lập người khác. Đến khi đến nơi thì lễ đăng cơ đã xong, triều đình đã báo cáo xong việc cho Bình. Bình vội vàng gọi Công chúa về, mắng rằng:
- Tiên đế là vị vua của cả thiên hạ; không phải của riêng một gia tộc nào cả! Ta thương tiếc Tiên đế, hôm qua vì tránh hiềm nghi nên không dám vào gặp. Hôm nay muốn nhân lúc chưa liệm để được nhìn mặt ngọc một lần, thể hiện tình cha vợ con rể. Ta đến đột ngột như vậy là không phải phép, nhưng tộc nhà sao lại coi ta như người ngoài mà không mời? Nếu không có ta, triều đình này thành gì? Chính sự này thành gì? Sao dám sơ suất đến thế, ta bỏ đi xem liệu việc sẽ thế nào!
Rồi truyền lệnh cho các quân thủy bộ chỉnh trang, ngày hôm sau liền rút quân về nước. Công chúa khóc lóc van xin giữ lại, lại ngầm sai người tâu lên Tự Hoàng sự việc như vậy. Tự Hoàng bèn sai người đến tạ ơn xin giữ lại, Bình mới dừng. Đến ngày làm lễ thành phục, Thượng hoàng sai quan mời Bình đến dự lễ tế. Bình mặc áo tang đứng ở điện tế, quan sát lễ nghi cực kỳ chu đáo. Có một viên lại tả phiên khi tế lễ mà có vẻ mặt tươi cười, Bình liền ra lệnh lôi ra chém đầu, thái độ đối với lễ nghi cẩn trọng như thế đó. Bình ngầm có ý muốn rời đi, nói với triều thần:
- Tiểu danh nhận lệnh của Vương huynh, cầm quân ở ngoài, đi hay ở chưa biết ngày nào. Tiểu danh lấy danh nghĩa phò tá mà đến, may mắn thay đã hoàn thành nhiệm vụ. Nay là con rể muốn tỏ lòng hiếu thảo với cha vợ, muốn nhân lúc chưa về để hoàn tất lễ tang lễ tế này, để trung hiếu vẹn toàn, đó là nguyện vọng của ta!
Triều thần nói:
- Dám không tuân lệnh!
Thế là chọn ngày xuống thuyền. Bình ngày đêm lo việc tang lễ, tuy đồ nghi trượng sơ sài, nhưng lễ nghi không hề thiếu sót. Đến ngày phát tang, Bình đích thân cưỡi đầu voi với ba nghìn quân, đưa đến bến sông, xem việc phụng linh cữu lên thuyền xong xuôi mới quay về. Đến khi Công chúa về, Bình hớn hở nói với Công chúa:
- Tiên đế có hơn ba mươi hoàng tử, nay chỉ có một người con gái trở về báo hiếu, xem ai có thể giúp được Công chúa một chút nào? Người xưa nói 'con gái làm rạng rỡ gia đình' quả không sai!
Công chúa cảm tạ nói:
- Nhờ công đức của Thượng Công, thiếp mới có thể làm tròn hiếu với Hoàng khảo, mở mày mở mặt với anh em. Tục ngữ có câu: 'Trai không xin vợ, gái xin chồng', là nói đến điều này.

1760346583297.png
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,536
Động cơ
711,984 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Sau khi xuống thuyền, bỗng có tin báo chúa Tây Sơn [Nguyễn Nhạc] xuất quân, Bình lệnh chỉnh đốn công bố ở kinh thành, xưng là Thiên Vương tuần tỉnh quan phong天王巡省觀風, mười ngày nữa sẽ đến, thông báo cho trong ngoài, để mọi người đều biết. Lại sai người tâu với Tự Hoàng, xin cử quan văn võ bá quan ra ngoại ô nghênh tiếp. Ngày mùng 5 tháng 8, chúa Tây Sơn vào thành, Hoàng thượng đích thân nghênh tiếp ở cửa Nam Giao南郊門, sai quan Khâm mệnh đứng bên đường, dâng lời chào rồi quay về. Chúa Tây Sơn sai người đáp lời rồi giục xe đi. Chúa Tây Sơn không quản vạn dặm, đi lại vội vã, không biết vì duyên cớ gì mà đến? Chính là:
長鯨躍海揚鱗去,猛虎離林假翼來。
[Trường Kình dược hải dương lân khứ, mãnh hổ li lâm giả dực lai.]
Cá Kình vẫy vảy lướt biển đi, Cọp dữ rời rừng mượn cánh đến.
