Cụ khoailang đòi lái về quân tướng hổ báo Thanh-Nghệ em pót các đoạn về quân thiết đột cho vừa lòng cụ nhé, nhân tiên cũng bàn về vai trò tướng Trần Nguyên Hãn và Phạm Văn Xảo (hai đại diện nổi tiếng của trung châu hay kinh lộ) trong quân Lam Sơn. (Lưu ý em trích trong link đã đưa bên nghiên cứu lịch sử, em đọc thấy phân tích hợp lý thì đưa về chứ em không phải trình độ cao thâm gì như cụ át cụ khoai nhé
)
Sau các chiến thắng của quân Lam Sơn với 2 đạo viện binh Liễu Thăng và Mộc Thạch, Hai bên (Vương Thông và Lê Lợi) tiến hành hội thề chấm dứt chiến tranh ở phía Nam thành Đông Quan vào ngày 22 tháng 11 năm Tuyên Đức II (1427). Phía An Nam, nhân danh Trần Cảo là đầu mục Lê Lợi cùng nhóm quan tướng nhiều người giả danh họ Trần.
Trần Nguyên Hãn và Trần (Phạm) Văn Xảo, hai quân nhân kinh lộ, dù địa vị trong lực lượng kháng chiến kém xa các chỉ huy Thiết Đột như Lưu Nhân Chú, Trịnh Khả, Lê Vấn… vẫn chiếm vị thế quan trọng trong hội thề[41].
Như vậy, trên danh nghĩa chính thức, áp lực tái dựng họ Trần từ Vương Thông là cực lớn. Nhóm Lam Sơn gốc buộc lòng sử dụng Trần Cảo nhưng chỉ xem như chiêu bài. Vài thành viên Lam Sơn xuất thân trung châu lại nghĩ khác, họ thấy người Minh mang đến cơ hội.
Ngay khi còn ở dinh Bồ Đề, Lê Lợi đã tiến hành khen thưởng người có công. Đợt đầu tiên chỉ dành cho quân nhân Thiết Đột tham gia nổi dậy từ trứng nước. Sự kiện minh xác một điều :
Thiết Đột là lực lượng nòng cốt đánh bại quân Minh. Chúng ta nên lưu ý trường hợp Trần Nguyên Hãn và Phạm văn Xảo.
Hãn là võ tướng nhưng chỉ huy quân phụ trợ,(153) Xảo là tướng tham mưu, cả hai không thuộc phần tinh nhuệ của chủ lực nên vắng mặt trong lần ban thưởng ưu tiên.
Câu chuyện ba người kinh lộ chiến đấu dưới cờ Lam Sơn với kết cục bi thảm của cả ba gây xúc động lâu dài trong lòng người trung châu. Do vậy, vây quanh họ nổi lên nhiều huyền thoại. Chúng ta sẽ phân tích sơ lược hoạt động của Hãn và Xảo dưới đây từ thư tịch gần đương thời nhất. Dù tư liệu cũ có thể bị biến cải bởi hậu bối, nhưng bóc tách ý kiến hình thành hàng trăm năm sau không phải hoàn toàn nan giải.
Tư Đồ Trần Nguyên Hãn xuất hiện trong chính sử lần đầu tiên vào năm 1425 khi nhận lệnh Lê Lợi cùng Lê Nỗ, Lê Đa Bồ kéo 1.000 quân và một thớt voi đi kinh lý Tân Bình, Thuận Hóa. Ba tướng hợp lực đánh bại Nhậm Năng gần sông Bố Chính (sông Gianh), tạo điều kiện cho thủy quân chỉ huy bởi Lê Ngân, Lê Bôi, Lê văn An giải phóng hoàn toàn hai phủ cực nam. Mùa đông năm 1426, Lê Lợi sai Hãn cùng Lê Bị mang binh thuyền vây Đông Quan từ hướng bến sông Đông Bộ Đầu. Tháng 9 ta năm 1427, Thái Úy Hãn cùng Lê Sát, Lê Triện(?), Lê Lý hạ thành Xương Giang. Riêng trong loạt trận đánh quan trọng tiêu diệt Liễu Thăng, bắt sống Thôi Tụ – Hoàng Phúc, Hãn giữ vai trò chặn đường tiếp lương của giặc chứ không tham gia đại chiến.
