[Funland] Hồi ký (Phóng tác) về đường ống xăng dầu Trường Sơn.

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,364
Động cơ
416,007 Mã lực
Đến lượt Ngọc ngơ ngác. Chợt nhớ đến mấy chuyện tiếu lâm dân gian, hiểu ra ‘mắm tôm “ nghĩa là gì, mặt và tai Ngọc đỏ nhừ. Anh quay lại bàn ăn, trách:
- Anh đùa gì mà ác thế.
Huy tủm tỉm cười chống chế:
- Lúc nãy trong bếp, mình thấy có hũ mắm tôm thật mà.
Biết mọi người đùa vui, Ngọc thấy mình cũng nên góp vào:
- Thế để tôi sang xin lại, nói rằng anh có thấy hũ mắm tôm, và xin chỉ để mình anh ăn thôi nhé.
Huy cười xòa:
- Thôi tha cho nhau đi, đói quá rồi.
Bữa cơm thật ngon miệng. Sau một ngày mệt và căng thẳng, đến đây được các cô Thanh niên xung phong chăm sóc, ai cũng thấy như trút được mọi nỗi nhọc nhằn.
Ngay từ khi mới đến, Danh đã nhận ra cô gái đồng hương cùng xã tên Sen. Cô gái có dáng người thon thả, má lúm đồng tiền, nhanh nhẹn hoạt bát, hai cái đuôi sam tinh nghịch cứ lắc lư theo mỗi bước cô đi. Khuôn mặt xinh thế, nhưng nước da thì xanh tái, dấu vết của những trận sốt rét rừng. Ở Trường Sơn, mấy ai thoát được căn bệnh quái ác này. Rất mừng khi gặp đồng hương. cô tíu tít hỏi chuyện quê nhà, rồi cô kể vể cuộc sống của chị em trong đơn vị, về sự ác liệt trên tuyến giao thông mà họ đảm nhiệm. Đơn vị Thanh niên xung phong của họ cứ vợi người lại được bổ sung. Đang nói chuyện vui, thì như theo một phản xạ, Sen dừng lại. Từ phía ngoài đường vọng lại ba tiếng súng, rồi kẻng đơn vị râm ran thúc dục. Sen nói: “lại tắc đường rồi, bọn em phải ra tuyến đây”. Nói rồi, cô khoác vội khẩu súng, nhao ra khỏi hầm vác xẻng chạy theo chị em. Nhìn theo bóng cô gái khuất trong màn đêm, Danh chậc lưỡi:
- Khi mình ở nhà thì cô bé này còn nhỏ. Hết đại học năm thứ ba về quê thì thấy cô lớn phổng lên, xinh xắn lắm. Nước da trắng hồng, mái tóc óng ả. Thằng em mình bảo cô ấy làm mấy cậu trai làng chết mê chết mệt. Rồi bọn trai làng cũng lần lượt vào lính cả. Năm ngoái về làng, có ý đi tìm thì nghe nói cô đã tình nguyện vào Thanh niên xung phong. Mới sau hơn một năm mà những cơn sốt rét rừng, gian khổ ác liệt đã làm phai tàn nhan sắc nhanh chóng vậy đấy.
Quá nửa đêm, những người ngủ dưới hầm choàng tỉnh dậy bởi tiếng chân rầm rập chạy trên mắt đất. Những người từ mặt đường đã trở về với ba chiếc cáng. Tiếng cô chỉ huy:
- Khẩn trương xếp tư trang để đưa mấy đứa vào Đội phẫu thuật. Cái Sen bị nặng quá rồi, phải đưa đi ngay.
Danh và Ngọc chạy lại. Dưới ánh đền pin, họ nhận ra cô gái nằm thiêm thiếp. Máu thấm đãm cái võng cô nằm. Cả lớp băng quấn quanh bụng cũng chẳng còn chỗ nào màu trắng. Sen nặng nhọc mở mắt ra, nắm lấy tay Danh thều thào: “Khi nào về làng, anh Anh nói giúp em, em nhớ và yêu bố mẹ lắm”. Rôi cô lại nhắm mắt, và đôi mắt ấy không bao giờ mở ra nữa. Cô chỉ huy mếu máo:
- Sen ơi, sao em đi vội thế. Em bảo sẽ đưa chị về thăm nhà kia mà. Trời ơi, em xinh đẹp thế sao lại bỏ chị em mà đi hả em!
Các cô gái khác cũng òa khóc. Những giọt nước mắt thiếu nữ khóc thương một đồng đội, một trinh nữ ra đi khiến cả tổ khảo sát cũng không ai cầm được nước mắt.
Mộ của Sen đặt trên sườn núi. Thêm một ngôi mộ vào nghĩa trang của trọng điểm này. Cả tổ khảo sát cùng các cô gái tiễn đưa Sen. Những nhành hoa trắng đắp đầy lên ngôi mộ. Họ bắn lên trời ba loạt đạn tiễn đưa đồng đội của mình.
Danh thấy có cái gì như chẹn ngang trong cổ họng. Anh không thể ngờ lại phải chứng kiến một cô gái làng ngã xuống ở nơi xa xôi này. Anh nhìn lên trời. Trời sao xanh thế. Những ngọn núi cũng bỗng cao và xanh ngắt lạ thường. Em nằm lại đây, giữa đại ngàn Trường Sơn. Nếu mai đây, được trở về nhà, anh sẽ nói lại những lời em trăng trối cho cha mẹ. Sẽ kể về cuộc sống và chiến đấu của em và các bạn ở đây. Nhưng cuộc chiến tranh còn dài lắm. Mai kia, tuyến đường ống của bọn anh sẽ qua đây. Rồi sẽ còn bao đồng đội của chúng mình ngã xuống trên tuyến lửa Trường Sơn ác liệt này.

Tuyến X42 mới vận hành được hơn nửa tháng mà Quang đã học được rất nhiều điều từ Linh. Vốn là dân xứ Nghệ cần cù học tập, ngay từ hồi ở Liên Xô, Linh đã là một sinh viên giỏi. Từ ngày triển khai thi công, Linh có mặt ở mọi nơi khó khăn nhất của công trường. Linh ít nói, nhưng đã nói thì rất rõ ràng, chắc chắn. Đặc biệt, trong kỹ thuật, anh rất nghiêm khắc với lối làm dối, làm ẩu. Linh rất cảm tình với cậu kỹ sư trẻ, đẹp trai, ham học hỏi. Đặc biệt, anh quý Quang vì cậu ta không hề nề hà một khó khăn nào. Có lần Linh tâm sự: “Tớ thấy nhiều ông to tìm cách chạy cho con ở hậu phương. Ông cụ cũng là cán bộ cao cấp mà dám ném đứa con trai độc nhất vào tuyến lửa, tớ phục lắm. Lại được cậu chẳng nề hà, quan cách gì, làm việc lẫn trong lính, chẳng ai biết cậu là ai. Với tớ, cậu là của quý, tớ tự thấy phải có trách nhiệm giữ gìn và bồi dưỡng”. Linh sẵn sàng giảng giải cho Quang những vấn đề kỹ thuật phức tạp, và dạy Quang thêm tiếng Nga. Anh em đi đâu cũng có nhau. Trừ khi đến những chỗ nguy hiểm, Linh dứt khoát bắt Quang ở nhà.
 

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,364
Động cơ
416,007 Mã lực
Một tuần nay, ngã ba Đồng Lộc bị đánh chặn quyết liệt quá nên các xe lấy xăng từ N2 hầu như không thể vượt qua trọng điểm này. Thêm nữa, xe ra vào nhiều đang có nguy cơ lộ kho N2. Cơn khát xăng của 559 và các đơn vị phía trước lại trở nên cồn cào. Theo lệnh trên, công trường đã thi công thêm năm cây số tuyến ống ra bờ sông Ngàn Sâu để cấp cho các xà lan theo đường thủy chở xăng vào cho 559. Tuyến được gọi là TF5. Tuyến TF5 thi công sắp xong thì một chiếc xe chở ống vào tuyến bị máy bay địch phát hiện ở xóm Bông Lai. Một trận oanh tạc dữ dội đã chụp lên tuyến. Ba người hy sinh, một số bị thương. Chiếc xe chở ống bị đánh cháy. Những chiếc ống đã rải lên tuyến bị hất tung lên trời, bị vùi lấp giữa những hố bom. Mãi đến sáng, mới giải quyết xong hậu quả và lắp thông tuyến ống.
Tiểu đoàn trưởng gọi Linh và Thục lên chỉ huy Sở:
- Theo lệnh trên, tối mai xà lan sẽ cập bến nhận xăng đưa vào cho 559. Tuyến đã lắp xong, ngay chiều nay phải bơm xăng vào F5.
Reng...reng. Chuông điện thoại cắt ngang lời tiểu đoàn trưởng. Linh và Thục đứng dậy toan ra ngoài cho Thủ trưởng làm việc, nhưng tiểu đoàn trưởng ra hiệu hai người ngồi xuống chờ ông. Nhìn nét mặt căng thẳng và nghe những câu trả lời ngắn gọn của tiểu đoàn trưởng: “Vâng, chúng tôi sẽ cố gắng,chúng tôi sẽ khắc phục...” cả hai đều hiểu rằng đầu dây bên kia là cấp trên và có vấn đề gì đó rất hệ trọng.. Đặt tổ hợp xuống, im lặng vài giây mà nét căng thẳng vẫn còn lẫn trong giọng nói của tiểu đoàn trưởng:
- Cụ Thiện đích thân gọi đến. Chủ nhiệm Tổng cục mà gọi cho tiểu đoàn trưởng thì không phải là chuyện thường đâu. Cụ nói như đinh đóng cột: Tối mai xà lan vào F5 mà không có xăng là tôi cách chức cậu. Cụ còn nói: không được để xăng lẫn nước. Xương máu của bội đội vận tải đổ ra không phải để mà chở nước lã qua trọng điểm. Trước tình hình này, tôi định không thử rửa nữa, mà bơm xăng luôn đến F5. Các cậu thấy thế nào?
- Tuyến chỉ măm cây số, xe bơm hoàn toàn có thể bơm xăng từ N2 ra F5. Vấn đề chỉ còn là chất lượng tuyến- Linh báo cáo và nhường lời cho Thục. Thục nói:
- Hôm thử rửa trên chiều dài bốn mươi hai cây số mà chỉ nghẽn vài chỗ do đất cát chui vào ống. Đoạn này chỉ năm cây số, hy vọng không có vấn đề gì lớn. Riêng đoạn qua xóm Bông Lai đêm qua bị đánh, có thể có đất cát ở trong ống. Tôi sẽ đặc biệt lưu ý đoạn này. Tôi cũng đã cho lắp một van hai chiều trước nơi bị đánh đề phòng có sự cố thì chặn lại để khắc phục.
- Thế là tốt rồi. Cứ như vậy nhé. Chiều nay tôi ở sở chỉ huy, Linh ở kho, còn Thục canh chừng chỗ xóm Bông lai.

Quang đang loay hoay dịch một đoạn tiếng Nga trong cuốn Đường ống giã chiến, thì Linh vỗ vai làm anh giật bắn mình:
- Chiều nay bơm xăng ra F5, không thử rửa. Đi theo tớ ra kho. Đi ngay!
- Sao đột xuất thế?- Quang gấp cuốn sách lại, mặc vội quần áo, chạy theo Linh.
- Cụ Thiện trực tiếp điện cho tiểu đoàn trưởng. Việc này thuộc dạng cháy nhà chết người đấy.
Ba giờ chiều, toàn đội hình vận hành đã dàn lên tuyến. Linh và Quang cẩn thân. Kiểm tra lại sơ đồ lắp ráp trong kho, đồng hồ áp suất và các mối nối ống. Linh nói:
- Đúng ra thì cửa ra của xe bơm không được lắp ống mềm. Nhưng bây giờ rất gấp, không thể điều đủ phụ kiện về nên phải lắp tạm bằng ống mềm cho nhanh. Tuyến TF5 chỉ năm cây số, địa hình lại thoải xuống, chắc bơm chỉ dăm cân là đến đích. Áp suất ấy ống mềm hoàn toàn chịu được. Tuy vậy, phải rất thận trọng theo dõi áp suất lúc bơm. Bây giờ tớ chỉ huy ở trạm bơm, cậu lên Sở chỉ huy với tiểu đoàn trưởng.
- Anh cho em ở đây với anh để học tập được không ạ.
- Không được. Bên cạnh tiểu đoàn trưởng phải có kỹ sư để đề xuất ý kiến xử lý về kỹ thuật trên tuyến.
Linh nói dứt khoát và có phần nghiêm khắc khiến Quang không giám nói gì thêm. Anh lẳng lặng vào lán chỉ huy. Quang kiểm tra lại người trực ở hai đầu kho, các cửa van và đội cơ động của Thục đặt tại xóm Bông Lai. Khi tất cả đã sẵn sàng, Tiểu đoàn trưởng phát lệnh vận hành.
Chiếc xe bơm nổ máy, tăng dần ga, rồi rung đều. Tiểu đoàn trưởng áp tai vào tổ hợp điện thoại nghe báo cáo xăng lần lượt đi qua các điểm chốt trên tuyến. Theo tính toán thì khoảng bốn mươi phút, xăng sẽ đến xóm Bông Lai. Chiếc đồng hồ đặt tại chỉ huy sở nhích dần đến bốn mươi phút. Có cái gì đó không ổn khiến ông cảm thấy nóng ruột. Đúng lúc đó, có tiếng Linh hét lên: “Áp suất tăng đột ngột, tắt máy ngay!”.
Tiếng Linh chưa dứt thì một khối lửa bùng lên, trùm kín chiếc xe bơm. Năm khối lửa nhỏ hơn từ trong vùng lửa ấy lao ra, lăn tròn trên mặt đất. Đó là những cán bộ kỹ thuật và thợ vận hành trong trạm bơm. Tiểu đoàn trưởng hét đóng van lại. Chiếc xe bơm rừng rực cháy, lửa cũng đang rần rật cắn vào da thịt của những người trong tốp kỹ thuật. Người ta lấy chăn chiên thấm nước trùm lên họ. Lửa tắt, nhưng hình hài của họ giờ là những khối đen với các mảng da bị trợt ra, để lộ những vùng thịt đỏ hỏn.
 

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,364
Động cơ
416,007 Mã lực
Quang lao tới chỗ Linh. Linh đã được đặt lên cáng để đưa vào quân y viện. Đôi mắt anh vẫn mở và chớp một cách nặng nhọc. Tiểu đoàn trưởng lấy khăn mặt đậy lên mắt Linh cho anh khỏi chói nắng. Linh thều thào:
- Xin thủ trưởng đừng che. Tôi không thể qua khỏi được đâu. Hãy để tôi nhìn thấy quê hương đất nước lần cuối. Quang đấy à. Em nhớ lấy điều này: Từ nay đừng bao giờ lắp ống mềm ở cửa ra của xe bơm, không sao lường hết được sự cố đâu.
Quang nghẹn ngào:
- Vâng. Em nhớ rồi. Anh yên tâm điều trị cho khỏi.
Những chiếc cáng đi xa dần. Lúc này tiểu đoàn trưởng mới có thể nhìn toàn cảnh trạm bơm: Chiếc xe bơm đã bị thiêu trụi. Hầm để xe cũng bị cháy chỉ còn trơ lại những vì kèo gỗ , những cột cháy đen đổ ngổn ngang. Quang báo cáo: Thục đã xác định được chỗ tắc ống và đã xử lý xong. Nguyên nhân là trận bom đêm qua đã lùa nhiều đất đá và cả que gỗ vào ống, trời tối anh em không phát hiện được. Khi bơm, mọi thứ đất đá, rác rưởi dồn lại làm tắc ống.
- Xe bơm cháy rồi, giờ làm sao đây?
- Báo cáo thủ trưởng, bây giờ không kịp điều máy bơm và phụ kiện đến. Tôi đề nghị ta bơm xăng từ kho N1 vào F5. Như vậy, thay vì chỉ bơm 5 cây số, nay ta phải bơm trên bốn mươi cây số. Nhưng hơn nửa tháng qua, tuyến đã ổn định nên có thể làm được – Trưởng ban kỹ thuật Lê Khôi đề xuất.
- Vậy thì triển khai ngay đi. Ông nhấc máy yêu cầu Thục kiểm tra kỹ đoạn tuyến còn lại đến TF5, nhất là ống trong khu vưc xóm Bông Lai. Sau đó ông lệnh cho toàn tuyến chuẩn bị vận hành.

Khi Chính trị viên tiểu đoàn Trần Đình vào đội điều trị thăm những người bị bỏng thì hai trong số họ đã hy sinh. Ông quay sang trợ lý chính sách yêu cầu mua ngay áo quan cho tử sỹ, rồi đến thăm những người còn lại. Họ đều đã yếu lắm, nằm thiêm thiếp. Bác sỹ ra hiệu cho ông để họ yên tĩnh, vì vết thương rất nặng. Gần nửa đêm, người ta chở vào năm chiếc áo quan. Trần Đình sững người hỏi trợ lý chính sách sao lại có chuyện này. Trợ lý chính sách phân bua:
- Tôi báo cho tổ mộc là trong số 5 người bị bỏng, hai người đã hy sinh, chuyển ngay áo quan vào đội điều trị. Không hiểu sao họ lại chuyển vào năm chiếc.
Trần Đình lặng đi hồi lâu, rồi buồn bã:
- Công tác chính sách là việc rất nhạy cảm. Cậu phải rút kinh nghiệm rất nghiêm khắc về việc này. Không hiểu có phải là điềm báo chẳng lành không đây. Cầu mong rồi sẽ yên ổn. Họ là gần một nửa cán bộ kỹ thuật của tiểu đoàn đấy.
Linh cảm của Chính trị viên đã không sai. Gần sáng, ba người còn lại đã tắt thở. Lễ truy điệu ba người hy sinh ở xóm Bông Lai và năm cán bộ, nhân viên kỹ thuật được tổ chức cùng một lần. Họ đã an nghỉ ở nghĩa trang. Trong lễ truy điệu, tám chiếc ba lô tư trang của họ được phủ quốc kỳ xếp thành hàng trước hàng quân. Bên cạnh ba lô là chiếc mũ cứng quân hiệu còn tươi mới. Có chiếc thủng lỗ chỗ vết bom bi.
Quê Linh cách nơi xẩy ra sự cố hơn hai mươi cây số. Chính trị viên cử người đạp xe về quê đón chị lên. Khi chị đến thì trời đã tảng sáng. Chị đã không kịp nghe những lời trăng trối cuối cùng của anh. Người vợ đã ngất đi khi nhìn thấy hình hài đen cháy của chồng. Giờ đây, thiếu phụ không còn đứng vững. Hai cô gái dìu chị ngồi trên chiếc ghế kê ở phía đầu hàng quân.
Trần Đình mắt trũng sâu vì mấy đêm liền thức trắng chỉ huy việc giải quyết thương binh tử sỹ và động viên tinh thần bộ đội. Ông chậm rãi đọc lời truy điệu:
Thưa các đồng chí. Thưa chị Xuyên, vợ liệt sỹ Hoàng Linh. Hôm nay đơn vị chúng ta tập hợp tại đây làm lễ tiễn đưa tám đồng chí, đồng đội của chúng ta- Giọng Đình trầm trầm điểm tên , ngày sinh , quê quán của từng liệt sỹ. Có lúc tiếng ông chìm trong tiếng rít của máy bay- Họ là những người đầu tiên ngã xuống trên tuyến đường ống của chúng ta. Mỗi người trong họ là một tấm gương về lòng dũng cảm, sự hy sinh tận tụy vì nhiệm vụ. Tuyến đường ống của chúng ta còn dài. Mỗi chúng ta xin thề trước vong linh đồng đội và trước bản thân mình, sẽ không bao giờ chùn bước trước gian khổ, hy sinh. Máu của chúng ta có thể đổ, nhưng dòng xăng ra mặt trận sẽ không bao giờ ngừng chảy.
Phút mặc niệm yên lặng, Quang cảm thấy có cái gì đó thật hào hùng trong dáng đứng của mỗi người lính.
Buổi chiều, Trần Đình và Quang dìu Xuyên ra thăm mộ Linh trước khi đưa chị trở về nhà. Nhìn chị gào khóc, cào lên mộ như muốn moi từng tảng đất lên để đưa Linh trở về, Quang định nói một điều gì đó an ủi chị, nhưng Đình ra hiệu hãy để chị khóc cho vợi phần nào nỗi đau. Là người từng trải qua cuộc kháng chiến chống Pháp, đã nhiều lần đem di vật đồng đội về cho gia đình, ông hiểu ra rằng chiến tranh đã tạo nên hai mặt của bức tranh khi người lính ngã xuống. Ở mặt trận, những người lính coi cái chết nhẹ như lông hồng. Sau khi người lính ngã xuống, có thể là lá cờ chiến thắng với những vết đạn lỗ chỗ phần phật bay trên cứ điểm quân thù, có thể là những lời thề quyết trả thù cho anh, cũng có thể là một cuộc rút lui thêm nhiều người ngã xuống. Nhưng bất luận thế nào, những chàng trai trẻ ngã xuống giữa trận tiền vẫn là sự ra đi kiêu hùng. Hàng ngàn, hàng vạn cái chết của họ là một phần viết nên lịch sử của cuộc chiến tranh. Còn ở hậu phương, sau cái chết ấy là tiếng gào khóc của người vợ mất chồng, con mất cha. Là nỗi đau tận cùng của người cha, người mẹ mất con. Là bắt đầu một cuộc vật lộn với đời vì gia đình mất đi một trụ cột, hay một nhánh tương lai của gia đình, giòng họ bị cắt đứt. Cái giá ấy không trừ một cuộc chiến tranh nào, nhưng mỗi dân tộc, để tự bảo vệ mình, không còn sự lựa chọn nào khác.
Quang xót xa chứng kiến nỗi đau của vợ Linh. Anh cảm thấy lòng thắt lại khi nhìn những nhang hương đang tàn dần trong nắng quái chiều hôm. Giá như không có trận oanh tạc đêm qua lùa đất đá vào ống. Không thể trách những người thợ lắp ráp: Trời thì tối, họ kiệt sức vì cứu thương binh, chuyển tử sỹ ra ngoài vùng đánh phá, vì bằng mọi giá phải lắp thông tuyến ống trước khi trời sáng. Giá như ở đây có đủ phụ kiện để lắp ống thép ở cửa ra của xe bơm. Không thể trách Linh được. Anh đã rất thận trọng, nhưng sự cố tắc ông đến nhanh quá, khớp nối ống mềm đã không chịu nổi áp suất tăng đột ngột. Người kỹ sư đầu tiên hy sinh là cái giá để những kỹ sư đường ống hiểu ra rằng: Trong điều kiện tuyến ống bị bom Mỹ ngăn chặn quyết liệt thì không cho phép bỏ đi bất kỳ một giả thiết nào trong kịch bản vận hành.
Quang nghẹn ngào: “Anh Linh ơi, anh hãy yên nghỉ. Em sẽ nhớ lời anh. Chúng em sẽ vừa làm, vừa học. Giá học phí có thể phải trả bằng máu, nhưng em sẽ cố gắng. Em sẽ cố gắng”.
 