Chưa rõ ý định thế nào, hãy nghe hồi sau phân giải.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,536
Động cơ
711,984 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
HỒI THỨ SÁU
西山主潛師返國, 東洋侯倡義扶王.
Tây Sơn chủ tiểm sư phản quốc, Đông Xương hầu xướng nghĩa phù vương
[Chúa Tây Sơn âm thầm kéo quân trở về nước,
Đông Dương Hầu khởi xướng nghĩa phò giúp vua phục hồi cơ nghiệp]

Lại nói về Tây Sơn Chúa [Nguyễn Nhạc] khi Thuận Hóa mới tan vỡ, nhận được thư thắng trận của Bình [Nguyễn Huệ], nói rằng:
- Thần (tức Nguyễn Huệ) tuân theo mưu lược của tông miếu, nghiêm chỉnh đem uy linh, Thuận Hóa đã bình định, thiên hạ chấn động. Nay Bắc Hà tướng lĩnh lười biếng, binh sĩ kiêu ngạo, thế có thể lấy được. Thần xin tùy tiện trước ủy phó cho hữu quân Nguyễn Chỉnh đem tiền bộ thủy sư thẳng đến Sơn Nam. Thần hiện đang thu thập dân chúng các nơi ven biển, sắp xếp tráng đinh để tăng thêm binh thế, định ngày san bằng Bắc Hà. Thành lũy Thuận Hóa đã phụng mệnh để lại cho em thần là Đông Định Công東定公 [Nguyễn Lữ] trấn giữ. Kính xin ban xuống chiếu chỉ để thi hành.
Tây Sơn Chúa xem thư, mừng vì Bình đã thành công, nhưng ghét cái sự tự tiện của Bình, biết Bình ngoan cố và xảo quyệt, e rằng khi đã định xong Bắc Hà trở về ắt sẽ kiêu ngạo, khó mà kìm chế lại được, tự nghĩ:
- Mình sinh ở Nam Hà, được Thuận Hóa đã là quá đủ rồi! Không muốn kiêm tính Đại Quốc [Đàng Ngoài]. Dù có lấy được, cũng không giữ nổi. Vạn nhất có điều sai sót, cái mất mát không nhỏ.
Liền sai người mang thư gấp ngăn Bình đừng tiến quân nữa. Đến nơi thì Bình đã đích thân dẫn đại binh, thừa gió Nam thẳng tiến ra Bắc rồi. Tây Sơn Chúa càng không vui. Đến ngày 26 tháng 6 (âm lịch), kinh đô tan vỡ. Bình lập tức đem thư thắng trận phi ngựa vào Tây Sơn báo tin. Trong thư nói:
- Thần trước đây vâng mệnh tùy tiện bình định Bắc Hà, nhờ uy danh của vương huynh, một trận là thắng lợi. Họ Trịnh đã diệt, thiên hạ thống nhất. Thần đã chiều theo nguyện vọng của quốc dân, phò lập họ Lê, để yên lòng dân. Nay trong nước mới định, thần xin cho quân sĩ nghỉ ngơi, tạm ở lại kinh đô, vỗ về trăm họ, tùy tiện sắp xếp kiểm soát. Đợi mùa thu có nhiều gió thuận, thần xin vâng mệnh trở về nước.
Thư ấy ngày 14 tháng 7 đến Tây Sơn. Tây Sơn Chúa rất kinh ngạc, trầm tư: Bình lập nhiều chiến công, kiêu ngạo đã tăng, hắn nắm trọng binh, chuyên chế vạn dặm. Văn Nhậm文任 và Chỉnh đều là tướng dũng mãnh, trí tuệ, đã bị hắn sai khiến. Dù để hắn bay lượn bên ngoài, lâu ngày tất sẽ gây ra nhiều chuyện không hay. Thế lực hắn như vậy, không thể dùng thư giấy mà triệu về, trừ phi mình đích thân đến buộc hắn phải quay về, đó là “thả hổ ra khỏi chuồng, rốt cuộc không phải là vật có thể thuần phục.” Ngay trong ngày, Nguyễn Nhạc tự đem theo 500 binh lính thị vệ thẳng đến Phú Xuân, điều động thêm hơn 2.000 binh lính Phú Xuân, gấp bội đường mà đi, thẳng hướng kinh sư tiến phát. Quân đi vội vàng, binh lính dáng vẻ tiều tụy, không ai biết đó là quan quân của vị tướng nào.
