Mỹ khả năng sẽ thiếu điện cho AI? Hạ tầng chậm phát triển & đầu tư rất đắt đỏ là một nhược điểm lớn của Mỹ

Họ nghiên cứu chán về Việt Nam rồi các cụ. Mời các cụ xem có gì sai góp ý cho họ.Thực ra còn một ngầm ý nữa hơi đau lòng là cả Mỹ & Trung đều đánh giá VN ko đủ năng lực khoa học công nghệ tài nguyên để trở thành một thế lực nguy hiểm "chiếm thế giới". Con người VN đánh nhau thì giỏi, quyết tâm "đến cùng" khi vệ quốc.
Nhưng ko có quyết tâm "đến cùng" tương tự trong khoa học và công nghiệp, khám phá. Dù sao vẫn là nền văn minh lúa nước.
Họ ko coi mình là đối thủ tiềm tàng về cạnh tranh kinh tế, khoa học. Nên mình có thể "thao quang dưỡng hối"![]()
Đó là những sự thật đau lòng mà chúng ta cần nhìn nhận thẳng thắn !Họ nghiên cứu chán về Việt Nam rồi các cụ. Mời các cụ xem có gì sai góp ý cho họ.
Mười đặc điểm của người Việt Nam (Viện nghiên cứu xã hội Mỹ đánh giá)
1. Cần cù lao động song dễ thoả mãn nên tâm lý hưởng thụ còn nặng.
2. Thông minh, sáng tạo, song chỉ có tính chất đối phó, thiếu tầm tư duy dài hạn, chủ động.
3. Khéo léo, song không duy trì đến cùng (ít quan tâm đến sự hoàn thiện cuối cùng của sản phẩm).
4. Vừa thực tế, vừa mơ mộng, song lại không có ý thức nâng lên thành lý luận.
5. Ham học hỏi, có khả năng tiếp thu nhanh, song ít khi học “đến đầu đến cuối” nên kiến thức không hệ thống, mất cơ bản. Ngoài ra, học tập không phải là mục tiêu tự thân của mỗi người Việt Nam (nhỏ học vì gia đình, lớn học lên vì sĩ diện, vì kiếm công ăn việc làm, ít vì chí khí, đam mê).
6. Xởi lởi, chiều khách, song không bền.
7. Tiết kiệm, song nhiều khi hoang phí vì những mục tiêu vô bổ (sĩ diện, khoe khoang, thích hơn đời).
8. Có tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái, song hầu như chỉ trong những hoàn cảnh, trường hợp khó khăn, bần hàn. Còn trong điều kiện sống tốt hơn, giàu có hơn thì tinh thần này rất ít xuất hiện.
9. Yêu hoà bình, nhẫn nhịn, song nhiều khi lại hiếu chiến, hiếu thắng vì những lý do tự ái, lặt vặt, đánh mất đại cục.
10. Thích tự lập, nhưng lại thiếu tính liên kết để tạo ra sức mạnh (cùng một việc, một người làm thì tốt, ba người làm thì kém, bảy người làm thì hỏng).
Cái cúi người khúm núm của ĐTB, cú vả vào người em phía Nam vừa mới thắng Mỹ giúp rửa nhục cho người Mỹ, cú quay lưng với người đồng chí Liên Xô, và có lẽ cả đống đô la lobby đã đánh lừa - mua chuộc được người Mỹ. Và rồi người Mỹ và người châu Âu, những nhà tư bản gộc, đã không thể cưỡng lại sức hút của đồng tiền rồi đổ xô đầu tư vào TQ. Rồi từ đó mới có TQ ngày hôm nay.Hôm nay đọc thấy một câu khá thú vị (tất nhiên cần đánh giá thêm): CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ LỚN NHẤT CỦA MỸ CHO TQ LÀ CÔNG NGHỆ CN TƯ BỔNĐúng là Tq bây giờ Tư bổn hơn cả Mỹ.