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,364
Động cơ
416,007 Mã lực
Chương III​
TUYẾN HƯỚNG TÂY

Khi Ngọc cùng tổ khảo sát đến hang QH thì những bể chứa xăng lớn trong hang đã hàn gần xong. Trời đã cuối thu. Cuộc ném bom hạn chế của Hoa Kỳ đã được bảy tháng. Các trọng điểm vùng khu bốn bị đánh phá rất nặng nề. Hàng hóa hậu phương chuyển vào phía trong vô cùng khó khăn. Những người lính thiếu đủ thứ.. Không có thuốc hút, các chàng nghiện chỉ còn trông vào mấy vị khách đi công tác tạt qua QH. Thói quen của người hút thuốc lào là sau cái rít dài cuối cùng, anh ta thổi một cái cho xái bay đi. Mấy chàng nghiện dán mắt vào cái xái thuốc bị bắn vào góc hang. Và khi người khách đi rồi, họ nhặt cái xái, vê vào điếu, rồi xúm lại chia nhau mỗi người một hơi cho đã cơn nghiện. Cái đài Ô ri ông tông là phương tiện duy nhất để anh em có thể biết được thông tin bên ngoài. Tin thắng trận ngày nào cũng đưa rất giòn giã, vậy mà sao tình hình mỗi ngày một khó khăn. Một lần có một ông cán bộ trên Tổng cục đi công tác, nghỉ lại hang QH, Ngọc đã đem băn khoăn đó ra hỏi ông. Ông suy nghĩ một lát rồi nói: “Ta với Mỹ như hai người đang thi lặn. Ai cũng sắp kiệt sức, bây giờ là lúc thi gan. Anh nào cũng chỉ chờ đối thủ ngoi lên trước, là mình cũng ngoi lên theo luôn. Ta nghèo, bị đánh phá nặng nề, vật chất ngày càng thiếu thốn, nhưng toàn dân trên dưới đồng lòng. Mỹ rất giàu có, nhưng tiền của đổ mãi vào Việt Nam mà không thấy hiệu quả, danh sách lính Mỹ chết trận ở Việt Nam thì ngày một dài ra, do đó cuộc chiến tranh bị nhân dân Mỹ phản đối ngày càng quyết liệt. Bây giờ ai kiên trì thì người ấy thắng.”

Ông cán bộ ấy nói đúng thật. Ngày 31 tháng 10, Tổng thống Johnson tuyên bố với nhân dân Mỹ: "Chấm dứt mọi cuộc ném bom bằng không quân, hải quân và bắn phá bằng pháo binh chống miền Bắc Việt Nam bắt đầu từ ngày 1/11/1968", bất chấp sự phản đối của Tổng thống chính quyền Sài Gòn Nguyễn Văn Thiệu. Ngày mồng 1 tháng 11, giữa mùa mưa Quảng Bình mà trời xanh ngắt lạ thường. Không còn tiếng gầm rít của máy bay. Mọi người lao ra khỏi hang, chạy ra các bãi trống. Họ nhìn lên vòm trời rực nắng, họ nhảy múa, hát hò. Họ reo lên: hết bom đạn rồi, từ nay không phải ở trong hang nữa. Ngày hòa bình đầu tiên, mọi người bỗng cảm thấy cuộc sống nhẹ bẫng. Bất kỳ lúc nào ta cũng có thể đi ra đường quốc lộ, tắm mát dưới dòng sông. Buổi tối, trai gái có thể đứng bên cầu mà tâm sự. Chỉ những người đã trải qua những ngày luôn phải nghe ngóng, lo âu vì bom có thể chụp xuống bất kỳ lúc nào, chỉ những người ngày ngày chứng kiến những trận bom khốc liệt, nhà cháy, người chết, mới thấm hiểu hết sự ngọt ngào của hai tiếng Hòa bình.

Ngay chiều ngày hòa bình đầu tiên ấy, Ngọc và Danh được lệnh lên Binh trạm 112 gặp thiếu tá Lê Trọng nhận nhiệm vụ mới. Ngọc tham gia thi công X42, nhưng chưa lần nào được gặp Lê Trọng. Tuy vậy, anh đã được nghe khá nhiều chuyện anh em kể về ông. Qua những câu chuyện ấy, Ngọc hình dung ra một người chỉ huy tuy đã gần năm mươi, nhưng rất nhanh nhẹn, hoạt bát, thương lính, và đặc biệt ông rất lắng nghe các kỹ sư, khuyến khích sáng kiến.

Trạm tiếp khách của Binh trạm 112 là vài cái lán lợp lá cọ, bên cạnh mỗi lán có hai hầm chữ A. Lán được che phên ba phía, bên trong là cái sạp nứa chạy dài có thể ngủ tới hơn mười người. Gió mưa đã làm cho những tấm phên thưng xập xệ, mục nát, Khi mưa lớn, nước hắt vào lán, khi gió to, đêm ngủ nghe gió rít qua tai. Anh em thường nói đùa với nhau đây là nhà khách Chuồng Bò. Chê vậy thôi, nhưng còn tốt chán vạn lần so với mắc tăng võng ngủ giữa rừng. Ngày đầu tiên hòa bình, khách ra vào tấp nập, già có, trẻ có, mặt mũi ai cũng tươi cười vui vẻ. Lệnh hẹn hai giờ chiều, Ngọc và Danh có mặt lúc một giờ ba mươi, đến hơn ba giờ vẫn không có ai đến gặp. Chiều muộn dần, khách ra vào thưa hơn. Trong Lán chỉ còn mấy người chờ vào làm việc với binh trạm, đang tranh thủ đánh bài tiến lên. Ở góc lán, một cán bộ đứng tuổi đang mải mê ngồi xếp lại tài liệu và tư trang. Ngọc hỏi Danh:
- Cậu biết mặt ông Lê Trọng chưa?
- Chưa, nhưng mình nghe nói ông ấy là người dễ mến.
- Mình cũng nghe nói vậy, nhưng sao thủ trưởng mà chẳng đúng giờ hẹn thế này. Để lính chờ, mất thời gian quá.
Ở góc lán, người cán bộ đứng tuổi tủm tỉm cười rồi vẫy hai đứa lại với một giọng Huế nhẹ nhàng:
- Hai cậu lại đây. Mình là Lê Trọng đây. Bắt được quả tang nói xấu thủ trưởng, nghe. Ta chưa biết mặt nhau nên mình cũng phải chờ các cậu, thế là ta hòa, được không? Bây giờ phải vào việc để các cậu trở về QH kịp mai lên đường.
Nói rồi, Lê trọng trải tấm bản đồ lên sạp. Ông chỉ sợi chỉ đỏ mới vẽ và nói rằng cuối chiến tranh phá hoại, tuyến ống của chúng ta đã đến Nông trường 20 tháng 4, các xe chở xăng không phải vượt qua trọng điểm Ngã ba Đồng Lộc nữa. Bây giờ Mỹ đã ngừng ném bom miền Bắc, tất cả bom đạn sẽ dồn lên tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn của Đoàn 559. Bởi vậy, phải làm ngay tuyến ống vượt Trường Sơn đến ngã ba LB, một nút giao thông quan trọng trên đường mòn Hồ Chí Minh. Tuyến vận tải 559 rất ác liệt, từ đây sẽ không dùng nhân viên trắc địa dân sự để khảo sát nữa, Các cậu có nhiệm vụ cùng anh Phan Hồng kiểm tra lại tuyến đã được Công trường Ô100 khảo sát hồi đầu năm. Công trường sẽ bổ sung thêm nhân viên khảo sát cho các cậu. Việc rất gấp. Ngày mai các cậu lên đây gặp anh Hồng để đi luôn. Ngoài kia xe chở ống đã đã bắt đầu hành quân rồi. Lê Trọng gọi một người đang đánh tiến lên và giới thiệu: Đây là đồng chí Sơn, Chủ nhiệm Hậu cần Công trường. Các cậu làm quen với nhau. Sơn cần nắm hết đặc điểm của công tác khảo sát tuyến ở Trường Sơn, và đảm bảo tốt cho anh em nhé. Bây giờ cậu trở lại ngay sở chỉ huy công trường để chuẩn bị hậu cần cho đoàn khảo sát. Trưa mai đội khảo sát phải có mặt ở đây để lên đường. Viên thượng úy đáp rõ, và nhanh nhẹn xếp tư trang chuẩn bị lên đường. Ngọc viết vội mấy chữ cho Thanh, nhờ mang giùm cái chăn và quần áo ấm mà anh đang để ở chỉ huy sở vì hôm đi khảo sát trời đang nóng, còn bây giờ vượt Trường Sơn trời đã sang đông. Khi viên thượng úy đi rồi, Lê Trọng lôi trong ba lô ra gói lương khô 702. Đây là loại lương khô có màu nâu và vị của kacao, và lính coi như một thứ bánh ngọt. Ông mượn thêm vài cái bát, rót nước chè trong bi đông mời hai kỹ sư trẻ. Lê Trọng hỏi về gia đình từng người, công việc khảo sát của tổ, về các điều kiện kỹ thuật. Ngọc bỗng cảm thấy mến người sỹ quan này. Dáng nhỏ nhắn, nhanh nhẹn, giọng miền Trung ấm áp khiến anh cảm thấy tin cậy. Khi đã thấy đủ thân thiết, Ngọc mạnh dạn báo cáo ông rằng đội khảo sát từ đây sẽ không có máy kinh vĩ để đo đạc. Qua ba tháng khảo sát tuyến ống trên địa bàn khu bốn cho thấy thời gian gấp, rừng rậm, lại không có nhân lực phát tuyến nên việc sử dụng máy kinh vĩ để đo dọc tuyến là không thích hợp. Do đó, việc vẽ trắc dọc tuyến phục vụ thiết kế từ nay sẽ phải dựa vào đường bình độ trên bản đồ. Điều ấy làm cho độ chính xác của mặt cắt dọc tuyến bị ảnh hưởng, nhưng vẫn chấp nhận được vì việc thiết kế tuyến trên vùng núi phức tạp của Trường Sơn phải có môt hệ số an toàn cần thiết. Lê Trọng đồng ý với đề xuất ấy và mong muốn các kỹ sư trẻ sẽ hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình như đã làm tốt trên tuyến X42.

Khi hai kỹ sư trẻ đi rồi, Lê Trọng bỗng cảm thấy nhớ nhà lạ lùng. Bất giác, ông nhìn về phía những dãy núi xanh thẫm mây phủ phía xa. Hôm qua, khi dừng xe chờ phà bên dòng sông, ông đã nghe câu hò vọng lên từ một con đò:

Em ơi về lấy chồng đi
Anh vào 559 biết khi nào về

559 là một chiến trường bom đạn cực kỳ ác liệt. Không những thế, tuyến đường ống còn phải vượt qua núi cao, vực sâu, mùa hè nắng cháy, mùa mưa lũ hung hãn cuốn phăng mọi thứ ngăn cản đường đi của nó. Ông đã từng dạn dày suốt cuộc kháng chiến chống Pháp, nhưng cấp dưới của ông, như những cậu kỹ sư trẻ tuổi kia liệu có vững vàng ý chí trong gian khổ ác liêt?


Tổ khảo sát của Ngọc và Danh đến Binh trạm 112 từ chín giờ sáng. Gần trưa Đại úy Hồng và các cán bộ kỹ thuật mới đến. Hồng là một cán bộ kỹ thuật đã được học về xăng dầu, đường ống ở Liên Xô và Trung Quốc, là anh cả của các cán bộ kỹ thuật trong Công trường, cả về tuổi đời, tuổi nghề và thâm niên đào tạo. Da ngăm đen, chỉ chừng bốn mươi tuổi, nhưng Hồng có dáng to béo, bệ vệ. Tuy vậy, ông vẫn cho người ta cảm giác thân thiện và dễ gần. Một nửa Ban Kỹ thuật của công trường 81 đã vào đây. Sau bữa cơm trưa, Hồng họp toàn bộ họ lại và giao việc cho từng người. Thanh và Ka nằm trong số những người ở lại vạch tuyến chính thức ở phía đông dãy Trường Sơn và chuẩn bị triển khai thi công tuyến. Ngọc và Danh thuộc số kỹ thuật cùng Hồng khảo sát lại tuyến vượt đỉnh Trường Sơn, và vào sâu bên trong đến trọng điểm LB. Cùng đi trong tốp này còn có thượng sỹ Huy, Trấn- một kỹ sư trạc tuổi bốn mươi, Đặng Phúc Hành, một kỹ sư cùng “nhóm mười tám tên”, và một hạ sỹ nhân viên khảo sát tên Dũng. Dũng mới mười chín tuổi, da trắng như con gái, má lúm đồng tiền, nhanh nhẹn, hoạt bát, và luôn sẵn lòng làm mọi việc. Ngay từ phút đầu Ngọc đã thấy mến cậu bé này.

 
Chỉnh sửa cuối:

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,364
Động cơ
416,007 Mã lực
Ngọc hỏi Thanh có mang giúp chăn và mấy cái áo ấm không. Thanh ngớ ra vài giây rồi bật cười: mình quên mất, lúc đi vội quá. Thôi cậu cứ đi đi, mình sẽ gửi vào cho. Ngọc đồng ý, nhắc: Cậu nhớ gửi giúp nhé, vì mùa lạnh đến rồi. Thanh nhoẻn đôi môi đỏ, cười rất tươi: Đừng lo. Đây là miền Trung, không đến nỗi lạnh như miền Bắc đâu. Ngọc gật đầu đồng tình. Rồi anh lôi từ trong ba lô ra mấy tờ giấy, đưa cho Thanh: Hồi thi công X42, dân công đào rãnh chôn ống không thẳng, cứ ngoằn ngoèo như con rắn. khi lắp ống, không hạ xuống rãnh được, mấy anh thợ kêu quá trời. Nhất là khi có máy bay quần đảo, đầu óc căng thẳng, có ông cáu, chửi thậm tệ những người đào rãnh. Mình là kỹ sư hướng dẫn thi công, nghe mấy câu chửi ấy, tự thấy xấu hổ. Căn cứ góc ngoặt cho phép của khớp nối ống, mình đã thử giải một bài toán lượng giác đơn giản và thấy rằng chỉ cần có cây nứa dài chín, mười mét kéo dọc rãnh là có thể phát hiện chỗ rãnh cong quá mức, phải chỉnh sửa. Làm thế này thì đảm bảo khi lắp, ống nhất định lọt xuống rãnh. Mình viết ý tưởng này ra, nhờ cậu mang về gửi đăng tạp chí kỹ thuật của Cục, may ra có ích cho các công trường. Thanh liếc qua bài viết, cất vào ba lô, giọng hào hứng: Ý tưởng hay đấy, cậu cứ yên tâm mà đi. Mình sẽ đảm bảo gửi bài này cho tạp chí.


Tổ của Ngọc, Danh và Trấn được phân công đi dọc đường 12 lên đỉnh đèo Mụ Giạ để nghiên cứu đường chuyển ống, và chờ Hồng để cùng vượt sang phía tây dãy Trường Sơn. Đang mùa mưa, những trận bom cuối cùng mới chấm dứt được vài hôm nên đường sá lầy lội. Chiếc xe zil 157 chở mấy anh em cứ nhảy chồm chồm, nghiêng ngả. Có những đoạn đất đá bị bom đánh sạt xuống đường chưa dọn hết, xe phải lách chênh vênh tưởng như chỉ một chút sơ ý là xe lăn xuống vực. Đi giữa ban ngày hòa bình mà còn khó thế này, mới thấy khâm phục lính lái xe Trường Sơn đã phải vượt bao cung đường còn gian nan hơn trong đêm tối dưới đạn bom ác liêt.
Nhá nhem tối, tổ khảo sát hạ trại trên đỉnh đèo Mụ Giạ. Con đường đá làm từ thời Pháp đoạn này còn khá nguyên vẹn. Đỉnh đèo là Cổng Trời- Một cái cổng lớn cho đường xuyên qua núi. Cái cổng như một cái hang ngắn, nhưng một bên thành hang mỏng mảnh như một cái cột đá. Không hiểu cái cổng này là cái hang có sẵn hay do những người làm đường đục núi mà thành. Cũng có thể là do cả hai. Giữa đỉnh đèo cao trên một nghìn mét so với mặt biển, một cái cổng thường có mây quấn xung quanh, gọi là Cổng Trời quả chẳng sai chút nào. Các chàng lái xe qua con dốc dài hàng chục cây số từ Baĩ Dinh lên đây, trong đêm lúc nào ca pô cũng hướng lên trời sao, và chiếc xe cõng hàng nặng nhọc vượt qua từng thước đường dưới đạn bom, hẳn khi chui qua Cổng Trời cũng thấy lòng thanh thản nhẹ nhàng, vì đây giống như cái mốc kết thúc một cung đường gian khổ ở phía đông dãy Trường Sơn.