Đến Hội thống Hải môn ở Nghệ An [Hội Thống hải môn, còn gọi là cửa biển Hội Thống, nằm ở phía Bắc tỉnh Hà Tĩnh, giáp ranh với xã Nghi Hải, thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An. Cụ thể, cửa biển này là ranh giới tự nhiên giữa hai tỉnh, nơi sông Lam đổ ra biển Đông], có dân làng mang hải sản đến yết kiến, nói:
- Dân tiểu thấy quan lớn đi qua, có chút vật mọn không đáng giá để bày tỏ chút lòng thành.
Tây Sơn Chúa tính giản dị, lời nói không hoa mỹ, đáp:
- Tôi không phải quan lớn gì, tôi là vua Nam Hà, người ngoài quen gọi là Biện Lại Nhạc đó. Các ông có lòng tốt thấy tôi đi xa, chỉ ăn lương khô đồ chay, mà lại mang thức ngon vật ngọt đến biếu, đa tạ, đa tạ!
Rồi lại vội vàng rời đi.
Bỗng thấy mấy chục người chỉ mặc quần đùi, mỗi người cầm một ống tre, thân trần đứng bên đường chờ Tây Sơn Chúa đi qua, hô lên rằng:
- Chúng thần về Nam, bị Chưởng Tiến đòi tiền mãi lộ, cướp sạch hết tài vật rồi!
Tây Sơn Chúa hỏi:
- Hắn ở đâu?
Đáp:
- Hắn vừa có của thì vội vàng vào núi rồi!
Tây Sơn Chúa sai người đuổi theo, vừa vào chỗ hiểm, mấy chục người ấy mỗi người liền lôi dao giấu trong ống tre ra, hô lớn:
- Các ngươi có biết bọn ta là ai không? Bọn ta là thuộc hạ của Chưởng Tiến đó, cố ý đến chém đầu lũ ‘hồng mao’ các ngươi!
Vừa hô vừa chém, các loại dao loạn xạ chém ra, lính Nam bỏ chạy, Tây Chúa kinh hoàng cực độ. Từ đó trên đường không dám nghỉ lại nhà dân, chỉ trải màn ngủ ngoài đồng trống, quân lính đều ngủ lộ thiên. Đến khi tới kinh sư, tất cả đều tiều tụy, gầy gò, không còn phong thái của bậc vương giả. Khắp thiên hạ đồn rằng thành Tây Sơn đã bị họ Nguyễn đánh phá, bị thất thủ mà đến; hoặc nói Bình dùng quỷ kế, lừa lấy một người giả làm vương huynh để tăng thêm thế lực. Các hào kiệt trong thiên hạ cùng những người chiếm giữ châu quận, ngầm nuôi quân mã, ai nấy đều muốn dò xét hư thực để mưu đồ chiếm đoạt, nhưng không ai biết được thực tình.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,536
Động cơ
711,984 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Tây Sơn Chúa mới đến kinh đô, Bình ra ngoại ô nghênh tiếp, tạ tội tự tiện. Tây Sơn Chúa nói:
- Tướng ở ngoài biên ải, nếu có lợi cho quốc gia, thì tự tiện cũng được! Bắc Hà có thể lấy được mà công [tức Nguyễn Huệ] có thể lấy được, đây chính là chỗ dụng binh thần diệu. Công [Nguyễn Huệ] vượt vạn dặm, mở đất rộng, thủ đoạn anh hùng như vậy, thật không phải là điều huynh [Nguyễn Nhạc] có thể sánh kịp! Song đánh nước người, quân đội đi sâu vào, một sớm đổi cũ, vạn dân thành thù, huynh có nỗi lo bất ngờ, cho nên vội vã từ xa đến để cùng công chia sẻ mối lo đó mà thôi!
Thế là cùng lên kiệu vào thành, đến phủ, Bình dẫn vợ là công chúa đến yết kiến, lại trình bày sự thật. Tây Sơn Chúa nói:
- Là em Tây Sơn Chúa, lại là cháu rể của vua nước Nam, môn đăng hộ đối, thật là lương duyên tốt đẹp!
Lại nói với công chúa:
- Người quý phái như vậy, thật không hổ là em dâu nhà ta!
Nói chuyện ân cần như anh em trong nhà. Lâu sau công chúa cáo lui, Bình bày biện màn trướng trong chính tẩm cung, mời huynh ở, còn mình thì lui về ở Lân Các. Các đội quân do Bình quản lý đã thay đổi một lần, đến đây cũng nộp binh phù cho huynh [Nguyễn Nhạc]. Tây Sơn Chúa nắm được binh quyền, vẫn bố trí đội ngũ như cũ, còn những người ban đầu thay đổi thì giả vờ như không biết, quan quân lại chỉ nghe theo mệnh lệnh của đại quân [Nguyễn Nhạc]. Thế là bí mật cùng Bình định kế hoạch về, Bình chỉ đành thuận theo, các tướng chỉ có Võ Văn Nhậm biết, Chỉnh không được nghe.