Máy chủ AI đặt ở Canada với Bắc Âu cơ cụ ạ. Để tiết kiệm tiền điện chạy quạt làm mátMỹ khả năng sẽ thiếu điện cho AI? Hạ tầng chậm phát triển & đầu tư rất đắt đỏ là một nhược điểm lớn của Mỹ
![]()
Vì họ đông dân và chưa đến ngưỡng thôi chứ có gì đâu hả cụ. Tỉ rưỡi dân gấp 18 lần đức, gấp 12 lần Nhật. Độc lập từ 1947 đến giờ GDP bình quân vẫn thua xứ tre, xuất khẩu ngang hàng với đất nước mới hội nhập toàn cầu được 30 năm thì rõ ràng phải có quá nhiều vấn đề. Nên có vài cụ cứ bẩu sau TQ thì Ấn thành công xưởng mới của thế giớ nghe không lọt đượcBác xem nhẹ Ấn Độ thế
Tăng trưởng GDP của Ấn Độ: Ấn Độ sẽ vượt qua Nhật Bản để trở thành nền kinh tế lớn thứ 4 thế giới vào năm 2025 và đang trên đà vượt qua Đức để trở thành nền kinh tế lớn thứ 3 vào năm 2028, theo dự báo mới nhất của IMF. Theo dự báo mới nhất của IMF, Ấn Độ sẽ vẫn là nền kinh tế lớn tăng trưởng nhanh nhất trong hai năm tới.
Nếu muốn mát thì đặt luôn Alaska xây đó mấy nhà máy điện nguyên tử luôn cần gì Greenland?Máy chủ AI đặt ở Canada với Bắc Âu cơ cụ ạ. Để tiết kiệm tiền điện chạy quạt làm mát
Trump muốn Greenland có khi cũng chỉ để đặt máy chủ server
Bác nói còn sai cả về lịch sử kinh tế cũng như kinh tế vĩ mô, nhầm lẫn cả tư tưởng kinh tế của các học giả. Keynes không hề đề xuất dân vay tiền tiêu vô tội vạ như nhiều người lầm tưởng, mà đó là tư tưởng của trường phái tân tự do (neoliberalism)Vì bao nhiêu năm nay Mỹ sống trên lý thuyết Keynes. Cả nhà nước cả dân cứ vay tiêu tẹt ga thôiko chỉ nhà nước, dân cũng sống bằng vay, quẹt thẻ credit. Lấy sau trả trước.
Bây giờ Mỹ phải thay đổi lý thuyết kinh tế, ko thể theo Keynes mãi được. Bây giờ phải theo Milton Friedman.
Nhưng em nhắc lại thâm hụt thương mại hàng hoá Mỹ 1200 tỷ, có dịch vụ đỡ một chút nên tổng thâm hụt hàng hoá dịch vụ Mỹ là 918 tỷ $ = 3% GDP ko phải quá lớn. Trong khi thâm hụt ngân sách 2024 là 1800 tỷ gấp đôi thâm hụt thương mại dịch vụ.
Xét về số thì thâm hụt ngân sách nặng nề hơn thâm hụt thương mại dịch vụ. Nhưng cái nguy hiểm của thương mại dịch vụ là bị nước ngoài túm gáy chuỗi cung ứng chiến lược. Vị thế độc quyền của Tq, mà đòn đất hiếm là ví dụ điển hình của quyền lực monopoly
Nói về chi tiêu (đầu tư) công để cứu qua suy thoái thì Tq "Keynesian" hơn Mỹ với vai trò điều tiết nhà nước.Bác nói còn sai cả về lịch sử kinh tế cũng như kinh tế vĩ mô, nhầm lẫn cả tư tưởng kinh tế của các học giả. Keynes không hề đề xuất dân vay tiền tiêu vô tội vạ như nhiều người lầm tưởng, mà đó là tư tưởng của trường phái tân tự do (neoliberalism)
Keynes đề xuất tư tưởng kinh tế:
- Khi nền kinh tế suy thoái, nhà nước phải can thiệp bằng cách chi tiêu công lớn (ví dụ xây dựng hạ tầng, đặt hàng doanh nghiệp...) để kích thích cầu, từ đó thúc đẩy sản xuất, giảm thất nghiệp.
- Dùng chính sách tài khóa lẫn tiền tệ để kiểm soát chu kỳ kinh tế: thâm hụt ngân sách lúc suy thoái được chấp nhận, thậm chí cần thiết.
Keynes không chủ trương dân vay nợ tiêu xài vô tội vạ. Người ta tưởng rằng Keynes ủng hộ "cứ tiêu xài tẹt ga", nhưng thật ra Keynes nhấn mạnh tiêu xài của nhà nước trong giai đoạn suy thoái để cứu nền kinh tế — khác với việc khuyến khích tư nhân vay mượn phung phí.