Trời đã tối. Mưa cuối năm ở miền Trung trên Trường Sơn này sao rả rich ướt át lạ. Gần một ngày ngồi trên xe tải không mui, đã quàng ni lông rồi mà quần áo ai cũng ẩm ướt hôi xì. Vất vả lắm họ mới nhóm được lửa nấu cơm. Mệt, nhưng trong cảnh hòa bình, ngồi quanh đống lửa dưới vòm đá, ăn cơm, canh rau cải khô nấu với thịt hộp vẫn thấy lãng mạn. Ăn xong mọi người lấy bài ra chơi đến tận khuya thì lăn ra ngủ. Đây là đỉnh chia đôi đông tây dãy Trường Sơn. Đêm càng khuya, những đám mây dày đặc phủ khắp núi rừng. Những cơn gió núi lạnh thấu xương lùa mây vào vách đá, khiến cái lạnh càng trở nên ẩm ướt, nhớp nháp. Khi những thanh củi cuối cùng cháy hết, Ngọc mặc hết quần áo vào người, quấn màn quanh mình mà vẫn không sao ngủ được. Giữa đêm lạnh Trường Sơn, Ngọc bỗng thấy nhớ nhà. Nhớ dáng trầm tư của cha, nhớ dáng tất tả lam lũ của mẹ. Nhớ khuôn mặt của từng đứa em ríu rít suốt ngày, nhớ những bữa ăn đạm bạc của gia đình. Vậy là đã hơn nửa năm vào bộ đội..Hồi còn nhỏ, trong một giờ địa lý, khi giảng về mạng đường giao thông, thầy giáo chỉ vào một con đèo vắt ngang qua dãy Trường Sơn ở miền Trung và nói: Đây là đèo Mụ Giạ, nơi ngắn nhất để chúng ta có thể đi sang Lào. Hôm ấy, Ngọc rất hứng thú với cái tên Mụ Giạ, vì nghe nó rất lạ. Ngọc ước gì sẽ có ngày mình được đi qua con đèo này. Vậy mà bây giờ anh nằm đây, chính trên đỉnh đèo. Và cũng phải lên đến đây, anh mới biết đèo Mụ Giạ có Cổng Trời. Mới Nửa năm quân ngũ, anh và các bạn cũng đã nếm mùi vất vả, và ác liệt. Cuộc sống cũng dạy cho anh biết thêm nhiều điều. Trong gian khổ, ác liệt cũng rõ hơn mỗi con người. Trong gian truân cũng có cả sự may mắn. Ngọc bỗng rùng mình khi tưởng tượng nếu những trái bom từ trường dưới chiếc cầu sập phát nổ. Cũng là đảng viên cộng sản đấy, vậy mà Huy khác hẳn với Ka. Một người chỉ mới vào tuyến lửa đã tỏ ra khiếp hãi, còn một người thì sẵn sàng chấp nhận hy sinh cho người khác được sống. Ba ngày hòa bình đã trôi qua. Không gian chỉ còn tiếng gió và tiếng chim, không còn tiếng gầm rít của máy bay, tiếng bom gào đạn xé. Ban ngày thanh thản chạy xe trên quốc lộ, ban đêm tha hồ đốt lửa mà không hề sợ bom chụp lên đầu. Vậy mà vài hôm nữa lại vào một chặng chiến đấu mới. Ngọc chưa hình dung được mức độ ác liệt trên tuyến Trường Sơn của 559, nhưng cũng có thể mường tượng ra phần nào qua những tiếng bom ì ầm đâu đó từ phía tây vọng lại.
Sau bữa sáng, cả tổ quyết định vượt qua Cổng Trời để thị sát phía Tây. Kỳ lạ quá, chỉ vượt qua cổng trời chừng một trăm mét thì trời bỗng bừng sáng. Những đám mây u ám, những cơn mưa rả rich và không gian ẩm ướt hoàn toàn biến mất. Trời cao thăm thẳm, nắng chói chang. Dòng suối trong vắt hiền hòa. Vài bông hoa cúc dại màu vàng điểm xuyết trên vách đá với đàn bướm đủ màu thoắt bay, thoắt đậu.
Dưới cái nắng vàng tươi ấy, cả tổ quyết định dừng lại tắm giặt cho bõ những ngày ẩm ướt, nhớp nháp của mùa mưa bên Đông Trường Sơn. Thật khoan khoái khi được ngâm mình trong dòng suối trong vắt, được phơi mình dưới ánh nắng rực rỡ. Họ chọn một bãi trống để phơi ba lô và đồ đạc, rồi đi dọc suối hái rau, bắt ốc chờ cho quần áo khô sẽ trở lại Cổng Trời. Ngọc ngây ngất trước cảnh rừng già hung vĩ. Đã từng được theo cha sống ở chiến khu Việt Bắc thời chống Pháp, rồi đi sơ tán ở Lạng Sơn thời đại học, trong đầu Ngọc rừng già bao giờ cũng gắn với núi dốc, dây leo chằng chịt. Vậy mà không biết ở đây rừng đã có mấy trăm năm, cây nào cũng to bằng mấy người ôm. Cây thì cao vút, cây thì tán lá khổng lồ với những cành to bằng cả người ôm vươn ra soi mình xuống dòng suối. Rừng bằng phẳng, dưới tán rừng chẳng có mấy dây leo, thâm chí có chỗ sạch sẽ như có ai quét dọn. Phong cảnh thanh bình đến kỳ lạ, dù chốc chốc vẫn có tiếng bom vọng lại từ xa lắm. Quá trưa thì bữa cơm ngon miệng với ốc suối và rau rừng kết thúc, quần áo đồ đạc khô cong. Cả tổ trở lại Cổng Trời.
 

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,364
Động cơ
416,007 Mã lực
Hồng đưa nhóm cán bội kỹ thuật đi dọc theo con đường đầu năm ông đã đi khảo sát với tư cách Chỉ huy phó Công trường Ô100. Tuyến ống sẽ dựa chủ yếu vào đường giao liên. Tuy nhiên đường giao liên đi trên cao và cách đường ô tô xa quá nên việc vận chuyển ống vào tuyến sẽ rất khó khăn. Lần trước, ông đã tìm hiểu và biết ở đây có con đường gọi là đường Hàm Nghi, con đường mà vị vua yêu nước ngày xưa đã cùng Tôn Thất Thuyêt vượt bao gian truân khổ ải để tránh sự truy đuổi của người Pháp, từ đó giấy lên phong trào Cần vương. Đường Hàm Nghi nằm dưới khe sâu, rậm rạp, nhiều rắn rết, lại gần đường ô tô nên có thể không an toàn cho bộ đội hành quân, và người ta không chọn làm đường giao liên. Hồng đã nhờ một bác người Rục dẫn đường. Người đàn ông vung dao phát tuyến mở đường, cả đội đi theo. Hồng thật hài lòng khi chọn tuyến này. Tuyến dễ đi, dễ chuyển ống từ đường ô tô vào, lại thuận lợi cho việc đóng quân. Cái khó nhất bây giờ là chọn vị trí trạm bơm. Sườn phía đông Trường Sơn dốc đứng, chắc chắn phải bố trí các trạm bơm nối tiếp. Tuy nhiên chỗ định bố trí trạm bơm thì xe kéo máy không thể vào được, ngược lại, chỗ xe vào được thì không thích hợp cho việc đặt trạm bơm. Phải mất hai ngày trèo lên tụt xuống, Hồng mới tạm thời ưng ý với tuyến chọn và vị trí đặt trạm bơm.

Khi Hồng đến Cổng Trời thì chiều đã muộn. Từ đây phải đi theo đường giao liên. Cung đường giao liên thường đi mất một ngày, nên đành nghỉ lại. tranh thủ ánh sáng cuối ngày, Hồng trải tấm bản đồ nghiên cứu hướng sẽ đi tiếp. Theo dự định, từ đây, tuyến sẽ theo đường giao liên, vượt qua một vùng núi hiểm trở để đến LB. Đường giao liên thì ngày càng xa đường ô tô, địa hình rất hiểm trở, công vác ống sẽ rất lớn và sẽ không thể thi công kịp phục vụ vận chuyển trong mùa khô này. Thêm nữa, theo thông báo của Đoàn 559 thì đây là vùng Phỉ Lào hoạt động khá mạnh.Thi công trong điều kiện địch mặt đất biết từng việc ta làm thì tránh sao khỏi bị “phơi áo” trước sự đánh phá hủy diệt của không quân. Vậy là đi theo hướng đã chọn sẽ vô cùng gian truân, vừa xa đường ô tô, vừa có nguy cơ lộ bí mật. Nhưng nếu bám theo đường ô tô thì làm sao tuyến tránh khỏi các trận bom B52 khi địch đánh phá đường? Lần trước đi khảo sát rất gấp, lại chưa có kinh nghiệm nên ông không hình dung ra hết khó khăn. Chỉ sau khi thi công tuyến X42 thì các câu hỏi về điều kiện thi công, đường chuyển ống mới được đặt ra một cách đầy đủ. Khi đặt cho hết các tình huống mới thấy thật khó xử. Lực lượng thi công thì đang triển khai rất rầm rộ và thúc sau lưng. Bây giờ phải làm sao đây? Hồng lấy bút chì đỏ khoanh khu vực hiểm trở mà đường giao liên đã cách xa đường ô tô, rồi tự nhủ: Phải đi lại thực địa mới kết luận được.

Sáng hôm sau, Hồng dẫn tổ khảo sát đi dọc tuyến đường giao liên.
Đường giao liên trên Trường Sơn là những con đường mòn cho những đoàn quân đi từ Bắc vào Nam và ngược lại. Các đơn vị từ những tốp nhỏ cán bộ Dân Chính **** đến các trung đoàn , sư đoàn đều đi theo tuyến đường này vào các chiến trường. Những người đi vào Nam đều có một từ chung là “đi B”. Vì là đường cho hàng ngàn, hàng vạn người đi nên lối mòn được phát rộng ra, lên dốc có bậc, qua vách núi có thang. Qua suối sâu có cầu. Những chiếc cầu giao liên có khi chỉ là một thanh gỗ có tay vịn. Qua khe sâu có khi là những chiếc cầu treo bằng các sợi song mây. Dọc đường giao liên có các Trạm giao liên. Trạm giao liên đánh dấu một cung đường hành quân của bộ đội. Tram giao liên được bố trí bên các bờ suối kín đáo. Gần trạm bao giờ cũng có bãi rộng cho quân nghỉ lại, gọi là bãi khách. Bãi khách có nhiều cây thuận tiện cho mắc tăng[FONT=&quot][1][/FONT] võng. Người ta đắp sẵn các bếp Hoàng Cầm[FONT=&quot][2][/FONT] cho bộ đội nấu cơm. Các trạm giao liên thường có điện thoại để liên lạc với cấp trên, có quân y và có cả nhà bếp để phục vụ các đoàn khách đặc biệt.

Con đường giao liên ở đây thoạt trông thật là mơ mộng. Đường đi dưới tán rừng già, qua những dòng suối trong vắt, ẩm ướt. Sáng sớm, tiếng chim hót râm ran, bầy khỉ líu tíu gọi nhau chuyền từ cành này sang cành khác. Những bông hoa rừng trên vách núi đỏ vàng muôn sắc. Tuy nhiên, khi nhìn những đoàn người trên tuyến giao liên mới hiểu hết nỗi nhọc nhằn. Những đoàn quân từ Bắc vào mang theo súng, đạn, gạo, nồi niêu lỉnh kỉnh. Những người lính đã qua hàng trăm cây số đi bộ vượt đèo, vượt dốc, dù với tuổi trẻ và khí thế hăm hở của những người tình nguyện ra mặt trận, thì sự vất vả, chịu đựng cũng hiện lên trên nét mặt. Trong số họ, có những người đã bắt đầu lên cơn sốt rét, đồng đội mang giúp súng đạn, còn họ chống gậy run rẩy bám theo đoàn. Người nào không đủ sức thì nằm lại trạm giao liên hoặc một trạm quân y trên đường, hồi sức lại đi tiếp. Những người trong Nam ra thường là thương bệnh binh, nước da xanh tái vì sốt rét hoặc chân tay còn băng bó. Họ sẽ phải chiến đấu để thắng từng cung đường bằng nghị lực của mình.
Trên tuyến giao liên, nói chung cứ đi một giờ lại nghỉ mười phút. Ngọc và các bạn nhận ra quanh mình đầy truyền đơn rải từ trên máy bay. Họ tò mò đọc những lá truyền đơn đó. “Các bạn cán binh Bắc Việt. Các bạn đã đi vào vùng oanh tạc của pháo đài bay B52. Các bạn nhớ cho, tất cả những nơi B52 ném bom rải thảm thì không còn một sinh vật nào sống sót…”. Bên cạnh những lời đe dọa đó là ảnh những chiếc B52 với chùm bom kéo dài như băng đạn. Rồi những lá truyền đơn đưa tin ông cán bộ trung đoàn này, sư đoàn nọ, thậm chí có cả cán bộ cấp tướng đã “bỏ Việt Cộng về với chính nghĩa Quốc gia”. Có những tờ truyền đơn thì gợi cảnh quê hương thanh bình “Khói lam chiều giàn mướp lá lên xanh, Mái chùa cong buông hồi chuông tín mộ”.Ở quê hương, mẹ già vợ dại đang ngày đêm trông ngóng, cuộc sống cơ cực cần bàn tay một người đàn ông…”. Có lẽ đại đa số những người đi dọc Trường Sơn đều có tâm trạng đọc chúng với thái độ dửng dưng. Những lá truyền đơn đó đã không làm được gì đáng kể với những đoàn quân vào Nam như trẩy hội. Tuy nhiên, không phải không có những người giao động về những tờ truyền đơn đó. Có người thì tờ truyền đơn đó làm họ suy nghĩ, và họ thực sự mất tinh thần khi đơn vị bị bom đánh vào đội hình. Những người không chịu nổi gian khổ ác liệt hoặc không vững vàng đã đào ngũ. Con đường về của họ lại vẫn là đường giao liên. Họ thường không nghỉ ở các trạm giao liên. Khi gặp những đoàn quân đi ngược chiều, họ không giám nhìn thẳng vào những người lính đang hành quân ra mặt trận. Những người “B quay” ấy biết chắc khi trở về, họ phải sống trong áp lực nhục nhã của những lời trách móc, khinh bỉ của bà con, họ hàng. Một số phải sống chui, sống nhủi. Trong số họ, một số rất ít vì quá thương cha mẹ già, vợ dại, con thơ. Số còn lại, nỗi sợ chết đã vượt lên trên danh dự cá nhân, vượt lên trên sự xấu hổ. Họ sống như cái bóng ở quê nhà.


[FONT=&quot][1][/FONT] Tăng của bộ đội thời chiến tranh chống Mỹ là một mảnh ni long rộng chừng 1,5m, dài 2m, có dán thêm xung quanh một số tai để có thể căng rộng hẹp tùy ý. Chiếc tăng này có thể làm mái trên võng ngủ đêm mưa, có thể quàng thay áo mưa, trùm kín cả ba lô lúc hành quân. Và khi người lính hy sinh, nó thường trở thành vải liệm.


[FONT=&quot][2][/FONT] Loại bếp do Hoàng Cầm sáng chế ra từ chiến dịch Điện Biên Phủ, có tác dụng khi đun nấu khói không bốc lên cao mà tản trên mặt đất khiến máy bay địch không phát hiện được
 

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,364
Động cơ
416,007 Mã lực
Theo đường giao liên được nửa ngày thì tổ khảo sát đến một vách núi dựng đứng. Để vượt qua vách núi này phải đi men theo vách đá và trèo qua năm cái thang nối với nhau, gọi là dốc Năm thang. Vì phải dùng tay bám vào vách đá hoặc thang, nên dưới chân vách đá, những chiếc gậy Trường Sơn của các đoàn quân bỏ lại đã chất thành một cái gò lớn. Sang bên kia dốc, họ lại chặt cây làm gậy khác. Đi trên Trường Sơn này, chiếc gậy như cái chân thứ ba trợ lực khi lên dốc, và ghìm cho bước chân khỏi trượt khi xuống dốc.

Từ dốc Năm thang, đi thêm nửa ngày nữa lại qua dốc Ba thang. Vách núi ở đây nối nhau bằng ba thang. Sau dốc Ba thang là một vùng địa hình hiểm trở. Trải tấm bản đồ ra, Ngọc nhận thấy núi đã không có đường bình độ để xác định độ cao, vào sâu phía trong, thậm chí bản đồ chỉ thể hiện được sống núi của các dãy núi lớn trông như những cành cây khô, các sông suối lớn và một vài địa danh quan trọng. Máy móc đo đạc không có, bản đồ cũng không có gì thể hiện độ cao, vậy phải làm gì để vẽ trắc dọc tuyến phục vụ thiết kế đây? Ngọc đề nghị Hồng cho buộc dây võng vào hai đầu gậy, căng dây theo tuyến, dùng thước đo độ và dây dọi để đo độ dốc, rồi từ đó theo công thức lượng giác mà tính ra độ chênh cao. Hồng đồng ý. Tuy nhiên chỉ sau vài giờ, Ngọc đã thấy bất ổn vì nó qua chậm mà độ chính xác cũng không đáng tin cậy. Ngọc quyết định dừng cách này, và chuyển sang một cách khác, và anh đặt tên cho nó là “Đếm bước chênh cao”. Những đoạn dốc không có bậc thì ước lượng độ chênh cao. Những đoạn có bậc thì đếm số bậc nhân với chiều cao trung bình mỗi bậc. Trên từng đoạn phải ghi chép lại cẩn thận, chiều vẽ phác lên giấy làm cơ sở để vẽ trắc dọc tuyến. Để tăng độ tin cậy, Ngọc hướng dẫn Huy và Dũng cùng làm để so sánh, đối chiếu. Xem ra kết quả là chấp nhận được.

Một buổi chiều, Tổ khảo sát nghỉ lại trạm giao liên. Trạm giao liên trên Trường Sơn thường là chỗ lính các đơn vị khác nhau đi tìm đồng hương. Ở chiến trường gặp đồng hương tỉnh đã quý, đồng hương huyện xã, dù ở nhà không biết nhau thì cũng có thể tâm sự hàng giờ. Nghe nói có một tiểu đoàn lính Hà nội, Ngọc lang thang trên bãi khách tìm người quen. Chẳng phải tìm lâu, anh đã nhận ra Khuyến, người bạn học cùng lớp thời phổ thông. Lớp gọi là Khuyến bơ, vì cậu ta trắng trẻo và hiền lành. Hồi ấy, gia đình Ngọc rất nghèo, quanh năm chỉ có hai bộ thay nhau đi học, áo đã có tấm vá. Còn Khuyến học rất giỏi, lại là con một gia đình giàu có, lúc nào cũng ăn mặc chỉnh tề và đi học bằng chiếc xe đạp Junior bóng lộn. Ngọc và Khuyến chơi thân với nhau. Khuyến chơi với Ngọc vô tư mà không để ý gì đến sự khác biệt giàu nghèo,. Tuy nhiên, đọc thấy sự coi thường trong cách cư xử của mẹ Khuyến, nên dần dần anh không đến nhà bạn, nhưng điều đó không làm ảnh hưởng đến tình bạn của họ. Lên cấp ba, tuy không còn học cùng lớp, nhưng hai đứa vẫn học cùng trường. Hết phổ thông, Khuyến cùng một số bạn không thi đại học, mà tình nguyện lên Tây Bắc xây dựng kinh tế miền núi. Vậy là đã năm năm không gặp nhau. Giữa Trường Sơn xa xôi này, những kỷ niệm bỗng trở nên êm đềm quý giá. Ngọc hỏi Khuyến:
- Cậu thường học giỏi nhất lớp, sao không thi đại học?
Khuyến trầm tư nhìn những chiếc lá khô đang xoay tròn trôi theo dòng nước:
- Hồi ấy chiến dịch vận động học sinh Hà Nội đi xây dựng kinh tế miền núi kích thích vào lòng mình nhiệt huyết của một người ra trận. Cậu có nhớ bài thơ Lên miền Tây của Bùi Minh Quốc không:

Tuổi hai mươi khi hướng đời đã thấy
Thì xa xôi biết mấy cũng lên đường
Sống ở thủ đô mà dạ để mười phương
Nghìn khát vọng chất chồng mơ ước lớn…


Bài thơ ấy như một hồi kèn. Rồi trường còn tổ chức cho các anh chị đã đi xây dựng kinh tế miền núi về nói chuyện. Mình nghe thấy ngứa ngáy chân tay, muốn lên đường ngay. Biết nguyện vọng của mình, mẹ khóc ròng mấy ngày liền mà không ngăn mình được.
- Hồi ấy lớp mình cũng có mấy bạn làm như cậu. Mình khuyên họ cứ nên đi thi đại học, nếu không đỗ thì đi xây dựng kinh tế miền núi cũng đâu có muộn. Cũng là cống hiến cho đất nước thì nên cống hiến theo cách hiệu quả nhất.
- Cũng biết vậy- Khuyến vô thức bẻ cái que khô trong tay rồi thả theo dòng nước- Nhưng gia đình mình là tư sản, nghe nói vào đại học chẳng dễ dàng gì. Mình không muốn mang tiếng trượt đại học, mà muốn dấn thân trong tư thế ngẩng cao đầu.
-
Cuộc sống trên miền núi thế nào?
- Dĩ nhiên là gian khổ rồi. Cả nước gian khổ, bọn mình trên ấy càng vất vả. Vất vả mấy cũng chịu được, vì xác định rồi mà. Có điều là vào thực tế rồi mới thấy mình nghĩ chưa hết. Tốt nghiệp lớp mười nghe thì oai, nhưng thực chất chẳng có nghề nghiệp gì. Bởi vậy các công việc vẫn chỉ là lao động chân tay. Ai được lòng mấy ông lãnh đạo thì được cất nhắc làm đội trưởng, đội phó. Nếu vào chân kế toán hay kỹ thuật thì rồi cũng phải được đào tạo cấp tốc, qua lớp sơ cấp. Lên đó mới thấy khát vọng chí làm trai thật xa vời quá.
-
Cậu đi bộ đội năm nào?
- Năm ngoái. Nhờ phấn đấu tốt nên được đề bạt trung đội phó rồi. Mình phục vụ ở cơ quan Bộ tư lệnh, xin mãi các ông ấy mới cho đi B.
Đôi bạn cũ say sưa tâm sự. Họ kể cho nhau về chuyện gia đình, về những người bạn, người thầy cũ. Khi họ chia tay thì bãi khách đã hoàn toàn chìm trong im lặng. Ánh trăng thấp thoáng sau tán lá đã chênh chếch đỉnh đầu.
Sáng sớm hôm sau, Ngọc sang chia tay Khuyến để đi tìm đường chuyển ống vào tuyến theo chỉ thị của Hồng. Vừa đến bãi khách, đã thấy một đám người đang to tiếng. Trạm trưởng giao liên giận dữ:
- Bếp Hoàng Cầm có mà các anh không dùng. Đun khói thế này máy bay đến đánh thì chết cả lũ. Các anh dập ngay đi cho!
Câu y tá của trạm thì vừa lay những cái cây đang quyện khói với hy vọng khói tan không bốc lên trời, vừa mếu máo:
- Các anh ơi. Khói thế này thì máy bay dễ phát hiện lắm. Các anh qua đây rồi đi ngay, còn chúng tôi phải ở lại. Còn biết bao đoàn khác nữa, xin các anh giữ cho.
Một gã cao lớn, bặm trợn xấn đến trước mặt trạm trưởng:
- Đồ thỏ đế, nhát gan như ông mà cũng vào chiến trường à. Sợ thì về quê mà núp vào váy vợ!
Mặt trạm trưởng từ đỏ chuyển sang bầm tím. Ông rút khẩu súng ngắn chĩa lên trời. Đoàng! Đoàng!đoàng!..
- Nhân danh chỉ huy vị trí trú quân này, tôi ra lệnh tắt ngay tất cả các bếp không phải là bếp Hoàng Cầm!
Ba phát súng chỉ thiên chát chúa khiến tất cả mọi người trên bãi khách sững lại. Gã bặm trợn nọ bất giác lùi mấy bước. Gã không ngờ câu chuyện lại nghiêm trọng đến vậy. Khuyến chạy đến:
- Các cậu tắt bếp đi. Ông ấy nói đúng đấy. Khói bốc lên, máy bay phát hiện mà đánh thì không có cơ hội vào chiến trường thể hiện lòng dũng cảm nữa đâu.
Ngọc thấy tình thế này không tiện đến nói lời chia tay. Anh vẫy chào bạn rồi cùng tổ khảo sát theo một lối mòn đi về hướng tây, hướng có đường ô tô.
 