Lại nói về Nguyễn Hữu Chỉnh, khi mới vào kinh đô cùng Võ Văn Nhậm ở chung tại Ngũ Long Lâu五龍樓. Nhậm ở phía trước lầu, Chỉnh ở phía sau lầu. Chỉnh vốn là người bản xứ, quen biết nhiều, người trong nước cũng chỉ biết có Chỉnh. Quan lại, sĩ phu, thứ dân đến yết kiến đều vào cửa của Chỉnh, phía sau lầu đông như chợ. Còn phía trước lầu chỗ Nhậm ở không một ai đến. Nhậm lấy làm không vui. Chỉnh bèn sai viên lại mới theo mình đến ở cửa nhà Nhậm, mời khách đến chỗ Nhậm, nhưng khách cũng không đến. Chỉnh đành phải, phàm khách đến gặp Chỉnh, sau khi tiếp đãi xong, Chỉnh sai người yêu cầu khách đó và cả lễ vật mang sang cửa nhà Nhậm, nhưng Nhậm rốt cuộc vẫn không vui. Chỉnh bèn chuyển đến ở chùa Tiên Tích仙跡寺 [Chùa Tiên Tích toạ lạc ở phía nam kinh thành Thăng Long xưa, nay ở phường Cửa Nam, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội].
Nhậm gièm pha Chỉnh với Bình rằng:
- Hắn (Chỉnh) là kẻ bề tôi bỏ trốn đến nương tựa ta, muốn mượn sức ta để trả thù cho thầy của hắn, để được thỏa mãn ý nguyện ở cố quốc. Ta vạn dặm xa xôi đưa hắn về nước, vì hắn mà vẽ mặt tô mày. Hắn đã đắc chí mà được người trong nước xu phụ, hoặc dò hỏi câu đối tháp chùa Thiên Mụ nhà Nguyễn rằng: ‘Hổ tự Tây Sơn xuất, Long tùng Đông Hải la虎自西山出,龍從東海來 [Hổ từ Tây Sơn ra, Rồng từ biển Đông đến]. Coi ngài là hổ, coi hắn là rồng. Hổ rời núi thì mất thế, rồng ra biển thì bay vút. Hắn không những không vì ta mà dùng, lại còn có chí không an phận. Nay ta giữ mấy vạn người ngồi ăn ở đây, bảo vệ hắn để thành thế lực cho hắn, đó là điều hết sức không khôn ngoan! Thần nghe nói người trong nước oán hắn quá sâu, sở dĩ chưa nổi dậy là chỉ vì sợ ta thôi! Nếu ta bỏ hắn mà về, người trong nước tất sẽ tranh nhau xâu xé thịt hắn. Vả lại hắn thường nói, nhân tài Bắc Hà chỉ có một mình hắn, hắn chết rồi ta lấy Bắc Hà càng thêm yên ổn.
Bình tin lời Nhậm, tuy đối đãi với Chỉnh bề ngoài không suy giảm, nhưng trong lòng đã nghi ngờ. Quân lính Nam Hà cũng vì đi xa mà oán ghét Chỉnh, ngày đêm mong Bình giết Chỉnh. Biết Bình nhất định sẽ giết Chỉnh, họ công khai lăng nhục Chỉnh. Người trong nước có người theo Chỉnh, hoặc mang binh phù của Chỉnh mà vượt qua cấm địa, quân lính Nam Hà tra hỏi, thì đáp rằng:
- Ta có quan phù tín của hữu quân ở đây!
Quân lính Nam Hà nói:
- Hữu quân là ai? Chẳng phải Nguyễn Chỉnh đó sao! Cứ đợi nửa tháng nữa, xem hữu quân của ngươi còn ra sao!
Chỉnh nghe vậy, bèn sinh lòng hai ý với Bình, vả lại biết Bình sớm muộn gì cũng sẽ đi, mình đã không thể một mình ở lại kinh đô, ngầm có chí cát cứ Nghệ An. Chỉnh mật tâu với vua [Lê Chiêu Thống] rằng:
- Thần đưa hắn [Nguyễn Huệ] đến đây chỉ vì muốn phò tá tôn phò. Nay việc đã thành, thần quyết không theo hắn nữa. Đoán rằng hắn nhất định sẽ về. Hắn về rồi, Nghệ An sẽ là tấm bình phong của quân lang sói (ám chỉ quân Tây Sơn). Xin bệ hạ ban cho thần trấn giữ một mặt Nam Hà (tức Nghệ An), thần xin tự mình gánh vác.