Vay nợ tiêu xài đại trà, tín dụng phát triển cực mạnh, tự do hóa tài chính, ít kiểm soát vay nợ tư nhân... là đặc trưng của chủ nghĩa tân tự do (neoliberalism) từ thập niên 1980.
Chủ nghĩa này được đại diện bởi các nhà lãnh đạo như Ronald Reagan, Margaret Thatcher, và chịu ảnh hưởng sâu sắc từ tư tưởng của các học giả: Milton Friedman (Trường phái Chicago), Friedrich Hayek (Trường phái Áo).
Những học giả này đề cao Tự do thị trường tuyệt đối, Giảm vai trò nhà nước, Tự do tín dụng, tự do vay nợ (ai vay, ai tiêu, ai phá sản... là "chuyện thị trường").
Từ đó đã dẫn đến việc dân Mỹ vay thẻ tín dụng bạt mạng từ cuối thế kỷ 20, đặc biệt sau năm 1980, là kết quả của chủ nghĩa tân tự do, không phải trực tiếp từ lý thuyết của Keynes.
Milton Friedman Nobel Kinh tế 1976, phản đối Keynes sâu sắc. Ông cho rằng thị trường tự điều chỉnh tốt hơn, vai trò của nhà nước trong kinh tế phải giảm tối đa. Nhà nước chỉ cần duy trì ổn định tiền tệ (Monetarism: Trường phái tiền tệ).
Ông không tin vào "hiệu quả chi tiêu công" của Keynes. Và từ đó ông chủ trương cắt giảm thuế, tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước, tự do hóa thương mại và dòng vốn, giảm tối đa vai trò can thiệp tài khóa (nhất là việc bơm tiền nhà nước chống suy thoái).
Friedman ủng hộ kiểm soát lạm phát chặt thông qua kiểm soát cung tiền, thay vì bơm chi tiêu công.
Mỹ từng vận hành nền kinh tế có ảnh hưởng Keynesian, nhất là giai đoạn 1945–1970, nhưng sau đó, nhất là từ thời Reagan, Mỹ dịch chuyển mạnh sang mô hình tân tự do kiểu Friedman, thể hiện ở việc Ít kiểm soát nợ tư nhân, tự do vay mượn, đầu cơ.
Hiện nay, thâm hụt thương mại và phụ thuộc chuỗi cung ứng nước ngoài (nhất là TQ) làm Mỹ nhận ra rủi ro "bị nắm gáy chiến lược", vì thế bây giờ Mỹ mới đang muốn tái cân đối tài chính, thúc đẩy sản xuất nội địa, cắt chi tiêu công vô tội vạ, hạn chế vay nợ tiêu dùng quá đà.
Thực tế, chính Friedman cũng không chủ trương "tiêu tẹt ga", cho nên cũng có một số người cho rằng đây là tinh thần Friedman đích thực. Luận điểm này còn tranh cãi, nhưng chắc chắn không có chuyện Keynes ủng hộ tư nhân, cá nhân vay tiền chi tiêu tẹt ga, đây là điển hình của trường phái tân tự do
Bổ sung thêm một chút, thâm hụt ngân sách to hơn về số tiền, nhưng thâm hụt thương mại nguy hiểm hơn về chiến lược quốc gia.
Hhe he còm xong e mới tra lại AI thì đúng thế, Keynes ủng hộ tăng vay tiêu dùng. Vì bàn chất lý thuyết Keynes là kích cầu (dù trong kích cầu Keynes thiên về chi tiêu nhà nước hơn tiêu dùng, nhưng bản chất nới lỏng tiền tệ sẽ kích cầu cả tiêu dùng).Bác nói còn sai cả về lịch sử kinh tế cũng như kinh tế vĩ mô, nhầm lẫn cả tư tưởng kinh tế của các học giả. Keynes không hề đề xuất dân vay tiền tiêu vô tội vạ như nhiều người lầm tưởng, mà đó là tư tưởng của trường phái tân tự do (neoliberalism)
Keynes đề xuất tư tưởng kinh tế:
- Khi nền kinh tế suy thoái, nhà nước phải can thiệp bằng cách chi tiêu công lớn (ví dụ xây dựng hạ tầng, đặt hàng doanh nghiệp...) để kích thích cầu, từ đó thúc đẩy sản xuất, giảm thất nghiệp.