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,364
Động cơ
416,007 Mã lực
Chỉ đi được chừng mươi phút, tiếng OV-10 đã vo ve trên đầu. Ngọc chột dạ. Những người lính Trường Sơn đã kể cho anh về loại máy bay này. Nó có hai thân nên thường gọi là Tàu Càng. Tàu Càng là loại máy bay trinh sát rất lợi hại. Nó bay dai dẳng đi tuần trên trời như một loài chó săn rất thính. Bộ đội ta sơ suất để lộ một chi tiết nhỏ như khói, quần áo trắng, kim loại, kính phản chiếu ánh sáng mặt trời…, là lập tức nó bắn đạn khói vào mục tiêu. Trong giây lát, máy bay ném bom bâu lại bắn phá. Chiếc Tàu Càng lượn mấy vòng phía trên trạm giao liên. Rồi bất ngờ bắn xuống một quả đạn khói. Tiếp đến là tiếng rít của máy bay cường kích. Rồi từng loạt bom bi, bom sát thương nối nhau nổ. Chỉ khoảng năm bảy phút thôi, nhưng với số bom mà bầy máy bay phản lực ném xuống chắc cũng đủ tan hoang bãi khách và trạm giao liên. Tổ khảo sát có bảy người thì chỉ bốn đi tìm đường vác ống. Hồng, Trấn và Hành ở lại để tính toán kiểm tra các bài toán thiết kế. Dứt trận oanh tạc, cả bốn người nhào về trạm..
Về đến trạm giao liên, họ kinh ngạc vì một vùng xanh tươi rợp bóng cách đây ít phút, giờ đã tan hoang. Cây cối đổ ngổn ngang. Hố bom bi, bom sát thương chằng chịt. Quân trang, quần áo vương vãi. Đây đó những đám máu loang trên cỏ. Mùi khói bom vẫn còn khét lẹt. Hơn mười người hy sinh, hàng chục cái cáng vội vàng đưa thương binh về quân y viện. May mà cả ba người của họ đều an toàn.

Cả tiểu đoàn lính Hà Nội khẩn trương chỉnh đốn lại đội hình để hành quân tiếp. Ngọc bổ đi tìm Khuyến. Người ta chỉ cho anh về phía góc rừng, nơi tập trung các tử sỹ để chôn cất. Khuyến nằm như ngủ trên tấm võng trải lên thảm cỏ. Anh bị mấy viên bi găm vào đầu, nghe nói ngay trong loạt bom đầu tiên. Cả gã bặm trợn lúc sáng, giờ cũng nằm cách Khuyến không xa. Những bài học trên chiến trường khắc nghiệt quá. Nó không cho phép sai lầm lần thứ hai. Cái chết của những chàng trai trẻ sáng nay thật là vô ích. Chắc chắn từ bài học đẫm máu này, việc cẩn trọng khói lửa trong nấu ăn sẽ ngấm vào máu của tất cả mọi người trong tiểu đoàn. Tiếc thay đã quá muộn. Cái giá của sai lầm không chỉ là sinh mạng của chính mình mà cả đồng đội. Những đoàn quân đi qua Trường Sơn cứ vợi dần trước khi vào đến mặt trận. Họ chết vì vô vàn lý do. Những lý do từ địch, từ địa hình, thời tiết khắc nghiệt thì đi một nhẽ. Còn cái chết do cẩu thả và kiêu căng của người khác như thế này thì oan ức quá. Khuyến nằm lại cùng đồng đội trên một gò đất bên suối. Những tấm bia bằng gỗ hòm đạn ghi họ tên tử sỹ cắm trên mộ thẳng hàng như họ đang tập hợp. Những tấm bia khác nhau tên người, tên phố, giống nhau quê Hà Nội và ngày hy sinh.
Ngọc bẻ một nhành cây thay hoa cắm lên mộ bạn. Một cuộc đời ngắn ngủi luôn ước ao được làm một cái gì đó cho phỉ chí trai với đất nước, đã chững lại một cách tức tưởi ở một góc rừng trên đất khách này. Khuyến ơi. Nằm lại đây nhé. Chiến tranh khắc nghiệt chẳng chừa ai. Không biết sẽ còn bao nhiêu chàng tai, cô gái tài giỏi thông minh như bạn ngã xuống trong cuộc chiến tranh này.


Sau trận oanh tạc của địch vào trạm giao liên, Hồng nhận ra rằng nếu tuyến ống đi theo đường giao liên tách hẳn khỏi đường ô tô thì khi bị đánh phá, việc ứng cứu sẽ rất khó khăn. Ông quyết định bố trí tuyến, đi dựa vào đường ô tô, nhưng cố gắng tránh ra ngoài được vệt bom B52. Trên tuyến chi viện chiến lược đi qua đất Lào, hầu như các tà xẻng (xã) đều có cán bộ bộ đội Việt cắm bản làm dân vận, gọi là “Chuyên gia”. Các Chuyên gia đều biết tiếng Lào. Họ ở với dân để nắm tình hình, hướng dẫn cho dân tổ chức cuộc sống và làm mọi việc gọi là dân vận. Họ cùng ăn, cùng ở, cùng lên rẫy với bà con, nhường cơm sẻ áo khi bà con gặp khó khăn. Do đó, các Chuyên gia thường được dân các bản Lào yêu mến. Theo chỉ thị từ Binh trạm, một Chuyên gia trực tiếp dẫn tổ khảo sát đi theo những đường mòn trên sườn núi Phu Thương. Bom địch đánh rát quá nên dân một số bản đã vào ở sâu trong núi. Đi hết một ngày đường mà không có bản dân nào, tổ khảo sát dừng lại bên một dòng suối nhỏ. Tranh thủ khi trời chưa tối, Ngọc ghi chép lại lộ trình đi trong ngày, kết quả đo độ cao, đánh dấu lên bản đồ các vị trí cần thiết phục vụ thiết kế. Theo các Chuyên gia cắm bản thì trên đỉnh núi có căn cứ của phỉ nên trước khi ngủ, Hồng cắt cử mọi người thay nhau gác. Ngọc lên võng, lôi cuốn sách tiến Nga trùm chăn học. Khi vào bộ đội, anh mang theo cuốn sách học tiếng Nga. Cái cách dạy môn tiếng Nga hai năm đầu ở trường đại học chỉ hướng vào mục tiêu đọc được sách chuyên môn của mình với cuốn từ điển. Phong ba bão táp không bằng ngữ pháp tiếng Nga. Có lẽ vì vậy mà người ta dạy ngữ pháp như dạy toán. Kết quả là sinh viên có thể đọc được sách kỹ thuật, nhưng không nói nổi một câu hỏi đường cho hoàn chỉnh. Ngọc quyết tâm vào bộ đội sẽ tranh thủ bù đắp sự thiếu hụt ấy. Từ ngày vượt đèo Mụ Giạ, ngày đi khảo sát tuyến, khi ăn cơm chiều xong thì trời đã tối. Khi lên võng, muốn học chỉ còn cách trùm chăn dùng đèn pin mà học, không trùm chăn, máy bay có thể phát hiện được ánh đèn. Học vất vả thế. Mỗi tối chỉ nửa giờ mà Ngọc cũng thấy hứng thú. Tuy vậy, sau khi học, anh không sao chợp mắt được vì lạnh. Từ hôm vượt đèo Mụ Giạ đến nay, chẳng đêm nào anh tròn giấc. Mặc hết quần áo , cuộn người trên võng mà giấc ngủ cứ chập chờn đến hai ba giờ sáng mới thực sự chợp mắt được. Trằn trọc mãi rồi cũng đến phiên gác. Cả tổ khảo sát đã chìm sâu vào giấc ngủ. Tiếng sương gõ nhẹ lên lá cây lộp bộp. Những cơn gió rừng se sắt khua động làm cho vòm trời sao thoắt ẩn thoắt hiện sau tán lá. Dòng suối róc rách và tiếng những con chim rừng đêm kêu “thú thí thù thì”, “chót thì bóp, chót thì bóp” khiến cho đêm Trường Sơn như có cái gì đó rất sâu và huyền bí. Đeo khẩu AK trước ngực, Ngọc bỗng cảm thấy vui vui vì bây giờ trông mình chắc ra dáng một người lính thực thụ.
 

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,364
Động cơ
416,007 Mã lực
Ngày hôm sau, người dẫn đường cho biết con đường mòn họ đang đi sẽ rẽ lên rất cao phía đỉnh núi, nên tổ khảo sát quyết định cắt rừng theo phương vị để giữ một cự ly cần thiết với đường ô tô. Khi trời sắp tắt nắng, họ mới đến được một bản người Lào Thơơng[1]. Cả ngày cắt rừng, vừa đi vừa phát tuyến, gai cào, muỗi ,vắt khiến ai cũng mệt lử. Vậy mà khi đem gạo ra nấu cơm mới biết nước ở đây rất hiếm. Mỗi nhà chỉ còn một ống bương để dùng qua đêm. Khi hỏi chỗ lấy nước, anh Chuyên gia dịch lời ông chủ nhà rằng: Nước ở xa lắm, đi lấy nước phải mất nửa ngày. Gần đây có nước, đồng bào vẫn dùng, nhưng sợ bộ đội dùng không quen. Mọi người trong tổ khảo sát mừng lắm. Lính tráng quen chịu gian khổ, nước dân Lào dùng được thì bộ đội chẳng có gì phải ngại cả. Thế là Hồng cử Ngọc và Dũng đi lấy nước, những người còn lại ở nhà hái rau rừng chuẩn bị nấu cơm. Một người đàn ông trong bản dẫn Ngọc và Dũng đi theo một lối mòn nhỏ vào sâu trong rừng. Đi chừng hơn nửa giờ thì tới một khe suối cạn.Qua khỏi tảng đá lớn, người đàn ông chỉ cho họ một vũng nước . Có vẻ như có một mạch ngầm rất nhỏ đang ngấm nước từ trong khe đá ra, Tuy nhiên, cả hai đều thấy ái ngại vì lá cây rụng xuống thành lớp dày dưới đáy, khiến cho nước như ngả sang màu đen. Thấy hai anh bộ đội chần chừ, người dân bản ra hiệu cho họ đây chính là chỗ dân thường lấy nước. Hai anh bộ đội tranh thủ lấy nước lên rửa chân tay, rồi gùi mỗi người hai ống bương về cho tổ khảo sát.. Cơm chiều xong thì trời tối hẳn. Hồng nhẩm tính ngày mai phải đến được bản Na Tăng để quay về Cổng Trời giao tuyến cho đơn vị thi công. Rất may có Chuyên gia đi cùng nên Tổ khảo sát được nghe thông báo đầy đủ tình hình hoạt động của địch cả dưới đất và trên không. Đây là những thông tin rất cần trước khi triển khai thi công tuyến. Đêm ấy trời sáng trăng. Ánh trăng chiếu qua tán rừng loang thành từng mảng vàng óng trên mặt đất trông thật mơ mộng. Mệt quá nên chẳng ai còn tâm sức đâu mà ngắm trăng. Nằm trên nhà sàn của đồng bào, cạnh bếp lửa ấm, Ngọc nhanh chóng chìm vào giấc ngủ. Đến quá nửa đêm thì tiếng cót két của sàn nhà làm anh thức giấc. Dũng vừa giao ca gác về. Không hiểu sao gác xong cậu ta không cất súng mà cứ kéo khóa nòng lạch xạch. Ngọc định nhắc, thì bỗng..đoàng! một tiếng nổ đanh như một phát súng lệnh xé tan màn đêm yên tĩnh. Hồng choàng dậy chộp lấy khẩu súng ngắn để bên mình thảng thốt: Có chuyện gì đấy? Dũng ấp úng: Báo cáo thủ trưởng, tôi tưởng hết đạn trong khẩu súng ngắn, nên bóp cò, ai ngờ vẫn còn một viên. Trong chốc lát, những người đàn ông trong bản vây quanh ngôi nhà sàn. Họ mang theo dao, rựa, giáo mác như để sẵn sàng chiến đấu. Anh chuyên gia giải thích cho bà con rằng đấy là do bộ đội gác, súng bị cướp cò. Nỗi lo lắng của những người đàn ông đã dịu bớt, nhưng họ vẫn không chiu trở về nhà. Một ông già, chắc là trưởng bản tiến lên, nói với Chuyên gia: “bà con sơ tán vào đây phải cúng ma. Đêm nay bộ đội nổ súng thế này, con ma nó sợ, nó bỏ đi, Bộ đội phải đền một con trâu cho bà con trong bản cúng lại con ma”. Ai ngờ tình hình lại trở nên nghiêm trọng thế này. Sau nửa giờ đàm phán với dân, anh Chuyên gia nói với Hồng: Bà con làm căng lắm. Tôi đã thuyết phục được để không phải đền trâu, nhưng theo tôi, anh em mình nên đưa cho họ mấy hộp thịt hộp, nói là bộ đội không có trâu, cũng không có tiền, mong bà con thông cảm, coi đây là lòng thành tạ lỗi để góp với dân bản cúng ma. Ông Trưởng bản đồng ý, những người đàn ông tản về nhà. Tuy vậy, từ lúc ấy đến sáng ai cũng khó ngủ vì mọi người đi tiểu đều cảm thấy buốt, và cái cảm giác đau buốt ấy đeo đẳng họ đến tận sáng. Sáng ra, ông chủ nhà giải thích rằng nước này chỉ dân bản mới dùng được, người lạ dùng là bị đau chim. Nhưng bộ đội yên tâm, rồi sẽ khỏi ngay thôi. Đúng như ông chủ nhà nói, khi mặt trời lên cao thì mọi người không còn đau nữa. Ông già trưởng bản sang gặp Hồng nói rằng rất tiếc chuyện xẩy ra đêm qua, nhưng con ma của bản ở đây thiêng lắm. Bộ đội ở trong bản của dân Lào phải chú ý. Ông nhìn mấy ống bương nước và nói: Nước này bộ đội ăn không quen. Tôi nói người cho bộ đội nước khác để nấu cơm. Ông già đi vài phút thì có một cô gái mang sang một ống bương nước trong vắt. Đây là nước sông Sê Bang Phai, phải mất nửa ngày mới lấy được. Ống bương nước ấy đủ để nấu nồi cơm không vo gạo, nấu nước đủ uống và trút vào bi đông. Xong bữa sáng, Hồng cảm ơn ông chủ nhà, cảm ơn ông Trưởng bản và dân bản rồi lên đường. Nắng lên, tiếng tàu càng đã vo ve rất sớm. Đi chừng nửa giờ, bắt đầu thấy hố bom chi chit, dấu hiệu báo đã gần đường ô tô.
[FONT=&quot][1][/FONT] Một dân tộc trong cộng đồng người Lào. Họ có cách sống gần giống đồng bào Tây Nguyên ở Việt Nam.
 

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,364
Động cơ
416,007 Mã lực
Đúng lúc đó, chiếc tàu càn lượn vòng và bắn đạn khói. Rồi bom bắt đầu nổ đâu đó phía trước, có lẽ trên đường ô tô. Đợi đợt đánh phá kết thúc, Hồng ra lệnh
-Cả tổ chỉnh lại ba lô, súng đạn, bắt đầu chạy. Khi thấy những thân cây đang rần rật cháy và mùi khói bom khét lẹt, Hồng hô:
- Chạy nhanh vượt bãi bom!
Cả tổ khẩn trương nhảy qua các hố bom bi to bằng chiếc mũ, chui qua những thân cây mới bị bom phạt đổ. Chừng dăm phút thì hết bãi bom, nhưng cũng ngay lúc đó con đường ô tô hiện ra trước mắt. Hai bên đường bom đánh tan hoang, con đường mòn cắt qua đường, luồn trong những thân cây ngổn ngang cháy trụi. Hồng hô:
- Vượt nhanh qua đường ô tô!
Cả tổ chạy tiếp. Vừa dừng lại định thở, thì mọi người nhận ra mình đang đứng giữa trận địa pháo cao xạ ba bảy ly. Mấy ông ngụy trang kỹ đến mức đứng cạnh khẩu pháo mới biết. Không biết có phải địch đang tìm trân địa cao xạ không. Ơ Trường Sơn này, pháo cao xạ của ta không đủ sức bảo vệ mục tiêu cố định, mà nhiệm vụ chủ yếu là nổ súng hất máy bay địch lên cao để bảo vệ cho các đoàn xe. Bởi vậy, khi không chiến đấu, lính cao xạ giữ bí mật trận địa rất nghiêm ngặt. Hồng hô:
- Chạy vượt nhanh khỏi trận địa pháo!
Cả tổ lại chạy, mặc dù ai cũng đã mệt lử. Hết trân địa cao xạ, con đường mòn đi qua một bãi trống. Hồng ra lệnh:
- Chạy vượt nhanh khỏi bãi trống!
Lại chạy. Giờ thì ai cũng cảm thấy như đã kiệt sức, kể cả cậu Dũng thanh niên mười chín tuổi. Chạy hết bãi trống, con đường mòn chui vào dưới những tán cây lớn. Hồng ra lệnh: Dừng lại nghỉ! Mọi người như đổ vật xuống, thở rốc. Trấn, tuổi đã ngoài bốn mươi, người mảnh khảnh, chắc mệt nhất, nói trong hơi thở: “May quá, nếu bãi trống này dài thêm hai mươi mét nữa thì em sẽ đứt hơi trước khi bị bom đánh chết”. Hồng cười: “Nhưng có cậu nào chết đâu. Tớ tính hết rồi. Bây giờ mới thật yên tâm mà ngồi uống nước, hít thở không khí an toàn chứ. Đúng không?” Cả tổ cười vui “ Mệt thật, nhưng coi như thủ trưởng chỉ huy chính xác”. Họ giở bản đồ đối chiếu. Đây gần bản Na Tăng rồi. Khu vực hay bị bom đánh thế này liệu đặt kho có an toàn không? Hồng quả quyết: Phải đi vào sâu hơn nữa. Địa hình thuận tiện cho xe chở ống và chở bể nên vẫn giữ được bí mật. Họ đi thêm một đoạn nữa thì vào đến rừng già. Theo vệt bánh ô tô thêm chừng một cây số, gặp một kho trung chuyển lớn. Hàng hóa quân trang, lương thực tới hàng ngàn tấn được xếp ngay ngắn trên những giá chắc chắn làm bằng cây rừng. Còn đạn và những thứ dễ cháy nổ thì để dưới hầm. Những kho ở Trường Sơn như thế này được bố trí theo cung vận chuyển của Binh trạm. Rồi từ kho lớn, sẽ chuyển về các đơn vị thành kho nhỏ. Địa hình xem ra khá thuận lợi nên chỉ đi thêm một đoạn nữa là tìm được một rừng cây to có thể bố trí kho xăng. Họ thiết kế tại chỗ hệ thống đường ống trong kho và vị trí đặt bể chứa. Những kho xăng ở Trường Sơn đều chôn dưới đất. Mỗi hố thường chôn bốn bể sắt, mỗi bể hai mươi lăm mét khối. Các bể này được nối với nhau bằng hệ thống đường ống. Bởi vậy, các kho xăng của hệ thống đường ống đều phải đặt dưới tán cây lớn kín đáo, bảo đảm không để địch phát hiện hố đào và giữ được bí mật khi xe chở bể, chở ống vào kho. Các hầm chứa bể phải cách nhau một cự ly đủ lớn để nếu bị bom đánh, một quả bom khoảng năm trăm cân không thể phá một lúc hai hầm. Kho được đặt tên là A3, nhưng sau này, quen gọi là kho Na Tăng, tổng khối lượng năm trăm mét khối. Đây là một kho rất quan trọng vì nó là kho xăng đường ống đầu tiên của Đoàn 559.