Đến khi nghe tin Tây Sơn Chúa xuất phát, Chỉnh nghĩ Tây Sơn Chúa nhất định sẽ đoạt ngôi vua mà chiếm lấy nước, sẽ dựa vào Tây Sơn Chúa để tự bảo toàn. Thế là Chỉnh vội vàng xin vua [Lê Chiêu Thống] đem ấn tín đón hàng, thúc giục triều thần gấp rút sửa biểu hàng. Triều đình bàn bạc mấy ngày không quyết, không ai dám đặt bút trước. Đến khi Tây Sơn Chúa đến, Hoàng thượng đích thân ra đón ở ngoại ô phía Nam. Hoàng thượng đứng trong cửa cung, sai hoàng thân Thanh Phái Hầu清派侯 quỳ bên đường, thay mặt để chào. Xe của Tây Sơn Chúa đi qua cổng ngoại ô, vội vàng đi mà không đáp. Lại sai sứ giả, sứ giả đáp rằng:
- Quả quân (tức Nguyễn Nhạc) cho rằng Tự Hoàng quá lễ, e rằng xe chậm, hoặc làm mệt thân thể quý giá của ngài phải quỳ lạy, trái lại là thất lễ với quả quân, cho nên vội vàng đi. Xin ngài ngự giá về cung, đổi sang ngày khác rảnh rỗi rồi hãy gặp mặt.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,536
Động cơ
711,984 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Vua Lê Chiêu Thống biết Tây Sơn Chúa vẫn còn ý ưu đãi, đã về cung rồi thì không bàn bạc việc đầu hàng nữa. Ngày hôm sau, Tây Sơn Chúa đặt chỗ ngồi ở phủ đường. Tây Sơn Chúa ngồi ngay chính giữa, Hoàng thượng ngồi ghế ở bên trái, Bình ngồi ghế ở bên phải. Thị vệ giáp sĩ hai hàng nghiêm chỉnh, đó là lễ nghi hai vua gặp nhau, không bái lạy. Hoàng thượng ngự giá đến cửa phủ, Tây Sơn Chúa sai quan tùy tùng ra đón. Hoàng thượng bước đến trước thềm, Tây Sơn Chúa đứng dậy ở bên cạnh giường để tỏ lòng kính trọng, sai Bình xuống bậc thềm đón, mời đến ghế ngồi, ngồi yên vị. Tây Sơn Chúa hỏi:
- Tự Hoàng bao nhiêu tuổi?
Quan tùy tùng thay mặt trả lời, rồi nói rằng:
- Quốc quân của chúng thần (tức Lê Chiêu Thống) họ Lê bị họ Trịnh cướp đoạt, mũ giày lộn ngược, may nhờ Thánh thượng (Nguyễn Nhạc) chí nhân đại nghĩa, sai tướng xuất quân, vì quốc quân của chúng thần mà chỉnh đốn hoàng đồ. Hiện nay đất đai và nhân dân Nam Quốc đều do Thánh thượng tái tạo. Thánh thượng nếu thu vài quận huyện làm phần thưởng, quốc quân của chúng thần chỉ xin tuân theo mệnh lệnh!
Tây Sơn Chúa nói:
- Thần nghe Thái Tổ [tức vua Lê Thái Tổ] khai thác Nam Việt công đức như trời. Thần ở chốn hẻo lánh nơi Nam Hải, cũng trong phạm vi Thái Tổ khai thác vũ trụ. Thần phẫn nộ vì cường thần (họ Trịnh) uy hiếp, cho nên mới có hành động tôn phò. Nếu là đất đai nhà Trịnh thì một tấc không để lại, còn đất đai nhà Lê thì một tấc cũng không dám lấy. Thần vì trung quốc (tức Đại Việt) mới định, còn bận việc cai quản, cho nên đến giúp. Sau khi bốn phương bình định, anh em thần sẽ trở về bản quốc. Chỉ mong Tự Hoàng [Lê Chiêu Thống] phấn phát cương chính, bảo vệ cương thổ, cùng với nước thần [Tây Sơn] đời đời giữ mối giao hảo láng giềng thân thiện, đây chính là phúc của hai nước!
Quan tùy tùng lại thay mặt vua Lê đáp lời:
- Thánh thượng [Nguyễn Nhạc] niệm đến công đức của tiên Hoàng đế, may mắn cho tiếp nối dòng dõi, khiến cơ nghiệp của tiên Hoàng đế của thần không bị tuyệt diệt, thật là nhờ ân huệ của Thánh thượng, công đức vô cùng. Quốc quân và bề tôi của chúng thần xin đời đời giữ mối giao hảo láng giềng, không dám trái lời.