Khu mật đại sứ Phạm văn Xảo nổi lên vào tháng 8 ta năm 1426 khi Lê Lợi điều động ông cùng Lê Triện, Lê Khả, Lê Như Huân, Lê Bí đi tuần các xứ nay thuộc Ninh Bình, Sơn La, Vĩnh Phú, Hòa Bình, Yên Bái, Tuyên Quang…Theo Toàn Thư, Tháng 9, Xảo và Khả đánh tan viện binh của Vương An Lão ở cầu Xa Lộc, lộ Tam Giang. Tháng 10 ta năm 1427, Xảo cùng Lê Khả, Lê Trung, Lê Khuyển đẩy lùi quân Mộc Thạnh tại cửa Lê Hoa.
Xét công vụ Trần Nguyên Hãn, chúng ta thấy hoạt động khởi đầu của ông là cùng hai tướng khác dẫn đội tiên phong đánh thăm dò thực lực kẻ địch tại Tân Bình, Thuận Hóa. Thời trung cổ, vai tiên phong thường do loại tướng mới quy thuận đảm nhận. Trong chiến dịch, Lê Ngân là người lãnh đạo đại quân lấy lại hai phủ vùng biên.
Trong trận tấn công Đông Quan vào tháng 10 ta năm 1426, Hãn và Lê Bị phụ trách tấn công từ bến sông Đông Bộ đầu. Lê Lễ đột kích từ cầu Tây Dương, Lê Lợi áp sát cửa Nam. Nghĩa quân thắng lớn, thu nhiều chiến thuyền và nghi trượng. Quân Lam Sơn dọn sạch các đồn trại ngoại vi nhưng không vào được thành.
Chỉ huy công hãm Xương Giang có nhiều tướng Thiết Đột nhưng đại đa số quân bao vây lại huy động từ Lạng Giang, Khoái châu. Minh Thực lục chép rằng tòa thành với 2.000 lính trú phòng phải đương đầu 80.000 quân Lam Sơn. Vì sao quân kinh lộ được sử dụng quy mộ khác thường ở đây? Vì công tác đắp đất, đào ngầm, chế chiến khí, tiếp lương thực không phải phần việc dành cho đơn vị tinh nhuệ. Việc của dân công, công binh, thậm chí chiến sĩ tiền phong hãm thành nếu dùng đến tinh binh sẽ là sự phung phí xung lực vô nghĩa. Trần Nguyên Hãn hẳn được giao bộ phận “Phụ Thiết Đột các quân” để thực hiện phần việc mang tính hỗ trợ. Ngày cuối cùng, quân khởi nghĩa dùng câu liêm, giáo dài, nỏ cứng, tên lửa, súng lửa hạ thành. Trong quân Lam Sơn, đơn vị nào được trang bị vũ khí mạnh nhất thời đó như tên lửa, súng lửa, voi? Dĩ nhiên là Thiết Đột, dưới nữa có binh phụ tử người trại. Tên lửa, súng lửa dùng để bắn quấy rối hàng ngày gây căng thẳng tinh thần quân đồn trú, hoặc khai triển đại trà để tổng công kích. Có thể hình dung quân kinh lộ sử dụng câu liêm, giáo dài, nỏ cứng tấn công lên mặt thành. Cùng lúc, quân cảm tử trồi lên từ địa đạo trổ mở sau lưng địch. Khi hệ thống phòng thủ rung chuyển đến điểm “chín”, Thiết Đột phóng hỏa khí trấn áp ý chí giặc rồi cùng đoàn voi xung phong ồ ạt. Thành vỡ, ngọc lụa, con gái trong thành được chia ngay cho binh sĩ. Dễ thông cảm hành động “sát phu, hiếp phụ” sau cuộc vây hãm tiêu hao xương máu. Nhưng quân “nhân nghĩa” như thế khác rợ Hồ ở điểm nào? Đọc Toàn Thư sẽ không tìm ra người phát lệnh hủy diệt. Tuy nhiên, nếu xem hai thư dụ thành Xương Giang trong “Quân trung từ mệnh tập”, chúng ta hiểu ngay nhân vật chỉ đạo trận chiến chính là Lê Lợi. Ngài tuyên bố nếu từ chối đầu hàng thì ngọc đá sẽ không phân biệt khi hạ thành. Chúa Lam Sơn thực hiện y như báo trước vì muốn các đồn lũy còn ngoan ngạnh phải khiếp đảm. Ngài và Thiết đột diễn vai chính vở kịch bi hùng này.