- Dùng chính sách tài khóa lẫn tiền tệ để kiểm soát chu kỳ kinh tế: thâm hụt ngân sách lúc suy thoái được chấp nhận, thậm chí cần thiết.
Keynes không chủ trương dân vay nợ tiêu xài vô tội vạ. Người ta tưởng rằng Keynes ủng hộ "cứ tiêu xài tẹt ga", nhưng thật ra Keynes nhấn mạnh tiêu xài của nhà nước trong giai đoạn suy thoái để cứu nền kinh tế — khác với việc khuyến khích tư nhân vay mượn phung phí.
Vay nợ tiêu xài đại trà, tín dụng phát triển cực mạnh, tự do hóa tài chính, ít kiểm soát vay nợ tư nhân... là đặc trưng của chủ nghĩa tân tự do (neoliberalism) từ thập niên 1980.
Chủ nghĩa này được đại diện bởi các nhà lãnh đạo như Ronald Reagan, Margaret Thatcher, và chịu ảnh hưởng sâu sắc từ tư tưởng của các học giả: Milton Friedman (Trường phái Chicago), Friedrich Hayek (Trường phái Áo).
Những học giả này đề cao Tự do thị trường tuyệt đối, Giảm vai trò nhà nước, Tự do tín dụng, tự do vay nợ (ai vay, ai tiêu, ai phá sản... là "chuyện thị trường").
Từ đó đã dẫn đến việc dân Mỹ vay thẻ tín dụng bạt mạng từ cuối thế kỷ 20, đặc biệt sau năm 1980, là kết quả của chủ nghĩa tân tự do, không phải trực tiếp từ lý thuyết của Keynes.
Milton Friedman Nobel Kinh tế 1976, phản đối Keynes sâu sắc. Ông cho rằng thị trường tự điều chỉnh tốt hơn, vai trò của nhà nước trong kinh tế phải giảm tối đa. Nhà nước chỉ cần duy trì ổn định tiền tệ (Monetarism: Trường phái tiền tệ).
Ông không tin vào "hiệu quả chi tiêu công" của Keynes. Và từ đó ông chủ trương cắt giảm thuế, tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước, tự do hóa thương mại và dòng vốn, giảm tối đa vai trò can thiệp tài khóa (nhất là việc bơm tiền nhà nước chống suy thoái).
Friedman ủng hộ kiểm soát lạm phát chặt thông qua kiểm soát cung tiền, thay vì bơm chi tiêu công.
Mỹ từng vận hành nền kinh tế có ảnh hưởng Keynesian, nhất là giai đoạn 1945–1970, nhưng sau đó, nhất là từ thời Reagan, Mỹ dịch chuyển mạnh sang mô hình tân tự do kiểu Friedman, thể hiện ở việc Ít kiểm soát nợ tư nhân, tự do vay mượn, đầu cơ.
Hiện nay, thâm hụt thương mại và phụ thuộc chuỗi cung ứng nước ngoài (nhất là TQ) làm Mỹ nhận ra rủi ro "bị nắm gáy chiến lược", vì thế bây giờ Mỹ mới đang muốn tái cân đối tài chính, thúc đẩy sản xuất nội địa, cắt chi tiêu công vô tội vạ, hạn chế vay nợ tiêu dùng quá đà.
Thực tế, chính Friedman cũng không chủ trương "tiêu tẹt ga", cho nên cũng có một số người cho rằng đây là tinh thần Friedman đích thực. Luận điểm này còn tranh cãi, nhưng chắc chắn không có chuyện Keynes ủng hộ tư nhân, cá nhân vay tiền chi tiêu tẹt ga, đây là điển hình của trường phái tân tự do
Bổ sung thêm một chút, thâm hụt ngân sách to hơn về số tiền, nhưng thâm hụt thương mại nguy hiểm hơn về chiến lược quốc gia.
Nói về chi tiêu (đầu tư) công để cứu qua suy thoái thì Tq "Keynesian" hơn Mỹ với vai trò điều tiết nhà nước.
Nhưng ở đây là nói về nợ, cung tiền thì Keynesian ủng hộ tăng cung tiền để kéo cầu đầu tư tiêu dùng kéo cung lên.
Ngược với Milton Friedman là người chủ trương kiểm soát cung tiền.