1760346919308.png
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,536
Động cơ
711,984 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Tây Sơn Chúa bèn ra lệnh pha trà, cùng nhau uống trà thong thả. Hoàng thượng cáo từ về. Tây Sơn Chúa đứng dậy từ biệt, Bình tiễn đến bậc thềm, Tây Sơn Chúa theo đó, khom mình lùi bước mà quay lại, sai quan tùy tùng hộ tống Hoàng thượng ra ngoài cửa phủ. Hoàng thượng lên kiệu về cung, truyền cho triều thần vào yết kiến.
Tây Sơn Chúa hỏi khắp các quan chức và họ tên, các quan đều đáp lời xong. Tây Sơn Chúa nói:
- Thần nghe nói tiến sĩ nước An Nam là quý nhất, các vị đây chẳng phải là tiến sĩ sao? Thần sẽ tâu với Tự Hoàng, xin vài vị về bản quốc để dạy người trong nước, các vị có bằng lòng theo không?
Các quan triều thần đối đáp:
- Chúng thần chỉ xin tuân theo mệnh lệnh của quốc quân của chúng thần, Đông Tây Nam Bắc nào dám từ chối!
Tây Sơn Chúa nói:
- Các vị lần đầu gặp thần, thần đột nhiên đến, có từng nghi ngờ thần không?
Đối đáp:
- Thánh thượng đã sai Thượng Công (Nguyễn Huệ) phò lập nhà Lê, việc này đã rõ ràng, chúng thần còn dám nghi ngờ gì nữa?
Tây Sơn Chúa nói:
- Nghi ngờ thần là kẻ ngu. Trịnh Vương [Trịnh Sâm] cất quân vạn dặm, thôn tính Thuận Hóa, lấy lớn hại nhỏ, dẫn đến họa ngày nay. Gương đó há chẳng xa sao? Thần nếu tham lam nước Nam, lấy nhỏ hại lớn, thì có thể lâu bền được sao? Dù cho bản thân thần có thể giữ được, con cháu cũng chưa chắc có thể giữ được? Thần há ngu mà nuôi cái mầm họa này sao! Anh em thần chẳng bao lâu nữa sẽ về, các vị nên phò tá Hoàng gia để yên thiên hạ, hai nước giữ mối láng giềng thân thiện, vĩnh viễn vững bền hòa hảo, để cùng hưởng phúc thái bình.
Các quan đều tâu rằng:
-Truyền rằng: ‘Thánh nhân không cần lo kế sách xa vời.’ Thánh thượng lo nghĩ đến điều này, quả thực vạn vạn phần là điều có thể xảy ra. Song quốc quân của chúng thần còn trẻ tuổi, chưa đảm đương được nhiều việc, chúng thần cũng đều là kẻ tài hèn. Thánh thượng đã vì nước chúng thần mà giữ gìn, xin tạm ở lại đây, để quốc quân và bề tôi của chúng thần nhờ vào uy lực của ngài. Đợi sau khi bốn phương bình định, kỷ cương được dựng lại, ngự giá khải hoàn về cũng chưa muộn.
Tây Sơn Chúa nói:
- Dù có về cũng phải đợi năm tháng, há phải trong vài ngày sao? Các vị đừng lo.
Triều thần cúi lạy tạ ơn rồi lui ra, riêng tư bàn luận, có người cho rằng lời hắn (Tây Sơn Chúa) là thật; có người lại cho rằng lời hắn là giả, đại khái tính toán chuyện hắn ở lại hay đi, hư hư thực thực, không thể dò xét rõ được tình hình. Thế nhưng, việc người trong nước có nhận ra hay không, hắn [Nguyễn Huệ] đều không bận tâm. Riêng Nguyễn Hữu Chỉnh là người trong phe cánh của hắn, lại lắm mưu mô xảo quyệt, nên hắn luôn tìm mọi cách để khống chế. Khi ấy, Tây Sơn Chúa đang vội vã muốn rút quân về, nhưng bên ngoài lại tỏ vẻ thảnh thơi, ra lệnh cho Chỉnh chọn ngày lành, chuẩn bị lễ vật để yết cáo Thái Miếu. Chỉnh xin sau Rằm Trung thu, Tây Sơn Chúa đồng ý. Lại nhân tiện nói đến chuyện hôn nhân của Bình, [Nhạc] nói với Chỉnh:
- Thất Lang [Nguyễn Huệ, hoặc một cách gọi thân mật nào đó] nhờ khanh làm mối mà tìm được vợ hiền, sao riêng ta lại không có?