Cả ba cuộc hành quân nêu trên đều cho thấy Trần Nguyên Hãn không ở địa vị then chốt.
Vai trò tướng Hãn thể hiện rõ trong cuộc quyết đấu kết thúc chiến tranh. Ông được phân công chặn đường tiếp tế của đạo quân Liễu Thăng – Hoàng Phúc (Toàn Thư II, 296). Lần đầu tiên, Hãn chiến đấu độc lập, tách biệt với Thiết Đột đang hết sức vào trận Chi Lăng-Xương Giang. Đối tượng tranh chiến của Hãn là dân phu, quân vận hoặc lính áp tải.(178) Nó vừa sức với đạo binh có phần ô hợp dưới quyền ông.
Mùa thu năm 1426, vua lệnh Khu mật đại sứ Phạm văn Xảo cùng các tướng Lê Triện, Lê Khả… kinh lược vành đồi núi từ phía nam vòng qua phía tây đến phía bắc đồng bằng sông Hồng. Mục đích chính để ngáng đường tiến của quân Minh từ Vân Nam. Khu mật đại sứ thời Lê Lợi không thống lĩnh quân đội như thời mạt Trần. Như vậy, Xảo làm cán bộ tham mưu trong đoàn quân, có lẽ vì ông am hiểu địa hình và nhân tình các phủ phía bắc hơn đám tướng tá người trại.
Theo Toàn Thư, tháng 9 ta cùng năm, Xảo cùng Khả đánh bại Đô ty Vương An Lão ở cầu Xa Lộc (Vĩnh Phú nay). Tàn quân chạy vào thành Tam Giang. Tháng 10 ta năm 1427, Xảo và Khả đại phá đội quân đang rút chạy hỗn loạn của Mộc Thạnh ở cửa Lê Hoa. Cũng nên nhớ lại, từ mùa xuân năm 1427, Nguyễn Trãi nắm chức Lại bộ Thượng thư kiêm hành Khu mật viện sự. Trường hợp Khu mật đại sứ Xảo chưa nhận vị trí khác thì chức vụ hai người dường như chồng chéo. Nếu hiểu Khu mật đại sứ là đại diện Viện khu mật trong quân thì hiển nhiên Xảo công tác dưới quyền Trưởng quan Nguyễn Trãi và là văn quan cố vấn cho quân đội.
Bản Toàn Thư hiện còn cố ý mô tả hai tướng kinh lộ tham gia chiến trận ở vai trò chỉ huy quan trọng nhất. Sử phẩm Trung Hoa Minh Thực lục(179) hay ẩn khuất hơn như Lam Sơn Thực lục(180) không biết đến hai vị này. Vai trò phụ trong kháng chiến của Hãn-Xảo có vẻ gần sự thực hơn. Tạ Chí Đại Trường từng cho rằng sử quan ngầm đứng về phía họ Trần, tức tập đoàn đồng bằng; nhận định này hoàn toàn chuẩn xác.
Một người như cụ Tạ nói là Lê Quý Đôn (1726 – 1784). Họ Lê trí tuệ uyên bác, công cán hiệu quả nhưng nhân cách tầm thường.[56] Qua Đại Việt thông sử, ông nương theo Toàn Thư nhấn mạnh thêm vai trò lãnh đạo của Hãn-Xảo trong chiến trận, sau đó táo bạo đưa cả hai vào liệt truyện công thần.