Thục treo xắc cốt và khẩu súng ngắn lên một nhũ đá trong hang rồi nằm lăn ra
sạp. Hôm nay anh mới có thời gian cảm được sự mệt nhọc sau hơn một tháng thi công cật lực tuyến từ kho B1, chân phía đông dãy Trường Sơn, sang kho A3. Anh nhìn lên trần hang và điểm lại nỗi vất vả của tiểu đoàn trong hơn một tháng qua. Quả thật so với thi công X42 thì ở đây vô cùng vất vả. Phía đông trời mưa rả rich suốt ngày, đường trơn như đổ mỡ. Địa hình thì dốc đứng, lính vác ống phải bấm chân, một tay bám chặt vào cây bên đường mới không bị trơn tuột duống dốc. Mỗi chiếc ống Liên xô dài sáu mét, không quá nặng, nhưng thật là kềnh càng. Vác nó trên vách đá chên vênh thật nguy hiểm. Vậy mà để kịp tiến độ, có cậu thường xuyên vác hai ống. Sức trẻ có khác. Gặp chỗ vách dựng đứng, lính phải buộc dây kéo ống lên, rồi buộc dây treo mình trên vách đá để lắp ống. Phía tây Trường Sơn, trời nắng ráo thi công dễ hơn, nhưng địch lại kiểm soát rất gắt gao nên phải nắm chắc quy luật đánh phá, phải ngụy trang cẩn thận. Kỹ sư Hồng đã đã chọn hướng đi tuyến rất kín đáo. Tuy vậy, thi công đoạn tuyến gần bản Na Tăng vẫn thật nan giải. Kế hoạch thi công phòng tránh đã làm rất chặt chẽ, vậy mà vẫn có ba chiến sỹ hy sinh, mấy người bị thương do bom tọa độ bất ngờ ụp xuống. Thi công tuyến đã vất vả, nhưng đưa máy bơm vào vị trí còn vất vả hơn nhiều lần. Các máy bơm đều đặt ở sườn phía đông Trường Sơn, ngoài khu vực đánh phá của đich, nhưng địa hình quá dốc, phải làm đường cho xe xích kéo máy vào vị trí. Có chỗ gần đến nơi, xe xích không đi được, phải dùng sức người kéo máy như các chiến sỹ kéo pháo vào Điện Biên năm xưa. Thương anh Hồng quá. Người to béo thế mà chạy ngược, chạy xuôi, tính toán điều chỉnh vị trí đặt bơm, lo lắng đến rốc người. Lúc đầu chỉ lắp hai máy, nhưng khi thử nước, bơm mãi không lên đỉnh, anh lại hý hoáy tính toán, rồi quyết định thêm một máy bơm nữa mới ổn. Việc điều chỉnh này thật khó tránh, vì đây là lần đầu tiên thiết kế tuyến qua địa hình dốc đứng, lại không có máy đo độ cao, chỉ trông vào bản đồ. Khâm phục nhất có lẽ là cánh lái xe đại đội tám. Xe Sta đầu bằng chở ống được lính lái xe gọi đùa là xe Xi tã vì khả năng giã chiến đã kém, lại còn hay hỏng hóc. Vậy mà những chiếc Xi tã ấy đã vượt đèo, vượt dốc chênh vênh, vượt đỉnh Trường Sơn, vượt qua các trọng điểm đánh phá ác liệt để đưa những chiếc bể sắt hai mươi lăm mét khối và những chiếc ống dài sáu mét kềnh càng đến bản Na Tăng. Từ khi người Pháp đục núi thành Cổng Trời đến nay, đã có hàng ngàn chuyến xe vận tải sang Lào chui qua Cổng Trời. Những chiêc Star cũng có thể qua được, nhưng khi đã chở bể xăng và ống trên lưng thì trần Cổng Trời quá thấp xe chở bể không thể đi qua, và cua quá gấp, xe ống vướng cột cổng không thể xoay xở được. Vậy là phải phá Cổng Trời. Cái hang mỏng mảnh xinh xinh lại gắn với cái tên rất ấn tượng bị phá đi thì cũng tiếc thật. Nhưng rõ ràng với sự phát triển của giao thông vận tải thì trước sau nó cũng không thể tồn tại. Một tiểu đoàn công binh trong bốn ngày đã nổ mìn cải tạo đường ô tô ở khu vực Cổng Trời, những chỗ đường quá hẹp và cua quá gấp để xe chở ống, chở bể có thể đi qua. Hôm nay đã thông từ kho B1 đến A3.Thục đã đích thân kiểm tra toàn tuyến. Giờ có thể nghỉ lấy sức để ngày mai thử rửa.


Lê Trọng điểm lại các thành phần trong sở chỉ huy vận hành: Đại diện các Ban Tham mưu, kỹ thuật, chính trị, Hậu cần đã có mặt đủ. Bộ phận kỹ thuật đã cử người chốt ở các trạm bơm, ở những điểm xung yếu trên tuyến. Hồng phải đi khảo sát tiếp tuyến từ Na Tăng vào phía trong. Bù lại, chỉ huy kỹ thuật ở nhà đã có Lê Khôi, cũng là một kỹ sư học ở Liên Xô về. Quang đặt trước mặt Chỉ huy trưởng Công trường bản vẽ mặt cắt dọc tuyến và bản đồ tuyến. Trước khi trở lại bản Na Tăng khảo sát tuyến, Hồng đã kịp cùng các kỹ sư điều chỉnh lại vị trí các trạm bơm nên nước đã vượt qua đỉnh đèo Mụ Giạ. Hôm nay sẽ thử rửa toàn tuyến để bơm xăng. Lê Trọng yêu cầu kiểm tra kỹ lại đoạn tuyến vượt đỉnh đèo, tuyến qua các lèn đá phía tây, và nhất là đoạn cắt qua đường ô tô. Khi các cửa van báo về đều đã sẵn sàng, Lê Trọng ra lệnh nổ máy. Ở X42, khi ra lệnh vận hành lần đầu, ông có nỗi hồi hộp của người được giao trọng trách lần đầu tiên trong lịch sử quân đội chỉ huy vận hành đường ống trong chiến tranh phá hoại. Còn lần này, cảm giác của ông cũng khó tả. Tuyến vượt đỉnh Trường Sơn đưa xăng từ hậu phương lớn miền bắc cho tuyến 559. Một nửa tuyến hòa bình, còn một nửa thì mọi bất trắc chưa thể lường hết được.
 

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,364
Động cơ
416,007 Mã lực
Từ khi phát lệnh thử rửa, Sở chi huy trở nên yên tĩnh. Những báo cáo đều đặn từ các cửa van cho thấy nước vẫn đang chảy trong ống một cách bình thường. Chiều tối, dòng nước trong ống đến gần bản Na Tăng, mọi người cảm thấy thắng lợi như đã nằm trong tầm tay thì có tin báo về: Ngoàm trên đoạn tuyến đó bị vỡ. Đợt vận hành phải dừng để khắc phục sự cố. Nhưng chỉ chừng năm phút sau khi vận hành lại, ngoàm vẫn vỡ ở khu vực đó. Mất hai ngày vất vả mà ngoàm ở khu vực ấy vẫn vỡ. Trọng cho dừng vận hành để trao đổi tìm nguyên nhân. Một số ý kiến cho rằng đoạn tuyến ấy bị đánh mấy lần, rất có thể giống như ở Xóm Bông Lai. Thục rất băn khoăn với ý kiến này. Bài học ở xóm Bông Lai với anh là xương máu, nên anh yêu cầu các đại đội trưởng phải lắp ống khi trời đang sáng và phải trực tiếp kiểm tra ống trước khi lắp. Liệu có đại đội trưởng nào của anh quan liêu tắc trách mà hỏng việc lớn. Bây giờ mà tháo hết ống ra kiểm tra thì thật phức tạp, vì đó là khu vực địch thường đánh phá, mà yêu cầu đưa xăng vào A3 đã gấp quá rồi. Suy nghĩ rất nhiều, cuối cùng Thục mạnh dạn đề xuất:

- Báo cáo thủ trưởng, tôi đã yêu cầu anh em kiểm tra kỹ từng ống trước khi lắp để không xẩy ra chuyện đáng tiếc như ở xóm Bông Lai. Bây giờ tháo ống ra kiểm tra sẽ rất phức tạp. Tôi đề nghị ta thử kiểm tra bằng cách bơm nước ngược từ kho A3 ra.
Lê Khôi đăm chiêu nhìn lên bản vẽ mặt cắt dọc tuyến. Anh cầm thước kẻ kéo dài đường đo áp suất từ đỉnh đèo Mụ Giạ, và phát hiện ra một điều:
- Ở vị trí xẩy ra sự cố, áp suất đã vượt quá giới hạn cho phép của ngoàm. Trong điều kiện ấy, dù ống phía trước không tắc thì ngoàm vẫn vỡ. Do đó, đề nghị thủ trưởng cho lắp van điều chỉnh áp suất vào vị trí này – Anh chỉ vào một điểm trên tuyến - Có van điều chỉnh, áp suất khu vực sự cố theo tính toán sẽ xuống dưới giới hạn chịu đựng của ngoàm. Nếu lúc đó ngoàm vẫn vỡ thì đúng là ống bị tắc.
Xét thấy ý kiến của Khôi hoàn toàn hợp lý, Lê Trọng đồng ý. Tuy nhiên, kiểm tra lại thì van điều chỉnh áp suất lại đang nằm trên đất Việt Nam, cách nơi xẩy ra sự cố gần một trăm cấy số. Thế là mất thêm một ngày để chở và lắp van điều chỉnh áp suất vào vị trí. Khi cùng cán bộ kỹ thuật lắp ống vào tuyến, Thục cầu mong đây đúng là nguyên nhân vỡ ngoàm. Chiều hôm sau, việc thử rửa tiếp tục, và dòng nước thử rửa đã tới kho Na Tăng. Cả sở chỉ huy reo hò. Tiếng reo cũng bung ra từ tất cả các máy điện thoại của các cửa van, kho và trạm bơm, làm nên một không khí náo nhiệt mà có lẽ chỉ có trên hệ thống thông tin điện thoại đường ống giã chiến. Khi những tiếng reo, tiếng chúc mừng thắng lợi sau mấy đêm vất vả lắng dần xuống, bằng một giọng trầm ấm, Lê Trọng nói vào máy:
- Các đồng chí. Qua một thời gian thi công vất vả, chúng ta đã thử rửa thắng lợi. Trong thi công, đã có những đồng chí đã hy sinh. Điều này nói lên nhiệm vụ của chúng ta sẽ rất gian nan, chúng ta hãy cùng nhau quyết tâm vượt mọi khó khăn để đưa xăng vào A3 phục vụ chiến dịch Tổng công kích. Các đồng chí có nhất trí không? -Tiếng trả lời “Nhất trí! ” ran lên từ các tất cả các máy điện thoại trên tuyến – Vậy các đại đội kiểm tra lại lần cuối những việc cần làm để chuẩn bị bơm xăng, nhất là chuẩn bị vật tư và phương án khắc phục sự cố. Nhớ cho rằng nếu địch đánh vào tuyến khi đang bơm xăng sẽ vô cùng gian nan đấy. Các bộ phận quân y, chính sách phải sắn sàng làm nhiệm vụ.
Đăt máy điện thoại xuống, Lê Trọng hỏi Chủ nhiệm hậu cần: “có gì bồi dưỡng sức quân để chuẩn bị bước vào cuộc chiến đấu mới không?” Chủ nhiệm cười rất tươi: “Báo cáo, một lính trong Ban vừa bắn được con gà rừng. Tôi đã nấu nồi cháo đãi anh em trong Sở chỉ huy. Mấy hôm vừa rồi các anh vất vả quá”. Lê Trọng vỗ tay khen: “Linh hoạt! linh hoạt!, vậy dọn lên cho anh em thưởng thức đi”
Nồi cháo gà bốc khói nghi ngút. Sau mấy ngày thử rửa căng thẳng, rồi thành công, giờ này những bát cháo nóng trở nên ngon lạ kỳ. Mọi người khen nức nở. Chủ nhiệm hậu cần cao hứng: “ Quan điểm của hậu cần Công trường là: Trên cho ăn no, núi rừng cho ăn ngon. Rồi các anh cứ chờ mà xem”. Cậu trợ lý chính trị: “ Gớm, một con gà rừng mà khái quát thành chủ thuyết cơ đấy. Lâu dài thế nào thì không biết. Hôm nay thì tuyệt vời rồi”.

Bữa ăn kết thúc. Mấy chú lính công vụ dọn bát đĩa. Mọi người vào vị trí chuẩn bị vận hành. Từ kho đầu nguồn đến kho cuối, các lực lượng đều đã sẵn sàng. Lê Trọng đang chuẩn bị phát lệnh nổ máy thì chuông điện thoại của Ban Tác chiến đổ hồi. Đại úy Cần, Tham mưu trưởng Công trường nghe máy, chỉ đáp một tiếng “Rõ!”, rồi đặt máy và nói lớn: “trên báo xuống, B52 đang chuẩn bị đánh vào tuyến chúng ta ở khu vưc cây số 050!”. Lệnh báo động lập tức được phát lên đường dây, yêu cầu tất cả mọi người xuống hầm trú ẩn. Chỉ vài phút sau, bom bắt đầu nổ. Lần đầu tiếp xúc với bom B52, người ta có cảm giác như có ba khẩu đại liên khổng lồ từ trên trời nối nhau bắn xuống làm rung chuyển núi rừng. Sở chi huy chao đảo. Khu vực 050 như một cái đe khổng lồ. Từng chớp lửa nối nhau bùng lên trên lèn đá, dưới khe suối. Cây đại ngàn đổ rạp trong khói lửa mịt mù. Dứt ba loạt bom, không khí trở lại yên tĩnh, mọi người định ra khỏi hầm thì có ai đó hô lớn: Đừng ai ra khỏi hầm! Sẽ còn hai lần nữa mới hết một trận đánh của B52. Quả nhiên, chỉ vài chục giây sau, ba loạt nổ tiếp, rồi sau đó, ba loạt nữa. Một trận B52 nói chung có chín chiếc tham gia. Mỗi chiếc mang ba mươi tấn thì chỉ một trận vừa rồi, đã có gần ba trăm tấn bom ném xuống tuyến.

Trận bom dứt, mọi liên lạc hữu tuyến xuống các đơn vị đều bị dứt. Lê Trọng đứng trên cao quan sát: Vệt bom cắt ngang tuyến, bao gồm cả đường ống và đường ô tô. Trong đầu ông cứ ong ong câu hỏi: Tại sao suốt thời kỳ thi công không thấy chúng đánh, hôm nay chuẩn bị vận hành thì bị đánh? Ngẫu nhiên hay có nội gián?
 

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,364
Động cơ
416,007 Mã lực
Chừng hai tiếng đồng hồ sau trận B52, điện thoại trên toàn tuyến đã thông. Các đơn vị báo cáo về: gần năm mươi ống bị bom đánh hoặc đá đè không thể sử dụng được nữa. Các đơn vị không ai bị thương vong. Lê Trọng thở phào nhẹ nhõm. Thế mới biết con ngoáo ộp B52 không đáng sợ như chúng nó tuyên truyền. Lê Trọng gọi Thục lên giao nhiệm vụ bằng mọi cách nối ống để vân hành. Chú ý khi lắp ống phải kiểm tra cẩn thận vì sau đây là bơm xăng ngay.
Sau trận bom, Thục xuống ngay khu vực vừa bị đánh phá. Đại đội trưởng Nguyễn Thọ đón anh ở cửa van đầu tiên của đại đội.
- Báo cáo anh, rất may trận bom vừa rồi không ai thương vong. Tình hình tư tưởng bộ đội vững vàng. Tuy nhiên việc khắc phục sẽ rất phức tạp vì đây là núi đá không thể chôn ống, khi bị bom đánh sẽ rất dễ đứt tuyến.
- Anh động viên tinh thần anh em. Chắc còn ác liệt lắm, không được chủ quan. Cần làm dày thêm hầm trú ẩn để hạn chế tối đa thương vong. Còn điều này cần đặc biệt chú ý: Khi nối ống, phải kiểm tra kỹ từng ống, không để đất, đá, cây que trong ống. Nếu đang bơm xăng mà tắc ống thì cái giá phải trả là xương máu đấy.

Thọ trạc tuổi Thục. Dáng có phần thư sinh nhưng tính tình cương nghị, xông xáo, luôn bình tĩnh khi gặp tình huống phức tạp. Nhận lệnh của tiểu đoàn, Thọ cùng Chính trị viên họp cấp tốc chi bộ ****, kêu gọi tinh thần dũng cảm và cảnh giác. Ban chỉ huy Đại đội đã lên kế hoạch chi tiết để ngày hôm sau khôi phục tuyến ống. Theo kế hoạch này, ở mọi chỗ nối ống đều phải có cán bộ đại đội trực tiếp chỉ huy và theo dõi.
Đêm hôm ấy, thêm một trận B52 nữa đánh vào tuyến. Công trường nhận được một bức điện của trên báo xuống:
Phỉ và thám báo trên núi Phu ác đã phát hiện ra tuyến ống của ta. Sắp tới địch sẽ kiên quyết ngăn chặn. Các đồng chí phải khắc phục mọi khó khăn để chuyển được xăng vào cho 559.

Vậy là cuộc chiến đấu quyết liệt bắt đầu rồi đây. Lê Trọng trầm ngâm nhìn lên tấm bản đồ tuyến. Địa hình khu vực 050 thật là hiểm yếu. Con đường số 12 lượn ngoằn ngoèo suốt một đoạn dốc dài hai bên là núi đá. Với địa hình hiểm trở như vậy, tuyến ống thật khó thoát ly xa đường ô tô. Tuyến ống đang đi là ưu việt nhất mà địa hình cho phép. Bởi vậy, cách tốt nhất là khắc phục khó khăn, nếu cần nổ mìn đào rãnh chôn ống cũng phải làm.

Ngày hôm sau, trời chưa sáng rõ mà tàu càng đã vo ve xoi mói khắp khu vực cây số 050. Qua hai trận B52, rừng đã quang đi nhiều. Không thể ra tuyến nối ống được vì ống kim loại rất có thể bị ánh mặt trời phản chiếu khiến máy bay địch phát hiện. Chiếc tàu càng lượn dai như đỉa, chốc chốc lại bắn đạn khói xuống những nơi nó nghi ngờ, rồi tiếp đó, bầy máy bay cường kích xúm lại ném bom, bắn phá.

Bắt đầu từ hôm ấy, 050 đã trở thành trọng điểm ác liệt, một trọng điểm kép cho cả đường ô tô và đường ống. Mấy ngày đầu, cứ mỗi đêm vài trận B52. Nhưng sau, B52 không chỉ đánh đêm mà đánh cả ban ngày. Đủ các loại máy bay quần đảo trên trời, dội xuống đủ mọi thứ bom đạn. Trọng điểm 050 hầu như không có lúc nào ngớt tiếng bom. Đơn vị công binh của 559 đã có mặt ngay từ những trân bom đầu tiên để đảm bảo giao thông. Còn lực lượng công binh phá đá cải tạo đoạn đường ở Cổng Trời của Bộ cử vào, giờ được giao nhiệm vụ nổ mìn đào rãnh. Cứ chiều nhá nhem, họ dùng bộc phá đào rãnh dài trên vách đá để chôn ống. Sau đó, bộ đội ra lắp tuyến nối ống. Ban ngày, Thọ cho cất dấu, ngụy trang ống rất cẩn thận. Ngay sau khi tan khoí mìn công binh, anh em lao ra bới đá cho rãnh sâu xuống, lắp và chôn ống. Khi trời tối hẳn, có lúc nhờ được ánh đèn dù của máy bay săn ô tô trên đường. Làm việc trong điều kiện tranh tối, tranh sáng, vách đá dốc, ngổn ngang lởm chởm, thêm vào đó là sự căng thẳng, vì bom có thể chụp xuống bất cứ lúc nào. Đêm nào tuyến ống bị đứt cũng nhanh chóng được nối thông. Ức một nỗi, chỉ vài giờ sau, những trận B52, tọa độ lại xới tung tuyến lên. Trong nửa tháng, đã có gần chục người hy sinh mà xem ra công sức như công Dã Tràng. Chiều chiều cùng anh em ra tuyến, nhìn các chiến sỹ của mình, Thọ thắt lòng. Họ vô tư trong gian khổ, ác liệt. Có thể hôm nay họ ra tuyến và mãi nằm lại đó, vậy mà chẳng thấy ai nao núng. Thọ đã từng thấy những nhóm lính đào ngũ lấm lét đi ngược chiều với đoàn quân trên đường giao liên. Vậy mà ở đây cách biên giới chỉ mấy cây số, đại đội của anh chưa có trường hợp nào đào ngũ. Có lẽ chiến trường đã sàng lọc con người. Những ai đã trụ lại thì sẵn sàng chấp nhận hy sinh.
 

bocubau

Xe tăng
Biển số
OF-47109
Ngày cấp bằng
21/9/09
Số km
1,479
Động cơ
478,001 Mã lực
Nơi ở
Ha Noi
Hay quá....em bao lần đi Tây TS cứ tò mò cố tìm, hình dung xem cha anh xưa mở đường thế nào. Mình đi bây giờ, xe ngon, đủ hết các thứ mà cũng mất hơn 5 giờ mới từ Khe Gát sang Khe Sanh...Xưa mở đường đúng là một kỳ tích.
 