Chỉnh đáp:
- E rằng Thánh thượng chê phụ nữ Bắc Hà chăng! Nếu Thánh thượng có lòng bao dung, thì việc này chắc chắn không khó.
Tây Sơn Chúa cười nói:
- Vậy thì khanh vẫn còn nợ ta đó, phải sớm trả đi thôi.
Chỉnh thấy lời nói của hắn thong thả, ung dung, từ đó an tâm, bèn cáo từ Tây Sơn Chúa mà lui ra.
Ngày 17, Tây Sơn Chúa bí mật hạ lệnh cho các đạo quân thủy bộ, mỗi đội tự mình âm thầm thu dọn hành trang. Bình sợ Chỉnh ở bên ngoài nhìn thấy động thái mà sinh nghi, bèn gọi Chỉnh vào thị hầu, từ sáng sớm đến chiều tối. Người ngoài không được vào, tin tức bên ngoài không được thông. Chỉnh hoàn toàn không hay biết gì, mãi đến khi đêm xuống mới được cho ra. Khi Chỉnh về đến nhà, có người thuật lại cho Chỉnh nghe, Chỉnh vừa nghi vừa tin, nói:
- Ta cả ngày đối thoại với hắn thong thả như vậy, sao có thể có chuyện luống cuống đến thế?
Đến canh hai đêm đó, Tây Sơn Chúa bí mật sai người gõ cửa điện tâu với Hoàng thượng là dời ngày rút quân, Chỉnh không hề hay biết. Trước đó hơn mười ngày, mỗi đêm tiếng chiêng trống vang trời. Khi đêm xuống, vào canh một hoặc canh hai, tiếng chiêng trống vẫn còn lác đác. Sau canh ba thì hoàn toàn im lặng. Trong kinh thành, cứ đến nửa đêm, người ta lại nghi ngờ quân Tây Sơn đã âm thầm rút đi, nhưng đến sáng sớm lại thấy doanh trại quân vẫn còn nguyên vẹn. Sau này, điều đó trở thành chuyện thường, việc kiểm tra canh trống cũng không còn chuẩn xác nữa. Binh pháp Tây Sơn, lệnh cấm ban đêm là nghiêm ngặt nhất, do đó thám tử của Chỉnh không thể ra ngoài vào ban đêm. Đêm đó, vào đầu canh năm, thám tử của Chỉnh bất chấp lệnh cấm mà đi. Qua mấy trạm gác, vừa đi vừa lắng nghe, không nghe thấy tiếng người. Bước đến phủ [nơi ở của Nguyễn Huệ], nhìn bốn phía không một bóng người, chỉ thấy những chiếc gáo múc nước và lưới rách nằm vương vãi trên đường. Vội vã đến bến sông, nhìn ra xa mịt mờ, chỉ thấy nước và trời. Hàng trăm chiến thuyền không biết đã đi đâu mất rồi? Thám tử trở về báo cáo, Chỉnh ngơ ngác, tự biết mình đã mất thế, không dám ở lại. Trên sông không có thuyền, trên bộ không có binh, trốn cũng không có chỗ nào dung thân, không biết phải đi đường nào?
Người nhà của Chỉnh đều kinh hoàng. Chỉnh, trong lúc hiểm nguy giữa sự sống và cái chết, vẫn nói đùa:
- Ta đã đi khắp bốn biển chín châu rồi, đến khi về đến bếp lại bị chuột cắn vào chân. Không sợ, không sợ, ta cứ ở lại đây, xem sao đã!
Thế là người nhà phần nào yên lòng. Chỉnh bèn bí mật sai người gấp rút đến bến Cơ Xá箕舍津 tìm thuyền. Sáng sớm tìm được một chiếc thuyền buôn, Chỉnh cùng mấy chục thủ hạ đi đến cửa Tây Long Ổ西龍塢門. Người trong kinh thành kéo ra truy đuổi. Chỉnh một mình vung đao chống trả, người trong thành tản ra khắp nơi. Chỉnh lén lút tìm được một con đường đến bến, thả thuyền xuôi dòng, theo quân Nam (quân Tây Sơn) hướng về Cửa Biển mà đi. Vô số quân trang, xe ngựa, khí giới đều bị bỏ lại ở chùa Tiên Tích. [thời Lê, bến Cơ Xá nằm ở khu vực ven sông Hồng, thuộc địa phận phường Bách Đằng, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội ngày nay. Cụ thể, đó là khu vực bãi giữa và hai bên bờ sông Hồng, nơi ban đầu là đất của làng Thái Hòa, sau khi nhường đất để xây dựng kinh thành Thăng Long, dân làng đã di dời đến đây. Khu vực này, còn được gọi là bãi Trung Giang, sau này trở thành nơi thờ phụng Lý Thường Kiệt tại đình Phúc Xá Bắc Biên và đền Cơ Xá, hiện nay là số 4 phố Nguyễn Huy Tự]. Sáng sớm, có người tâu lại sự việc cho Hoàng thượng [Lê Chiêu Thống] nghe. Hoàng thượng không tin, sai người đi kiểm chứng, quả nhiên là thật. Hoàng thượng kinh hãi, bàng hoàng, truyền lệnh triệu tập các quan vào triều, nói:
- Anh em hắn đã cướp bóc hết đất nước ta mà đi, để lại cho ta một đất nước trống rỗng. Nếu có tình huống khẩn cấp thì lấy gì để chế ngự đây?