Đó lại là chuyện khác, Keynes ủng hộ cung tiền, nhưng đó là thông qua nhà nước đặt hàng các doanh nghiệp qua các hợp đồng, chứ không phải ủng hộ i dân tự tiêu xài, cá nhân chi tiêu vay nợ tẹt ga như bài viết ban đầu của bạn nói, đó là chủ trương của trường phái tân tự do.Hhe he còm xong e mới tra lại AI thì đúng thế, Keynes ủng hộ tăng vay tiêu dùng. Vì bàn chất lý thuyết Keynes là kích cầu (dù trong kích cầu Keynes thiên về chi tiêu nhà nước hơn tiêu dùng, nhưng bản chất nới lỏng tiền tệ sẽ kích cầu cả tiêu dùng).
Yes, John Maynard Keynes supported policies that could include increased consumer lending as a way to stimulate demand, though his focus was broader. In his *General Theory of Employment, Interest, and Money* (1936), Keynes argued that insufficient aggregate demand causes economic slumps. To counter this, he advocated for government intervention to boost spending, primarily through fiscal policy (e.g., public investment) but also via monetary policy, which can involve lowering interest rates to encourage borrowing.
Consumer loans, by making credit more accessible, increase purchasing power, raising demand for goods and services. Keynes saw this as one tool among many to stimulate economies, particularly during recessions. For example, lower interest rates (a policy he endorsed) reduce borrowing costs, encouraging consumers to take loans for big purchases like homes or cars, thus boosting economic activity.
However, Keynes didn’t emphasize consumer loans as the primary mechanism—his main focus was government spending to directly increase demand. Historical data from the post-Depression era, like the New Deal, reflects Keynesian-inspired policies where public investment took precedence, though loose monetary policy also facilitated credit expansion. Milton Friedman, by contrast, was warier of such interventions, favoring market-driven credit allocation over government-stimulated lending.
Ko sai đâu e đang nói tác động thực tế của lý thuyết, chính sáchĐó lại là chuyện khác, Keynes ủng hộ cung tiền, nhưng đó là thông qua nhà nước đặt hàng các doanh nghiệp qua các hợp đồng, chứ không phải ủng hộ i dân tự tiêu xài, cá nhân chi tiêu vay nợ tẹt ga như bài viết ban đầu của bạn nói, đó là chủ trương của trường phái tân tự do.
Khi nhà nước theo đường lối của Keynes, kí hợp đồng với doanh nghiệp tư nhân để làm kinh tế, ví dụ xây dựng cầu, đường, cơ sở hạ tầng, nghiên cứu phát triển, etc. thì đó nghĩa là bơm tiền trực tiếp vào sản xuất, dẫn đến tạo việc làm, tăng thu nhập, từ đó dân có tiền tiêu dùng một cách tự nhiên, bền vững. Chứ ông hoàn toàn không khuyến khích dân vay nợ tiêu xài bạt mạng. Nói cách khác, Keynes thấy tiêu dùng hộ gia đình tăng là hệ quả của việc tăng việc làm và đầu tư công, không phải do khuyến khích dân vay thẻ tín dụng tiêu xài, như trường phái tân tự do sau này của Mỹ, mà nó vẫn đang phổ biến hiện nay ở nước Mỹ.
Kể từ khi có trường phái tân tự do này, vào khoảng thập nhiên 80s, dưới ảnh hưởng của trường phái Chicago (Milton Friedman, Gary Becker...) và chính trị gia kiểu Reagan, Thatcher. Từ đó mới dẫn đến tự do hóa tài chính (dễ vay mượn hơn), bãi bỏ nhiều rào cản tín dụng, khuyến khích tiêu dùng tự do, không (hoặc gần như không) giới hạn vay cá nhân, nhà nước rút lui khỏi việc điều tiết kinh tế, để thị trường tự cân bằng.
Từ đó mới dẫn đến kết quả: Dân Mỹ dễ dàng vay nợ (mortgages, credit cards, personal loans...) để tiêu xài. Nợ tiêu dùng Mỹ bùng nổ. Bong bóng tài sản (nhà đất, chứng khoán) phình to, gây ra nhiều khủng hoảng (ví dụ: 2008).