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,364
Động cơ
416,007 Mã lực
Bàn giao tuyến phía Nam Cổng trời xong, Ngọc lại theo Hồng và tổ khảo sát đi tìm tiếp tuyến từ Na Tăng trở vào. Hôm trở về Sở chỉ huy, Trưởng Ban kỹ thuật Lê Khôi đưa cho Ngọc chăn và áo ấm:
- Thanh nó gửi cậu. Hiện giờ nó đang thi công tuyến phía sau. Thằng ấy khá ra phết. Vừa rồi nó có một bài đăng trên tạp chí của Cục. Cậu đọc đi, chắc có thể ứng dụng được đấy.
Nói rồi Khôi dúi vào tay Ngọc tờ tạp chí. Ngọc mở ra xem: Phương pháp kiểm tra độ thẳng của rãnh chôn ống, tác giả Nguyễn Thanh. Đây chính là bài mà Ngọc nhờ Thanh gửi cho tạp chí. Cảm giác đầu tiên của anh là buồn. Buồn man mác. Không hiểu sao Thanh có thể đăng bài viết của bạn mà lấy tên mình làm tác giả. Nhưng nghĩ lại, anh tự an ủi: Thôi, miễn sao nó được phổ biến và có người áp dụng là tốt rồi. Đó chỉ là sáng kiến nhỏ, kỹ sư nào cũng có thể nghĩ ra.
Mấy ngày nay có chăn ấm, dù mắc võng giữa rừng hay ngủ trong hang đá, dưới hầm, Ngọc đều ngon giấc. Đoạn tuyến dự kiến trước đây, bây giờ đã xuất hiện nhiều trọng điểm địch đánh phá ác liệt, nên không thể bắc tuyến ống qua được. Theo gợi ý của Đoàn 559 và của Tổng Cục, cần tìm tuyến tránh lệch sang phía tây, đi qua vùng núi đá Mường Khăm. Đây là khu vực căn cứ của Huyện ủy **** Nhân dân cách mạng Lào, bởi vậy, nó cần được bảo vệ nghiêm ngặt, tránh tối đa những hoạt động tạo nên sự chú ý của máy bay địch. Chính vì lý do đó, để chọn truyến, Hồng phải làm việc với Binh trạm 231 là đơn vị phụ trách vận tải chiến lược trên địa bàn. Hành và Ngọc thường đi cùng Hồng trong các cuộc làm việc đó. Lần nào Hồng cũng mở đầu bằng một lời giới thiệu: “Tôi là Phan Hồng, chỉ huy phó công trường 81 làm đường ống, đây là đồng chí kỹ sư Đặng Phúc Hành, kỹ sư Trường Thủy lợi, và Vũ Ngọc, kỹ sư Bách khoa…”. Một lần từ Sở chỉ huy Binh trạm về, Hành hỏi Hồng: “sao anh phải có lời mở đầu như học thuộc lòng vậy?”. Hồng tủm tỉm: “Phải học thuộc lòng thật đấy. Cậu nghĩ mà xem, nếu tớ lỡ miệng mà giới thiệu: Đây là hai đồng chí kỹ sư Ngọc Hành thì có phải mất nghiêm túc không”. Hai chàng kỹ sư trẻ cười phá: Té ra thủ trường có vẻ ngoài vâm váp vậy, nhưng tâm hồn thật ý nhị.

Điều làm cho Hồng lo nhất là Huyện ủy Bạn liệu có đồng ý cho tuyến ống đi qua vùng núi đá Mường Khăm không. Truyến đi trên lèn đá không thể chôn được, nếu không may bom đánh trúng, chắc chắn hậu quả thật khó lường. Nhưng theo địa hình và tình hình đánh phá của địch thì đây là sự lựa chọn tốt nhất. Bí thư và Chủ tịch huyện tiếp tổ khảo sát tại cơ quan Huyện ủy. Đó là một khu nhà đơn sơ ẩn mình kín đáo dưới tán rừng già, trước cửa hang lớn. Nhà nào cũng có hầm chữ A, nhưng chỗ trú ẩn của cơ quan chắc là trong cái hang lớn, trần cao thoáng, nền được cải tạo để khi cần, cơ quan có thể rút vào làm việc trong hang. Hồng trải tấm bản đồ lên bàn, trình bày lại một cách có hệ thống việc lựa chọn đường đi của tuyến ống. Ông báo cáo rõ những nơi trước đây dự kiến tuyến đi qua, giờ đã thành trọng điểm đánh phá ác liệt của địch. Cuối cùng Hồng chốt lại: “Với tình hình như vậy, chỉ còn đường đi qua vùng núi đá Mường Khăm là sự lựa chọn tốt nhất. Mong các đồng chí cho phép chúng tôi triển khai thi công để kịp đưa xăng vào phục vụ vận chuyển trong mùa khô này.” Bí thư Huyện ủy **** Nhân dân Cách mạng Lào là một thanh niên trạc ba mươi tuổi, nước da trắng, dáng nhanh nhẹn. Ngay khi làm việc với Binh trạm 231, Hồng được biết Bí thư mới đi tham quan ở Liên Xô về, là người nhiệt tình và cởi mở. Biết vậy, Hồng vẫn lo vì đường ống qua đây không khác gì đưa lửa vào một vùng đất yên bình của nhân dân và chính quyền Bạn. Ra quyết định cho đường ống dẫn xăng qua đây không thể là sự lựa chọn dễ dàng. Điều lo lắng của Hồng quả không sai. Cả Bí thư và Chủ tịch Huyện đều hỏi rất kỹ về các tình huống hư hỏng, những gì xẩy ra khi tuyến bị bom đánh. Hồng nói rằng tuyến sẽ cháy nếu trúng bom. Tuy nhiên, nếu ta giữ được bí mật tuyến thì địch không thể phát hiện. Bộ đội Việt Nam đảm bảo sẽ không xẩy ra sự cố vỡ ống, rò rỉ xăng. Bí thư huyện ủy chắc hẳn là người rất thông thạo địa hình nên anh cầm bút chì đỏ vẽ nắn lại một số đoạn tuyến để tránh xa khu sơ tán của dân. Anh cũng đề xuất thêm các biện pháp nghi trang và ngụy trang nhằm bảo vệ an toàn cho tuyến. Cuối cùng anh nói: “Nhất trí để phía Việt Nam làm công trình đánh Mỹ qua đường vượt đèo này vì không có con đường nào khác và vì sự nghiệp chống Mỹ của nhân dân hai nước. Chúng tôi tin chắc các đồng chí giữ được bí mật công trường cũng như giữ được an toàn cho căn cứ Huyện ủy chúng tôi”.

Ngay hôm sau, Lê Trọng và Dũng được một người dân Lào do Huyện cử, dẫn đường theo hướng tuyến đã vạch trên bản đồ để kiểm tra và đo đạc. Con đường mòn leo qua các vách đá, chỗ có bậc, chỗ thì bám vào các mỏm đá mà leo. Họ chăm chú ước lượng độ chênh cao từng bước chân, đếm số bước và ghi chép. Kiểu đo đạc này đã làm khi định đưa tuyến ống dọc theo đường giao liên. Nay tuyến ấy đã bỏ. Còn lần này chắc chắn kết quả sẽ được dùng để thiết kế vị trí đặt trạm bơm nên phải làm rất cẩn thận.

Đi hết đoạn dốc lèn đá, tuyến đi trên đoạn đường bằng phẳng, nhưng phải vượt qua nhiều sông suối, đi qua nhiều bản. Chiến tranh đã làm cho vị trí các bản thay đổi nhiều. Những bản sầm uất xưa bên sông, suối hay trên những cánh đồng bằng phẳng, dân đã sơ tán vào rừng, vào các hang đá. Đường mòn chằng chịt. Có bản đồ, địa bàn thì thế nào cũng đi tới đích, nhưng không có người dẫn đường thì rất dễ đi vào những vùng địch đánh phá, những bãi bom. Người dẫn đường cho Ngọc và Dũng tên là Bun Khăm, trạc bốn mươi tuổi, dáng nhỏ nhắn, nỗi vất vả nương rẫy hằn lên thành những nếp nhăn trên khuôn mặt khắc khổ. Không biết tiếng Việt, nhưng ông hay cười, thân thiện, nên ba người luôn thấy gần gũi. Bun Khăm rất thông thạo đường sá vùng này. Ông biết cách chọn đường tắt và kín đáo để đi, những đoạn sông nước nông để lội qua, rất sẵn lòng ngồi chờ khi Ngọc dừng lại nghiên cứu địa hình. Có những chỗ nhận ra họ đang đi lệch khỏi hướng dự đinh, Ngọc ra hiệu cho ông, ông cười chỉ lên trời vừa nói vừa ra hiệu: “America bùm bùm”, Ngọc hiểu rằng phía ấy là khu vực máy bay Mỹ đánh phá. Đi hết nửa ngày thì họ đến bản Say. Bun Khăm dẫn Ngọc vào một hang đá lớn, nơi dân bản Say đang sơ tán. Tại đó Ngọc được gặp một anh Chuyên gia trẻ tuổi. Người Chuyên gia này đã đề nghị Trưởng bản đưa Ngọc đi xem một số hang đá và nghiên cứu địa điểm để làm kho. Chiều xuống, Ngọc và Dũng nghỉ lại bản Say. Sáng hôm sau họ trở về cơ quan huyện báo cáo tình hình cho Hồng. Qua hai ngày vất vả, nắng, khát, nhiều chỗ đồng trống phải núp vào bụi cây để tránh sự dòm ngó của chiếc OV-10 lè vè trên đầu. Những chỗ đường khó đi, Bun Khăm không ngần ngại vung dao mở đường. Buổi trưa, lúc cả ba đói và mệt, Bun Khăm bắt được một con rắn khá lớn, anh lột da rắn rất thành thạo, đốt lửa nướng làm món ăn rất hấp dẫn. Có Bun Khăm dẫn đường, dù ngôn ngữ bất đồng, nhưng bằng những câu hỏi gồm cử chỉ ra hiệu và tên núi, tên bản làng, sông suối, Ngọc đã nắm chắc địa hình. Khi chia tay, Ngọc không biết làm thế nào để cảm ơn người bạn dẫn đường. Bắt tay Bun Khăm rất chặt, cười tỏ thiện chí mà Ngọc vẫn thấy chưa đủ. Anh đặt tay lên nơi có trái tim ở ngực, rồi làm một cử chỉ đưa tay về phía người bạn bày tỏ: từ đáy lòng, từ con tim, tôi xin cảm ơn anh. Bun Khăm nhìn anh ngơ ngác không hiểu, Ngọc đành bắt tay anh ta thêm lần nữa. Tức thật, ngôn ngữ bất đồng đã ngăn trở sự diễn đạt tình người tối thiểu. Ngọc tự đặt cho mình quyết tâm phải học tiếng Lào. Nhưng trước mắt, từ đầu tiên cần biết là hai tiếng “cảm ơn”. Ngay khi gặp Chuyên gia của Huyện, anh hỏi:
- Cảm ơn tiếng Lào nói thế nào hả anh?.
- Khóp chảy- Người chuyên gia vui vẻ trả lời.
- Tôi muốn học tiếng Lào, anh có thể chỉ cho tôi cách học được không?
- Rất sẵn lòng. Nếu cậu còn công tác lâu trên đất bạn thì rất nên học.
Anh chuyên gia lấy trong tủ một cuốn sách mỏng in bằng giấy đen “ Tự học tiếng Lào”, rồi vui vẻ:
- Tôi cho cậu cuốn sách này. Có ý thức học là tốt rồi. Tối nay tôi sẽ dạy cậu cách học. Trông chữ Lào ngoằn ngoèo như giá đỗ thế thôi, nhưng dễ học lắm, vì nó là chữ ghép vần chứ không phải học chữ nào đọc được chữ ấy như tiếng Trung Quốc.
 

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,364
Động cơ
416,007 Mã lực
Ngay tối đó, Ngọc được người Chuyên gia hướng dẫn những điều sơ đẳng nhất về chữ Lào. Ngọc vô cùng thích thú về cách cấu tạo thông minh trong chữ Lào. Các nguyên âm có những vị trí cụ thể quanh phụ âm: có thể đứng trước, đứng sau, trên, dưới, thậm chí bao xung quanh phụ âm. Với cấu tạo chặt chẽ như vậy, giữa các dấu chấm, dấu phảy, các từ có khi không cần phải tách rời vẫn có thể đọc và hiểu được. Thêm nữa, đây là ngôn ngữ đơn âm, ngữ pháp rất giống ngữ pháp Việt Nam nên dễ học. Từ hôm đó, Ngọc say sưa học nói và đọc tiếng Lào. Tối nghỉ lại bản Lào, anh lại giở sách ra học. Nếu có người dẫn đường, Ngọc lại tranh thủ hỏi họ để học. Khi cần biết một đồ vật là gì, anh chỉ đồ vật đó, rồi hỏi: “Ăn ni khoam Lào vàu neo đáy?” (Cái này tiếng Lào nói thế nào?). Sau khi nghe người bạn Lào nói, Ngọc viết thành chữ Lào rồi nhờ bạn xem và sửa giúp. Với cách học đơn giản ấy, trình độ tiếng Lào của Ngọc tiến bộ khá nhanh.

Ngày Ngọc đưa Hồng duyệt tuyến từ Na Tăng đi bản Say, đoàn đi có thêm Thục, đơn vị sẽ thi công tuyến. Đã biết nhau ở X42, trên đường đi, Ngọc và Thục đã trở nên thân thiết. Ngọc rất quý người cán bộ tiểu đoàn trẻ tuổi này. Anh không nhiều lời, gan góc trước bom đạn, rất linh hoạt khi xử lý các vấn đề phát sinh trên tuyến và có vẻ sống rất nội tâm. Hàng ngày, sau bữa cơm chiều, Ngọc thấy Thục thường muốn dành cho bản thân một không gian riêng, và hý hoáy viết nhật ký. Buổi tối, Thục thường nằm trên võng, như thả hồn về một nơi xa lắm. Một lần, Ngoc hỏi:
- Anh Thục đang nhớ nhà lắm phải không?
- Ừ! Mình nhớ một cô gái. Chỉ tiếc rằng nhớ mà không dám hy vọng nhận được một lá thư.
- Anh tài giỏi, dũng cảm và đẹp trai thế thì chắc cô gái được anh nhớ phải đặc biệt lắm?
- Không biết mọi người nhìn cô ấy thế nào, chứ với mình, cô ấy là thiên thần, là nàng tiên ở xa lắm, không biết bao giờ với tới được.
- Mối tình đơn phương hả anh? Thi vị quá! Vào chiến trường anh có kỷ vật gì để nhớ tới nàng không?
Thục mở cuốn sổ nhật ký, nhẹ nhàng cầm một mảnh giấy bằng nửa khổ cuốn vở học sinh:
- Có cái này đây.
Ngọc đón tờ giấy trong tay bạn và đọc dòng chữ ngắn ngủi trên đó:
Anh Thục ơi. Ngày mai em phải trở lại nơi thực tập từ sáng sớm rồi nên không thể nào đến tiễn anh được. Thế là lại phải chia tay anh rồi! Tạm biệt anh nhé! Cầu chúc anh lên đường luôn bình an, mạnh khoẻ, chân cứng đá mềm. Dù cho chiến tranh có khốc liệt thế nào, anh nhớ bảo trọng và nhất định phải trở về nghe anh! Em viết vội mấy dòng nhờ anh Sơn gửi tới anh. Anh Sơn vội đi gấp nên em không viết thêm được nữa. Anh thông cảm nhé! Em Khanh.
Nét chữ con gái tròn tròn, tuy viết vội nhưng vẫn rất ngay ngắn. Đủ biết đây là một cô gái nề nếp, chỉn chu.
- Chỉ có vậy thôi sao?- Ngọc hỏi.
- Có vậy thôi. Nhưng thế là đủ. Nhìn những dòng chữ này là mình như thấy hình ảnh của cô ấy.

Nhìn cái cách Thục nâng niu mảnh giấy nhỏ, Ngọc hiểu hết những gì từ đáy lòng Thục. Không hiểu cô sinh viên nọ có biết nỗi nhớ khắc khoải đến nao lòng của người sỹ quan gan góc, trận mạc này không. Những mối tình đơn phương mà người lính mang theo vào trận, lạ thay, nó làm cho họ vững vàng hơn, thâm chí có lúc nó là chỗ dựa tinh thần: Phải làm một cái gì đó để không phải xấu hổ với người con gái mình đang tôn thờ.

Sau khi chọn kho trong một hang đá bản Say, nhóm của Hồng đi tiếp vào bản Vát. Vùng đất này sao đáng yêu thế. Những lèn núi đá đứng xen giữa những cánh đồng và những cánh rừng đại ngàn bằng phẳng. Những con suối trong vắt cá bơi lội tung tăng. Chỉ tiếc một điều: Chiến tranh đã làm cho dân các bản đồng bào Lào dạt vào rừng sâu và hang đá. Không có cảnh khói lam chiều mờ ảo trên những mái nhà sàn; Không có cảnh các em nhỏ ríu rít đến trường. Bản làng giờ đây chỉ còn lại những nếp nhà hoang tàn xơ xác. Những cây me, cây mít, cây dừa cổ thụ chơ vơ giữa trời nắng chang chang. Thời gian đã trút lên mặt đất các làng bản cũ những lớp lá khô dày với mùi hăng ẩm mốc. Thỉnh thoảng, dân về bản cũ hái mấy quả trong vườn và thăm lại mảnh đất mà họ phải tạm xa vì bom đạn. Thực phẩm tổ khảo sát mang đi ăn đường gồm muối, mì chính, tép khô và vài hộp thịt. Bữa cơm nào có quả me chua nấu vơi tôm khô được coi là thịnh soạn lắm.

Một buổi chiều, họ nghỉ lại hang đá của một đơn vị công binh. Tranh thủ còn ánh sáng, Ngọc lấy số liệu ghi chép dựng thành mặt cắt dọc tuyến Anh ngắm nghía bản vẽ bằng bút chì xanh đỏ trên giấy năm hào hai . Trong tay bây giờ không có hộp bút vẽ kỹ thuật, không có giấy kẻ ô ly chuyên dụng cho thiết kế tuyến. Dụng cụ để tác nghiệp chỉ có địa bàn năm tác dụng, cái thước kẻ, và mấy cái bút chì. Mặt bàn vẽ không có, phải kê tấm bản đồ phía dưới cho phẳng. Bản vẽ này đúng là kiểu Trường Sơn. Ngọc đã làm hết sức mình trong phạm vi có thể, nhưng liệu nó có đáp ứng được cho yêu cầu thiết kế không. Ngọc ngồi tính lại khả năng của máy bơm và độ chính xác của kiểu đo đạc dân giã này. Cuối cùng anh cũng tự cảm thấy yên tâm, vì kiểu đo đạc này vẫn có thể đảm bảo, nếu thiết kế với hệ số an toàn hợp lý. Hồng xem bản vẽ, đối chiếu với bản đồ. Vùng này chắc việc đo đạc của người Pháp chưa phủ tới nên bản đồ chỉ gồm những hình sống núi, các con sông, suối lớn, các con đường mòn liên bản, liên xã, một vài bản lớn. Bản đồ không có đường đồng mức để xác định độ cao, không có những mảng màu thể hiện địa mạo hay cảnh quan trong vùng. Suy nghĩ một lát, Hồng nói:
- Trông du kích quá, nhưng hoàn cảnh của ta bây giờ chẳng làm gì hơn được.
Trắc dọc tuyến “trông du kích” ấy được dùng cho thiết kế vị trí đặt trạm bơm và lập kế hoạch thi công tuyến. Ngọc không ngờ rằng kiểu đo đạc và vẽ trắc dọc tuyến du kích ấy sau này không ít lần phải áp dụng trên những đoạn tuyến đường ống khó khăn của Trường Sơn, và cho đến hết chiến tranh, không có lần nào vì nó mà dẫn đến những hậu quả kỹ thuật đáng tiếc. Vào đến đây đã khá sâu, nên việc tiếp tế thực phẩm cho bộ đội rất khó khăn. Tuy vậy, sống giữa rừng già, khi không phải ra mặt đường, bộ đội có thể vào rừng săn thú, ra suối bắt cá để cải thiện. Đêm ấy, khi mọi người vừa lên võng thì có tiếng gọi nhau í ới ngoài hang. Té ra một người đã săn được con hổ nặng hơn năm mươi cân. Đây là lần đầu tiên Ngọc được biết thế nào là thịt hổ. Là con hổ non nên thịt của nó mềm và ngậy. Bữa ăn đêm có lẽ không bao giờ anh quên được, nhất là sau hàng tuần lễ liên tục ăn canh me nấu với tôm khô hoặc rau tàu bay luộc chấm nước muối với một chút mì chính.



Vậy là đã nửa tháng trôi qua kể từ trận B52 đầu tiên đánh vào tuyến ống. Tuyến cứ nối lại đứt. Xăng vẫn chưa bơm được. Những tháng đầu mùa khô 1968-1969, không lực Hoa Kỳ đánh phá quá khốc liệt. Có lẽ cuộc Tổng tiến công Mậu Thân đã làm cho người Mỹ hiểu rất rõ rằng muốn chặn bước tiến của Việt Cộng thì chặn đường vận tải chiến lược có vị trí quan trọng hàng đầu. Hàng trăm lượt B52, hàng ngàn phi vụ oanh tạc lên tuyến đường Trường Sơn đã gây vô vàn khó khăn cho bộ đội Đoàn 559. Qua hai tháng mùa khô, hàng trăm người hy sinh, trong đó có nhiều người là chỉ huy ưu tú. Để có thể vượt qua sự ngăn chặn ác liệt ấy, Bộ tư lệnh 559 tiến hành các đợt Tổng công kích. Tổng công kích thực chất là những chiến dịch vận tải của bộ đội Trường Sơn. Đó không phải kiểu như phát động thi đua, mà đó là một hình thức chiến thuật vận tải để khắc chế bớt sự đánh phá của máy bay địch. Trong mỗi đợt Tổng công kích, xe sẽ chạy trên mọi cung đường khiến cho không lực địch phải căng ra. Nhờ đó, cường độ đánh phá tại các trọng điểm giảm bơt. Để hỗ trợ cho các đoàn xe, lực lượng pháo phòng không cố gắng nổ súng hất địch lên cao khiến cho bom đạn đánh vào đường, vào xe không còn chính xác nữa. Tổng công kích là một chiến thuật hiệu quả. Trong mỗi đợt như vậy, Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên bao giờ cũng trực tiếp chỉ huy, và khi cần, ông có mặt ở nơi nóng bỏng nhất.
 