Các quan nhìn nhau không biết nói gì. Quan lại tả hữu tâu:
- Hôm qua đã truyền lệnh, hôm nay thiết triều. Nay ngự giá đã chuẩn bị rồi, xin dám tâu.
Hoàng thượng hỏi các quan:
- Sẽ bỏ triều chăng?
Các quan tâu:
- Hoàng thượng ra triều, hạ chiếu cải nguyên, đây là đại lễ, sao lại bỏ?
Hoàng thượng bèn ra triều, lấy chiếu thư ban bố việc cải nguyên, lấy năm Đinh Mùi (1787) sắp tới làm năm Chiêu Thống nguyên niên昭統元年. Trong chiếu thư có đoạn nói: một là nhờ ơn Quốc vương quý quốc; hai là nhờ ơn Thượng công quý quốc. Lời lẽ đều là văn phong khi Tây Sơn Chúa vẫn còn tại vị, lại còn đổ lỗi nhiều cho nhà Trịnh. Có người nói:
- Hắn đã rút về rồi, lẽ ra nên thay đổi hết đi. Nhưng vì vội vàng không kịp, nên tạm thời cứ dùng nguyên văn không đổi.
Tan triều, Hoàng thượng lệnh cho các quan hội họp ở sân triều để bàn việc. Thì ra Hoàng thượng bản tính anh dũng, quả quyết, từ lâu đã căm ghét sự khống chế của vương gia [nhà Trịnh], lại có mối thù không đội trời chung với Trịnh Vương. Nên khi Tây Sơn diệt Trịnh thì rất đỗi vui mừng. Khi Đoan Vương [Trịnh Tông] mất, lúc đó Hoàng thượng là cháu đích tôn, Tiên Đế [Lê Hiển Tông] đã lệnh Hoàng thượng dẫn các hoàng tử đến chỗ Bình để chúc mừng. Hoàng thượng nói với Bình:
- Cô (ta, lời nói nhún nhường) có cha, mà Công lại vì ta báo thù cho cha. Đời này ta không còn nguyện vọng gì hơn nữa. Dù thân ta có chết ở quý quốc, cũng không có gì phải hối tiếc! Huống hồ công còn phò lập, khiến ta được phụng sự xã tắc lâu dài, công đức này sao có thể kể xiết?
Bình đáp:
- Thiên đạo báo ứng. Tiên Thái tử [Lê Duy Vĩ] bị hại, Hoàng tôn [Lê Chiêu Thống] cố nhiên nên hưởng phúc thái bình thống nhất.
Đến khi Tiên Đế băng hà, Hoàng thượng lên ngôi, hùng hồn tự nhận trách nhiệm thống nhất, muốn nhân việc quân Nam [Tây Sơn] tôn phò mà tự mình gây dựng uy thế. Quân Nam chưa về, ngài đã ngầm tích trữ lực lượng vệ sĩ, sai các hoàng thân quốc thích về lại quê quán, chiêu mộ binh mã để tùy nghi điều động, lại chiêu nạp các sĩ phu, đưa vào mưu lược. Ngài có được các văn thần như Ngô Vi Quý吳為貴, Võ Trinh武楨, Nguyễn Xưng阮稱… ngày đêm cùng bàn bạc, tính toán mọi kế sách để phòng bị những lúc cấp bách, không gì là không lường trước. Bấy giờ, các danh tướng trong thiên hạ có Sóc Quận Công Hoàng Phùng Cơ碩郡公黃馮基, Liễn Quận Công璉郡公 Đinh Tích Nhưỡng丁錫壤. Các văn thần có dũng lực có Dương Trọng Tế楊仲濟.
 
Thông tin thớt
Đang tải
Top