Tuy thế trong trường phái tân tự do, Milton Friedman dù ủng hộ thị trường tự do, nên tự do vay mượn tín dụng, nhưng ông vẫn muốn kiểm soát cung tiền. Đây là một nghịch lý rất thú vị của Milton Friedman trong trường phái tân tự do. Dù ủng hộ mọi tư tưởng tự do ở trên, nhưng ông cứng rắn với chính sách tiền tệ. Không cho phép ngân hàng trung ương "bơm" hay "hút" cung tiền tùy hứng. Chỉ cho phép cung tiền tăng với một tỷ lệ ổn định, nhỏ và đều đặn (ví dụ 3–5% mỗi năm), không phụ thuộc vào diễn biến kinh tế hàng ngày. Nghĩa là về hoạt động kinh tế thị trường thì ông tự do tuyệt đối, nhưng về tiền tệ thì ông rất kỷ luật. Lý do vì ông cho rằng bất kỳ dao động thất thường nào về cung tiền (tăng bất ngờ hay giảm bất ngờ) đều là nguyên nhân chính gây ra suy thoái và lạm phát (bác có thể xem cuốn "A Monetary History of the United States, 1867–1960"). Ông cho rằng nếu chính phủ bơm tiền theo "cảm tính" để giải cứu kinh tế, nó sẽ tạo bong bóng, lạm phát, khủng hoảng. Nếu cung tiền tăng ổn định theo một quy luật đơn giản, thị trường sẽ tự điều chỉnh hợp lý hơn.
Tuy thế, nhưng hiện nay những kỷ luật tiền tệ mà Milton Friedman muốn ít được thực hiện trong thực tế, khi mà trường phái tân tự do đã phát triển bừa bãi phổ cập, ra đến toàn cầu, trở thành toàn cầu hoá rồi
Cụ thể la tường phái tân tự do khi triển khai trên thực tế (nhất là thời Reagan, Thatcher) đã tự do hóa tài chính như đúng học thuyết Friedman. Nhưng họ không thực hiện chặt chẽ "kiểm soát cung tiền" như Friedman muốn. Các ngân hàng trung ương vẫn bơm tiền thất thường khi khủng hoảng xảy ra (ví dụ: Fed thời Greenspan, Bernanke...). Các ngân hàng trung ương với tư tưởng tân tự do nới lỏng tiền tệ cực kỳ mạnh khi khủng hoảng, Fed, ECB in tiền quy mô lớn (QE - Quantitative Easing). Tự do hóa dẫn đến đầu cơ tài sản, khủng hoảng tài chính lặp lại (1997, 2008...), khủng hoảg tiêu dùng, khủng hoảng nợ xấu, bong bóng nhà đất, chứng khoán. Đây là những điều mà Friedman sẽ không đồng tình.
Nói cách khác, họ mượn danh Friedman để tự do hóa tín dụng, nhưng không tuân thủ hoàn toàn triết lý tiền tệ nghiêm ngặt của ông.
Đấy là còn chưa nói đến việc, trường phái tân tự do này còn tự do hóa thương mại để tối ưu hóa sản xuất, di chuyển sản xuất sang nước có chi phí thấp, làm mất cân đối chuỗi cung ứng, từ đó dẫn đến Mỹ phụ thuộc Trung Quốc, etc. cả trong không ít mặt hàng chiến lược.
Lý do là vì khi kinh tế gặp khủng hoảng, các chính phủ không đủ can đảm chịu suy thoái tự nhiên, phải in tiền cứu thị trường, dù biết sẽ gây bất ổn lâu dài. Người dân và doanh nghiệp đều quen với "món quà" tiền rẻ, lãi suất thấp, nên không chấp nhận suy thoái kéo dài.
Ngoài ra, các tập đoàn tài chính toàn cầu có tầm ảnh hưởng quá lớn, đòi hỏi chính phủ phải bảo vệ dòng tiền, thị trường tài sản (bất động sản, chứng khoán). Kết quả là mục tiêu "kiểm soát cung tiền ổn định" của Friedman bị bỏ rơi, còn "tự do tín dụng tiêu dùng đầu cơ" thì bùng nổ.
Như vậy lời bác nói cần phải đi theo Friedman có lý nhất định, nhưng những điều bác nói về Keynes thì sai. Đặc biệt về khoản chi tiêu vay nợ vô độ của dân Mỹ, hoàn toàn không dính gì đến Keynes cả, mà là của các đồng nghiệp của Friedman trong trường phái tân tự do