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,364
Động cơ
416,007 Mã lực
Có thể nói kết quả vận tải mùa khô đại đa số là nhờ ở các đợt Tổng công kích. Tuy nhiên, để xe có thể chạy được, cần xăng dầu. Một khi xăng dầu không chuyển vào được thì xe chỉ có thể nằm chết dí trong các xó rừng. Mùa khô này Đoàn 559 đã qua Tổng công kích đợt một. May mà cuối chiến tranh phá hoại miền Bắc, tuyến X42 đã tránh được một số trọng điểm, để ô tô chuyển được vào 559 hơn ba trăm tấn xăng. Nhưng như thế là quá ít ỏi. Thiếu nhiên liệu cộng với sự đánh phá ác liệt khiến cho Tổng công kích đợt 1 chỉ chuyển được 30% kế hoạch mùa khô. 70% trông vào hơn hai tháng còn lại. Kế hoạch Tổng công kích đợt hai đang được triển khai, chỉ còn chờ xăng.


Ngót một tháng rồi, đã tốn bao công sức và xương máu mà tuyến ống qua trọng điểm 050 không lúc nào thông được lấy nửa ngày để có thể bơm xăng. Lê Trọng thấy lòng như lửa đốt. Ngày ngày, Chủ nhiệm Tổng Cục gọi điện vào giục giã mà tình hình không tiến triển được chút nào. Nếu từ nay đến tết Nguyên Đán không bơm được xăng vào Na Tăng thì 559 sẽ không có xăng vận chuyển, và chiến trường sẽ không được tiếp tế vũ khí, quân nhu. Lê Trọng bỗng cảm thấy trách nhiệm của mình nặng nề quá. Ông dán mắt nhìn lên bản đồ tuyến. Cả vùng này là núi đá, không có đường bình độ nên không thể dựa vào đó mà đưa ra ý định tìm hướng tuyến tránh. Phải đích thân đi thực địa thôi. Gấp quá rồi.

Phải mất hai ngày, Lê Trọng cùng hai kỹ sư Danh và Quang mới tìm được một tuyến tránh khả dĩ. Tuyến vòng sang phía đông, cách đường ô tô chừng một cây số. Tuy lên cao hơn, nhưng kín đáo. Đường không quá khó đi, chỉ vài ba hố bom cũ. Điều này chứng tỏ nếu giữ được bí mật với địch mặt đất và ngụy trang tốt thì có thể giữ được an toàn cho tuyến. Trọng đề nghị lực lượng bộ binh của 559 truy quét phỉ và thám báo mặt đất, đồng thời nhắc các đơn vị chú ý tuần tra bảo vệ tuyến.

Ngay sau khi vạch được tuyến tránh, Nhóm kỹ sư gồm Ka, Quang và Danh tính toán chi tiết từng đoạn đường vác ống, cách thức lắp ống vượt qua các vách đá, biện pháp ngụy trang cho tuyến, những điểm dấu ống dự phòng để thay thế khi tuyến bị bom đánh. Các cán bộ tác chiến cùng họ đưa ra kế hoạch nghi trang. Phải làm cho địch trên trời nghĩ rằng bộ đội đường ống vẫn đang loay hoay ở khu vực gần đường ô tô trọng điểm 050. Kế hoạch tuần tra, bảo vệ tuyến tránh cũng được vạch ra khá chi tiết. Mỗi đơn vị có trách nhiệm thường xuyên lùng sục khu vực cách tuyến tránh vài trăm mét. Nhìn lại, sau nửa tháng bị đánh phá liên tục, số ống trên đoạn trọng điểm bị tổn thất quá nửa. Những ống tốt phải tháo ra đưa lên tuyến tránh. Đồng thời phải xin trên chuyển thêm ống vào. Các kỹ sư phải chia nhau chỉ đạo kỹ thuật ở các vị trí khác nhau. Ka phân công Quang ra trọng điểm chỉ đạo tháo ống cũ, chuyển lên tuyến tránh. Còn Ka và Danh sẽ chỉ đạo thi công. Ca lý giải: Việc tháo ống phải thường xuyên có mặt trên trọng điểm nên phải cử người trẻ tuổi nhanh nhẹn. Tuy nhiên Danh là kỹ sư nắm chắc tuyến thì phải ở lại để hướng dẫn thi công. Nghe thì thấy hợp lý, nhưng Quang thừa hiểu đó là lập luận tốt nhất để Ka không phải ra trọng điểm. Chỉ còn chưa đầy một tháng nữa là đến tết , đó là thời hạn muộn nhất phải có xăng ở kho Na Tăng. Việc thi công tuyến tránh phải chạy đua từng giờ, từng ngày. Để giữ bí mật tuyến tránh, ống chuyển lên tuyến phải vác từ xa. Những chỗ bom phát quang thì dùng chính các cành khô, cây đổ ngụy trang đường vác ống. Trên tuyến cũ, các ống thủng, hỏng sẽ để lại nghi trang. Chúng được nối với nhau nửa kín, nửa hở. Nếu bom đánh, hôm sau lại làm như tuyến đã được khắc phục. Mặc dù ở tuyến cũ, khi thi công, đường được sửa sang để người vác ống có thể đi được, nhưng sau hàng chục trận B52, bổ nhào, không còn có thể nhận ra lối đi nữa. Đá bị cày xới, đập vỡ, tả tơi thành lớp bụi dày. Cây bị băm, bị chặt ngổn ngang khiến người đi không đã khó, huống chi vác chiếc ống dài sáu mét để chuyển lên tuyến tránh.

Hang Giơi là nơi tuyến cũ rẽ sang tuyến mới. Những tán cây cổ thụ che chở cho ô tô vào tận cửa hang. Hang trở thành nơi cất dấu vật tư, bãi trước hang trở thành chỗ sửa xe. Gần đó là một kho xăng do một tổ nữ Thanh niên Xung phong bảo vệ. Những phuy xăng quý giá được để trong hầm có nắp hoặc không nắp rải rác dưới tán rừng. Chính nhờ vị trí thuận lợi mà xe chở ống và phụ kiện vào được tận nơi để từ đây có thể vác ống lên tuyến mới. Một buổi sáng rực nắng, nhóm kỹ sư Ka, Danh, Quang cùng đại đội trưởng Thọ đang chỉ huy chuyển ống lên tuyến mới lắp ráp thì bỗng chiếc tàu càng bắn một quả đạn khói xuống khu vực kho xăng, và ngay sau đó là những trận bom rung chuyển: bom sát thương, bom phát quang, bom bi, rốc két. Những phuy xăng trúng bom nổ tung, lửa bốc ngùn ngụt. Nhữn thân cây cổ thụ bị bom phạt ngang đổ rào rào. Khu rừng như bị nung nóng lên hàng trăm độ. Bụi và khói bom nồng nặc, tức thở. Dứt tiếng bom, họ nghe bốn phát súng báo hiệu có thương vong. Mọi người từ trong hang vọt ra, lao về phía đó. Họ bắt đầu nghe tiếng kêu cứu của các cô gái. Trong vùng lửa cháy ngùn ngụt, các cô gái đã chết hoặc bị thương, bị bỏng nằm ngổn ngang. Nhiều cô tóc cháy trụi, vết bỏng phồng rộp toàn thân. Có người quần áo vẫn còn bốc lửa. Chiếc tàu càng có vẻ như chưa muốn rời khỏi mục tiêu nên mọi người nhanh chóng chuyển các cô vào hang sơ cứu. Những cô gái hôm qua còn cười đùa cùng lính công binh, đường ống, mà giờ, một số đã mãi mãi nằm lại. Những cô gái được đưa vào hang người thì phồng rộp đen sạm vì bỏng, người thì bê bết máu. Một vài cô gái gào khóc không phải vì vết thương đau đớn, mà họ nhận ra rằng từ đây nước da mịn màng của họ không còn nữa, rồi đây những vết bỏng sẽ để lại trên mặt, trên cơ thể họ những vết sẹo khủng khiếp. Máu, mùi khét của thịt da, tiếng rên la, khói bom nồng nặc phả vào hang, tạo thành một không khí đặc quánh, nặng nề, đầy tử khí. Chính từ hôm ấy, khi lên tuyến, Ka thường tìm cớ tránh xa khu vực Hang Giơi.



Còn mười ngày nữa là đến tết Kỷ Dậu. Lê Trọng không chỉ ngồi ở Sở chỉ huy đôn đốc xe từ ngoài vào, tổ chức hiệp đồng giữa các đơn vị xe, công binh đường ống để đẩy nhanh tiến độ thi công tuyến tránh, mà khi xét thấy cần, ông chống gậy leo ngược dốc đá kiểm tra xử lý các tình huống phát sinh. Ông đã nhiều lần họp các cơ quan, đơn vị chỉ thị về công tác hiệp đồng, về việc đảm bảo ăn uống cho bộ đội tham gia thi công và phục vụ thi công. Cơ quan Chính trị đã cử cán bộ đến những chỗ ác liệt nhất đề cổ vũ tinh thần bộ đội và làm tốt chính sách thương binh tử sỹ. Bộ máy của công trường đã vận hành hết công suất, vậy mà ông vẫn thấy tiến độ chậm rì rì. Ngọn bút chì trong tay ông hôm nay lại kéo dài thêm một đoạn màu đỏ trên tuyến tránh. Ông nhẩm tính chỉ dăm ngày nữa thông tuyến, mất nửa ngày thử rửa là có thể đưa xăng vào Na Tăng. Đó là nếu mọi việc trôi chảy. Lần trước đã chạm tay vào thắng lợi, vậy mà chỉ trong chốc lát, bom đạn hủy diệt đã chặn đứng bước đi của bộ đội đường ống, để rồi gần như phải làm lại từ đầu. Một tháng nay quân của ông phải quần nhau với bom đạn, mà xăng vẫn chưa tới đích. Trên tuyến 559 này khó mà nói trước được điều gì. Bất giác, ông cảm thấy lòng trĩu nặng. Nếu lần này xăng vẫn không vào được kho Na Tăng thìchẳng thể nào lường hết hậu quả? Phải tuyệt đối giữ bí mật với địch mặt đất mới hy vọng đưa được xăng vào Na Tăng. Phải nhắc kỹ các đơn vị về việc này. Giữa lúc ông đang nhẩm tính cho hết các việc cần làm thì chuông điện thoại đổ hồi. Ông nhấc máy. Chỉ mới kịp: “Alô! Tôi, Lê Trọng nghe đây”, thì đã thấy đầu dây bên kia như có lửa dội vào:
- Tôi Thiện đây. Anh có biết hôm nay là ngày bao nhiêu rồi không? 559 đang kêu trời vì không có xăng, mà Tổng công kích thì rất khẩn trương rồi.
- Báo cáo chủ nhiệm, chúng tôi đang hết sức cố gắng…
- Tôi không đủ kiên nhẫn nghe anh báo cáo nữa rồi. Ra Tiền phương Tổng Cục gặp tôi ngay!
Cái điều ông linh cảm đã tới. Ông khẩn trương xếp sắp đầy đủ tài liệu, rồi lên xe.
 

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,364
Động cơ
416,007 Mã lực
Từ Sở chỉ huy công trường đến Tiền phương Tổng Cục phải mất cả ngày đường. Rất may chỉ cần vượt qua Cổng Trời là không còn bom đạn nữa, nên chiếc xe có thể chồm qua các ổ voi , ổ gà để đi một cách nhanh nhất. Lê Trọng nghĩ rất lung. Làm đường ống dẫn dầu trong điều kiện địch đánh phá ác liệt chắc chắn là gian truân. Biết điều đó nên Chủ nhiệm thường gọi điện động viên khích lệ ông. Thường thì khi nói chuyên, Chủ nhiệm gọi Lê Trọng là ông hoặc cậu. Khi đã gọi là anh thì chắc cơn thịnh nộ đang ngùn ngụt trong lòng Chủ nhiệm đây. Cơn thịnh nộ của Chủ nhiệm Đinh Đức Thiện thì chẳng ai lạ nữa. Thậm chí nó được thêu dệt nên như giai thoại. Lần này cơn thịnh nộ sẽ trút lên đầu mình. Lê Trọng rất hiểu: Nếu xăng không vào được Na Tăng thì với công trường 81, chỉ là không hoàn thành nhiệm vụ. Nhưng đối với Chủ nhiệm, điều đó có nghĩa là một ý đồ chiến lược không thể triển khai. Nó ảnh hưởng đến đại cục. Nghĩ vậy, Lê Trọng hoàn toàn cảm thông với Chủ nhiệm và sẵn sàng đón nhận mọi sự trách móc nặng nề.

Người thư ký đón Lê Trọng ở cửa phòng làm việc, rót nước mời:
- Anh đi đường xa về, ngồi nghỉ một lát cho bình tĩnh lại rồi hãy vào gặp Chủ nhiệm. Chắc nghe qua điện thoại, anh hiểu cụ đang sốt ruột như thế nào.
Lê Trọng cảm ơn viên thư ký về sự cảm thông, chia sẻ. Ông nhâm nhi tách trà nóng và cố gắng bình tâm trở lại. Ở công trường thì căng thẳng vì những trận đánh phá ác liệt trên tuyến, giờ lại ngồi đây chuẩn bị chịu đựng sức nóng từ cơn thịnh nộ của cấp trên. Chiến trường là vậy, cấp dưới là vậy.
Viên Thư ký từ phòng làm việc của Chủ nhiệm bước ra, nói với Lê Trọng:
- Mời anh vào. Chúc anh mọi việc tốt đẹp.
Lê Trọng đẩy cửa bước vào:
- Báo cáo Chủ nhiệm. Tôi, Lê Trọng có mặt.
Chủ nhiệm đang chăm chú nhìn vào tấm bản đồ tuyến vận tải chiến lược treo trên tường, quay lại:
- Ngồi xuống đi, và đọc bức điện này- Ông đẩy đến trước mặt Lê Trọng một bức điện cơ yếu- Đọc xong, anh hãy trả lời tôi: Anh có làm được không?
Lê Trọng lướt nhanh bức điện: “Chỉ còn mười ngày nữa là tết. Đây là cơ hội tốt nhất chỉ có một lần trong năm. Vậy mà 559 vẫn chưa nhận được xăng từ đường ống. Không có xăng, kế hoạch vận chuyển mùa khô này không thể thực hiện được. Nguyên”. Không đọc bức điện này thì Lê Trọng đã hiểu hết: nếu tết không đưa xăng vào được Na Tăng sẽ nghiêm trọng đến mức nào. Thường thì đã có một quy luật bất thành văn: ngày mồng một tết, Mỹ sẽ ngừng ném bom. Đó là cơ hội vô cùng hiếm hoi để các xe vượt trọng điểm, thậm chí bộ đội có thể tranh thủ đi ô tô để vào chiến trường. Một ngày hành quân ô tô bằng mười ngày đi đường giao liên, lại giảm được tương vong. Tất cả những việc cần làm, Lê Trọng đã cố gắng. Có thể đâu đó Chủ nhiệm cách chức cán bộ tại chỗ. Nhưng những người đó đều là những người vô trách nhiệm hoặc nhát gan để hỏng việc chung. Còn ông và tập thể Công trường 81 đã quần nhau với bom đạn địch suốt một tháng nay, đã tìm mọi sáng kiến. Nói chung đã làm hết sức mình, nên ông không ân hận về những việc đã làm. Ông đứng thẳng dậy, giở cuốn sổ tay:
- Xin phép Chủ nhiệm cho tôi báo cáo.
- Thôi thôi, bỏ lễ nghi đi. ông ngồi xuống và nói cho tôi nghe xem tình hình thế nào.
Lê Trọng hiểu sự sốt ruột của Chủ nhiệm. Nhưng nếu không làm chậm nhịp độ của cuộc trao đổi thì sự khẩn trương có thể khiến câu chuyện trở nên căng thẳng hơn. Bởi vậy, ông chậm rãi:
- Báo cáo, cách đây một tháng ta đã bơm nước đến Na Tăng và chuẩn bị bơm Xăng. Nhưng chính từ hôm đó, B52 và máy bay địch chà đi xát lại trọng điểm 050. Cả đường ô tô và đường ống đều bị thiệt hại nặng nề. Bộ đội đường ống đã kiên quyết bám tuyến, đich đánh, ta lại nối. Nhưng nhịp độ đánh phá của địch ngày càng dày, nên thời gian thông tuyến không đủ cho ta bơm xăng. Một tháng qua, ống tổn thất nhiều, hàng chục chiến sỹ hy sinh. Theo thông báo của 559 thì tuyến đã bị phỉ phát hiện , địch quyết tâm ngăn chặn. Trước tình hình đó, Công trường đã phối hợp với 559 truy quét địch mặt đất, tìm một tuyến tránh kín đáo, thoát ly xa đường ô tô. Đồng thời nghi binh để địch tưởng ta vẫn dựa vào tuyến cũ. Tuyến mới vất vả, nhưng bất ngờ. Cho đến hôm nay chưa có triệu chứng bị lộ. Nếu mọi việc như dự kiến thì tôi bảo đảm với Chủ nhiệm xăng sẽ đến Na Tăng trước Giao thừa.
- Cậu có bảo đảm tuyến chưa bị lộ không?- Chủ nhiệm đã thay đổi cách xưng hô, Những nếp hằn căng thẳng trên mặt như dãn ra chút ít- Thằng Mỹ gian xảo lắm. Như lần trước ấy, nó chờ cậu lắp xong tuyến mới đánh. Làm vậy cậu sẽ thiệt hại cả người, cả ống mà xăng thì không thể bơm được.

- Tôi nghĩ ta vẫn đang giữ được bí mật. Lần trước chưa có kinh nghiệm nên chỉ lo ngụy trang che mắt máy bay. Không ngờ bọn địch mặt đất đã đến tận tuyến mình. Bây giờ ta truy quét dữ, khu vực này lại rất nhiều bộ đội, địch không giám đến gần. Thêm vào đó, ta dùng những ống hỏng để nghi binh. Nếu chỉ quan sát từ trên đỉnh núi hay ảnh máy bay thì chắc chúng đinh ninh là ta vẫn loay hoay ở tuyến cũ.
- Nhưng tuyến cheo leo thế, thi công có kịp không?
- Báo cáo, Công trường phát động một đợt đột kích, quán triệt đến tận chiến sỹ yêu cầu phải làm nhanh và giữ bí mật tuyến. Quân mình nhỏ con vậy. mà khi hăng lên khối anh vác một lúc hai ống trèo ngược dốc.
- Tôi hỏi lại: Có chắc thắng không?
- Chúng tôi đã làm hết sức mình. Tôi chỉ có thể trả lời thủ trưởng: Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên.
- Cậu lại lo mấy thằng B52, thần sấm con ma trên trời sao?- Giọng Chủ nhiệm bắt đầu pha chút đùa vui.
- Bọn ấy thì không sợ, mà chỉ sợ có sự cố nào mình chưa lường hết.
- Không sao. Đã quyết tâm thế, cẩn thận thế thì nhất định thành công. Bây giờ Công trường cần gì nữa để đẩy nhanh tiến độ công việc?
- Tuyến phức tạp, cần nhiều phụ kiện. Bộ đội vác ống cần ăn no hơn. Tết sắp đến, cần động viên anh em.
- Tốt. Tôi sẽ nói Cục Xăng dầu chuyển ngay những thứ cậu cần.
Rồi ông nhấc máy gọi. Chỉ vài phút sau, cán bộ Tiền phương Cục Quân nhu đẩy cửa vào.
- Đây là anh Lê Trọng, Chỉ huy trưởng công trường 81. Anh ấy sẽ đề xuất một số nhu cầu cho bộ đội, kể cả hàng tết. Cậu đáp ứng đầy đủ nhu cầu của anh ấy.
Người cán bộ Quân nhu phác một cử chỉ đề nghị được có ý kiến, nhưng Chủ nhiệm gạt đi:
- Tôi hiểu rồi, không đúng tuyến, sợ trùng lĩnh chứ gì? Đây là lệnh, cứ thực hiện đi. Chấp hành không đúng là lỗi rất nặng đấy.
Chủ nhiệm quay sang nắm tay Lê Trọng rất chặt:
- Cố gắng nhé. Tổng cục trông cả vào các cậu đấy. Cho mình gửi lời hỏi thăm chúc tết anh em, và nói với họ là Chủ nhiệm Đinh Đức Thiện đặt vào Công trường 81 niềm tin, và chờ tin thắng lợi.
Bước ra khỏi phòng Chủ nhiệm, Lê Trọng hít một hơi dài khoan khoái. Anh thư ký bắt tay, chúc mừng ông như chúc một người vừa qua một kỳ thi khó.

Về đến Chỉ huy sở, Lê Trọng triệu tập các đơn vị thi công, xe chuyển ống, công binh, phổ biến cho mọi người nghe tình hình lên gặp Chủ nhiệm Tổng cục, chuyển lời chúc tết, và lời dăn của Chủ nhiệm đến công trường. Ông cũng cho chuyển ngay thực phẩm tăng cường và hàng tết đến tận các đại đội. Câu chuyện Lê Trọng kể và những món quà Chủ nhiệm gửi xuống làm cho công trường háo hức hẳn lên. Bộ đội làm suốt đêm, nhiều sáng kiến nẩy nở. nhờ đó chỉ vài ngày sau là thông tuyến tránh. Thêm một ngày thử rửa đoạn tuyến mới, và sau đó xăng bắt đầu được bơm lên tuyến.

Để cẩn thận, trước khi vận hành, Lê Trọng yêu cầu tiểu đoàn trực tiếp kiểm tra từng cửa van trên tuyến, hệ thống kho bể, vị trí để ống dự phòng và phương án xử lý khi tuyến bị bom đánh. Một cuộc họp ngắn gồm chỉ huy tiểu đoàn 96, các Ban Tham mưu, chính trị, hậu cần, kỹ thuật của công trường để kiểm tra lại việc chuẩn bị mọi mặt cho vận hành. Quang gọi điện kiểm tra lại tình hình chuẩn bị trên tuyến. Tiếng báo cáo tên người trực ở các trạm bơm, các cửa van vang lên trong máy như điểm danh khi tập hợp. Quang lần lượt ghi vào sổ theo dõi vận hành. Sau khi ghi chép đầy đủ tình hình chuẩn bị ở kho Na Tăng, Quang báo cáo:
- Toàn tuyến đã sẵn sàng. Đề nghị Thủ trưởng phát lệnh vận hành.
- Toàn tuyến chú ý. Đợt vận hành xăng vượt Trường Sơn bắt đầu.
Trên đường dây điện thoại vang lên tiếng báo cáo: Trạm bơm T1 đã nổ máy… Trạm bơm T2 đã nổ máy… Xăng đã qua cửa số 1…Cửa số 2 đã có tín hiệu xăng đi qua…
Đó là ngày ba mươi tết Kỷ Dậu. Trên đỉnh Trường Sơn, trời se lạnh. Lê Trọng áp tai nghe từng tín hiệu báo cáo từ các cửa van. Sở chỉ huy vận hành yên tĩnh, chỉ nghe tiếng Quang chốc chốc nhắc lại các số đo áp suất và ghi vào sổ vận hành. Cứ mỗi khi nghe báo cáo xăng đã đi qua một cửa van, lòng Lê Trọng lại nhẹ đi một chút. Nhưng ông vẫn vô cùng lo lắng. Liệu rồi lần này có như lần trước? Thủ đoạn đánh phá của địch thì khó mà lường được. Ông biết ở kho Na Tăng, hàng chục xe đang chờ xăng đường ống để chuyển về cho các Binh trạm phục vụ Tổng công kích. Ông biết ở Sở chỉ huy Tiền phương, Chủ nhiệm Tổng cục cũng lo lắng chẳng kém gì mình. Đến giờ phút này, kho Na Tăng vẫn giữ được bí mật, và nếu đợt vận hành này thành công, coi như hàng trăm xe stec đã vượt qua được một số trọng điểm ác liệt, và dòng xăng quý giá là một nhân tố cực kỳ quan trọng góp phần làm nên thắng lợi của Tổng công kích mùa khô này. Mới qua ba tháng mà bao nhiêu xương máu đã đổ xuống. Những xử lý về chiến thuật nghi trang, ngụy trang, đã cho bộ đội đường ống những kinh nghiệm quý giá bước đầu. Ông hiểu rất rõ rằng cuộc đấu trí giữa bộ đội đường ống và không lực Hoa Kỳ sẽ còn nhiều điều chưa thể lường hết được
 

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,364
Động cơ
416,007 Mã lực
Xăng đã vào đến Na Tăng- Tiếng báo cáo từ máy trực ở kho vang lên. Tiếng reo hò như vỡ òa từ các máy điện thoại trên tuyến và ở Sở chỉ huy vận hành. “Thắng lợi rồi, thắng lợi rồi!”. Những người trong sở chỉ huy nhảy lên, ôm lấy nhau xúc động. Lê Trọng bỗng cảm thấy trong lòng rưng rưng. Sự cố gắng của toàn công trường đã được đền đáp. Nhưng rồi trong giây lát, ông nhận ra rằng: Xăng chưa đầy kho thì coi như công trường vẫn chưa hoàn thành nhiệm vụ. Lần trước bắt đầu bơm xăng thì địch đánh. Lần này xăng đã đến Kho, liệu rồi có điều gì bất trắc nữa không: Mưa bất chợt ở sườn đông Trường Sơn, bom ở Tây Trường Sơn? Một khối đá bị bom đánh long chân bất chợt lăn nghiến đứt tuyến? Thậm chí là một sự bất cẩn dẫn đế sự cố?...Có lẽ vì đứng vào một vị trí quá quan trọng cho toàn cục của công tác vận tải chiến lược ở thời điểm này, nên chỉ khi nào đã nắm được thắng lợi trong tay ông mới thực sự yên tâm. Ở tuyến Trường Sơn ác liệt này, mọi dự định đều phải có một góc cần thiết cho sự bất trắc, mà ông đã diễn giải cho Chủ nhiệm: Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Tiếng chúc mừng nhau râm ran trên tuyến thông tin vận hành. Nghĩ rằng đó cũng như một cách xả stress cho bộ đội sau nhiều ngày căng thẳng, nên Lê Trọng để yên cho những tiếng râm ran ấy kéo dài ít phút. Khi tiếng râm ran thưa dần, Lê Trọng nói lên đường dây: “các đồng chí chú ý, xăng đến Na Tăng mới là thắng lợi bước đầu. Toàn tuyến cần tập trung cao hơn nữa để đảm bảo xăng đầy kho đáp ứng yêu cầu của Bộ tư lệnh 559!”. Đầu kho Na Tăng có tiếng báo cáo: “ Đồng chí phó Tư lệnh Đoàn 559 đề nghị được nói chuyện với Chỉ huy trưởng Công trường”. Lê Trọng đáp: “Tôi Lê Trọng nghe đây” Phía đầu giây bên kia, một giọng Bình Định trầm ấm:
- Tôi là Nguyễn Long, Phó Tư lệnh Đoàn 559. Tôi đang trực ở kho Na Tăng để chờ xăng của các anh. Xăng đã vào kho Na Tăng rồi. Thật kỳ diệu quá, đường ống là dòng xăng ngầm vượt núi. Vậy là chúng tôi có xăng cho Tổng công kích rồi. Cảm ơn các anh rất nhiều.
- Đó là nhiệm vụ của chúng tôi anh ạ. Chúng tôi sẽ cố gắng đáp ứng kịp xăng cho các anh.
Đúng vào phút giao thừa, từ kho Na Tăng báo cáo xăng đã đầy kho. Lê Trọng ra lệnh tắt máy ngừng vận hành, đóng các van, kiểm tra lại tuyến và cho bộ đội nghỉ để đón giao thừa. Ông đứng dậy, vươn vai, hít một hơi thật sâu. Lần đầu tiên từ hôm gặp Chủ nhiệm về, hôm nay ông mới cảm thấy trút được gánh nặng. Ông nhấc máy điện thoại gọi về tiền phương:
- Nhân dịp năm mới, thay mặt cán bộ chiến sỹ Công trường 81, chúc sức khỏe thủ trưởng. Chúc Thủ trưởng luôn khỏe để lãnh đạo công tác hậu cần toàn quân. Tôi xin báo cáo thủ trưởng tin mừng: xăng đã đầy kho Na Tăng. Hiện nay đang tổ chức cấp phát cho Đoàn 559.
Bên kia đầu dây, giọng Chủ nhiệm như reo lên:
- Tốt quá! Thế là năm nay ăn tết ngon rồi. Mẹ thằng Mỹ, lần này nó lại thua mình một keo nữa rồi. Cậu nói với anh em: Chủ nhiệm biểu dương toàn công trường 81 nhé. Tôi sẽ nói cơ quan chính trị có khen thưởng thật thích đáng.
- Cảm ơn Thủ trưởng, đơn vị sẽ hết sức cố gắng.
- Tôi dặn điều này: Lần này vẫn may mắn vì mình vận hành trong ngày Mỹ nó ngừng ném bom. Sang mồng hai tết trở đi, các cậu mới hiểu nó biết mình như thế nào, và chắc chắn khi biết xăng đã bơm theo đường ống vượt qua đỉnh Trường Sơn thì nó cay lắm, và các cậu sẽ rất vất vả đấy. Nhắc bộ đội tuyệt đối không được chủ quan. Khi thắng lợi mà chủ quan thì khi ác liệt dễ giao động lắm. Nhớ nhé. Một lần nữa cho tôi gửi lời chúc tết đến anh em công trường 81.

Bây giờ Lê Trọng mới có thời gian ngắm cành hoa rừng trắng muốt trên bàn. Hôm trước bắt gặp một cây hoa này giữa rừng, Lê Trọng đã thốt lên: “màu trắng tinh khiết quá!”. Ông đã bẻ một nhành hoa cắm lên ngôi mộ của một người lính vừa hy sinh khi đang lắp tuyến ống nghi binh. Cậu ấy mới mười tám tuổi. Còn trẻ quá. Người con trai tuổi này, mấy ai đã biết mùi vị tình yêu là gì. Không biết rồi đây, dọc tuyến đường ống của ông sẽ bao nhiêu ngôi mộ như thế này nữa. Bất giác ông nhớ đến mấy câu thơ trong bài Tây Tiến: Rải rác biên cương mồ viễn xứ. Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh. Áo bào thay chiếu , anh về đất… Ở chiến trường ác liệt này, mọi niềm vui đều phải trả giá.
Lễ đón giao thừa được tổ chức ngay trong chỉ huy sở. Những món ăn do hậu cần chuẩn bị sẵn nhanh chóng được dọn lên. Lê Trọng nâng chén rượu lên cao: “Chúc sức khỏe và sự thắng lợi của anh em mình, chúc cho một năm mới mọi sự tốt đẹp”. Cả sở chỉ huy râm ran chuyện trò đến gần sáng. Có lẽ trong đời binh nghiệp, đây là một đêm giao thừa đáng nhớ nhất của Lê Trọng.
Ngay khi xăng tới kho Na Tăng, việc cấp phát đã được tiến hành rất khẩn trương. Các xe stec và xe chở phuy nhận hàng, tỏa về các đơn vị vận tải tra nạp cho xe để kịp chạy trong ngày mồng một tết. Lê Trọng kiểm tra lượng tồn ở kho Na Tăng và cho bơm tiếp. Yêu cầu đến tối mồng một, xăng phải bù đầy các bể chứa trong kho, đề phòng ngày hôm sau tuyến bị đánh đứt. Ông cũng không quên viết một bức điện đọc trên đường dây vận hành:
Gửi tiểu đoàn 96 và các đại đội. Đêm giao thừa xăng đã đầy kho Na Tăng. Đó là thắng lợi của toàn công trường. Nhưng đó mới chỉ là thắng lợi bước đầu. Sau ngày nghỉ tết, địch sẽ đánh phá rất ác liệt. Các đơn vị cần làm thật tốt công tác ngụy trang, nghi binh với máy bay, và truy quét địch mặt đất, hoàn chỉnh các vị trí để ống dự phòng, củng cố hầm trú ẩn trên tuyến, chuẩn bị tốt kế hoạch cứu tuyến và cứu chữa thương binh khi bị địch đánh.
Lê Trọng


Bàn giao hướng tuyến cho tiểu đoàn 96 xong. Ngọc được lệnh về binh trạm 231 nhận nhiệm vụ mới. Đây là binh trạm phụ trách đoạn tuyến giáp biên, nên trên địa bàn binh trạm, có những trọng điểm rất ác liệt, đặc biệt là trọng điểm Seng Phan, nơi vô cùng hiểm yếu vì tuyến đường ô tô đi men theo sông giữa hai lèn đá. Gần như suốt ngày không bao giờ ngớt tiếng bom trên trọng điểm. Buổi tối, nằm trong hang đá của Binh trạm bộ, cũng cảm nhận được những loạt bom nối nhau như tiếng sấm rền. Một anh bạn tên Nhương nằm cùng hang kể rằng ở Seng Phan cứ một tháng lại mất đi quân số của một đại đội. Từ khi rời X42 đến nay, gần như cứ lặp đi lặp lại: ngày đi khảo sát, đêm mắc võng ngủ giữa rừng hoặc sang hơn thì được nghỉ lại ở một bản người Lào sơ tán. Hôm nay ngủ ở cơ quan Binh trạm bộ nên cảm thấy cuộc sống quy củ hẳn ra: Có giường tủ, bàn làm việc, có chỗ chơi bóng bàn…. Trên bàn có mấy tờ báo, Ngọc đọc ngốn ngấu. Trong những tờ báo ấy, có một bài thơ của nữ thi sỹ Anh Thơ, sao xúc động quá. Bài thơ tả cảnh Hà Nội chuyển sang mùa se lạnh, dáng khăn tơ của các cô gái phất phơ bên cây liễu ven hồ , những gánh hoa cúc, những lồ cam, những nải chuối thơm lừng trứng cuốc từ ngoại thành đưa vào chợ phố, và đặc biệt những câu thơ gợi lại cuộc sống gia đình:
Mâm cơm nhà ai có mùi dưa nấu cá
Có rau diếp hành hoa, răm mùi thái nhỏ
Ôi mâm cơm nóng sốt gia đình
Em từng nhớ thương giữa bước trường chinh
 

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,364
Động cơ
416,007 Mã lực
Đọc bốn câu thơ ấy, Ngọc thấy nhớ nhà đến nao lòng. Chỉ những người lính xa nhà, cả năm trời không được nghe tiếng trẻ khóc, không được nghe tiếng ru con trong xóm nhỏ, Chỉ những người lính lúc nào cũng kề với cái chết mới thấy quý những bữa cơm gia đình đạm bạc. Nhớ lắm: Từ mảng tường vỡ vương dây mướp điểm những bông hoa vàng, một ngõ nhỏ đầy tiếng trẻ nô đùa khi chiều xuống, một làn gió cuốn lá xà cừ xào xạc lìa cành phủ kín lối đi…Ngọc muốn xua đi, mà nỗi nhớ cứ dâng đầy mãi trong lòng. Anh mang cuốn sách tiếng Lào ra bờ suối, tranh thủ chút ánh sáng chiều còn lại, học thêm mấy từ. Một người cán bộ đứng tuổi đi qua, thấy Ngọc đang hý hoáy tập viết, ông hỏi:
- Cậu làm gì vậy?
Ngọc ngẩng lên và nhận ra ông Binh trạm phó .
- Báo cáo, tôi học tiếng Lào.
Ông vỗ vai Ngọc và nói:
- Học là tốt. Nhưng không được đâu. Chữ nó như giá đỗ, đến tớ mà còn không học được, thì câu hy vọng gì!
Ngọc ngạc nhiên vì sao ông ấy lại nói vậy. Nghĩ một lúc, anh tự lý giải: Có một số cán bộ khi được đặt vào vị trí, họ mặc nhiên coi mình giỏi hơn tất cả những người cấp dưới. Chắc ông này cũng thuộc túyp ấy.

Sáng hôm sau tổ khảo sát của Hồng được mời vào phòng làm việc của binh trạm trưởng. Trong phòng, ngoài Trung tá binh trạm trưởng còn có vài sỹ quan tham mưu vận chuyển và Văn Ngũ, một sỹ quan của cục xăng dầu. Ngọc đã gặp Ngũ từ hồi ở QH. Chính Ngũ đã phân tích cho Ngọc nghe tình hình giữa ta và Mỹ như hai người thợ lặn. Ngay từ khi gặp lần đầu, Ngọc đã mến người sỹ quan này. Khuôn mặt quắc thước nói to và đôi mắt thẳng thắn. Binh trạm trưởng cảm ơn bộ đội đường ống đã vượt qua mọi gian khổ khó khăn để đưa xăng vào bản Na Tăng và đang tiếp tục đưa xăng vào phía Nam, tránh được những trọng điểm ác liệt trên địa bàn binh trạm. Nghe những lời khen ấy, Ngọc cảm thấy mát lòng, còn Hồng đứng dậy nhẹ nhàng: “Cảm ơn anh. Đây là nhiệm vụ của chúng tôi mà, có thấm gì với những gian khổ, ác liệt của binh trạm 231”.

Buổi gặp mặt ấy không chỉ là để binh trạm trưởng nói lời cảm ơn. Ngũ đã phổ biến tình hình mới. Đường 9 phía tây Trường Sơn đã được giải phóng. Cần phải làm đường ống ở khu vực này ngay, vì đây là nơi gần nhất để đưa xăng vào chiến trường Miền Nam.

Tổ khảo sát trở lại công trường Bộ theo tuyến đường ống, con đường trở lại giờ đây không còn gập ghềnh, gai góc như khi họ đi khảo sát. Ba tháng trôi qua kể từ ngày họ vượt cổng trời chọn tuyến , giờ đây đường ống đã trở thành một tuyến vận tải thực sự trên tuyến lửaTrường Sơn. Nó chỉ như một con đường mòn nhỏ kín đáo luồn lách dưới tán rừng, nhưng nó giữ một vị trí to lớn trên tuyến vận tải chiến lược. Cũng như mọi phương thức vận tải trên tuyến Trường Sơn, ngay từ những ngày đầu, bộ đội đường ống đã phải chịu đựng những thử thách nặng nề, Phía bắc kho Na Tăng tuyến vượt qua những bãi bom xơ xác. Đoạn trọng điểm 050, do địch đánh phá quá ác liệt, hơn hai cây số ống buộc phải bỏ, chỉ còn dùng để nghi binh, bảo vệ tuyến tránh. Mộ của những người lính đang bắt đầu rải rác mọc lên dọc tuyến.

Đến gần trọng điểm 050, Ngọc đi theo tuyến tránh mới. Tuyến đi cheo leo trên lèn đá, xa trọng điểm nên vẫn kín đáo. Tuy nhiên đến gần hang Giơi, quang cảnh đã hoàn toàn khác, những cây cổ thụ bị bom chém ngang đổ rạp, khô cháy. Những hố bom chồng lên nhau. Đất đá bị nung cháy thành một màu đen chết chóc, nóng hầm hập, khiến cho cái nắng giữa mùa khô càng trở nên ngột ngạt. Hồng nhắc mọi người vượt nhanh qua khu vực này, vì đây là nơi địch thường đánh phá bất chợt.

Xế chiều, họ đến khu vực hang đá của Công trường bộ. Người ta chỉ cho Ngọc hang của ban kỹ thuật. Xa anh em trong Ban lâu quá, bây giờ Ngọc có cảm giác như trở về nhà. Tít trong sâu, có một ngọn đèn dầu. Ngọc nhắm mắt lại cho thích nghi với bóng tối, rồi mở mắt, vừa lần theo thành vách đá, vừa gọi: Có ai ở nhà không, chúng tôi, tổ của anh Hồng đã về đây. Ka từ phía trong nhào ra ôm lấy Ngọc.

- Ngọc đã về hả mày! Xem nào đúng là thằng Ngọc đây rồi, nhận được ra mày về đây tao mới tin được là mình vẫn sống.

- Anh nói gì mà nghe ghê vậy?

- Ôi mày biết không, ở đây cực kỳ đẩm máu! Cực kỳ đẩm máu! - Cứ khi nào diễn đạt điều gì nghiêm trọng là Ka không giấu được giọng thổ ngữ của mình.

- Ở Trường Sơn đâu chẳng thế hả anh.

- Nơi khác tao không biết, chứ ở đây ngày nào cũng có người chết: lính công binh, lái xe, thanh niên xung phong, cao xạ và cả đường ống nữa. Có những ngày bom nó bứng đi cả tiểu đội thanh niên xung phong. Ghê quá- Vừa nói Ka vừa rót nước đưa cho Ngọc- Mày uống đi. Nghe nói sắp tới chúng mày chuyển về gần vĩ tuyến Mười bảy, làm đường ống vào Đường 9. Không biết phía ấy có yên hàn hơn ở đây không.

Buổi tối, nhóm kỹ sư trẻ trong ban kỹ thuật về đủ, ba tháng nay mới có một cuộc hội ngộ đầy đủ như thế này, Mười tám kỹ sư, một bị tương ở X42 một số làm việc ở cục và tuyến đường ống phía đông dãy Trường Sơn, còn lại tám người ở phía tây Trường Sơn này. Theo lệnh trên, họ tập trung về Công trường bộ để một số nhận nhiệm vụ đi xây dựng tuyến đường ống vượt dãy Trường Sơn ở khu vực gần vĩ tuyến mười bảy.
Đêm ấy, nhóm kỹ sư gần như thức trắng . Chỉ mới ba tháng thôi, mà chuyện đã đầy ắp. Họ đã trải nghiệm gian khổ, ác liệt, qua từng ngày. Chưa phải là lính 559, nhưng họ đã hiểu một phần thế nào là Trường Sơn.
Ngày hôm sau, hơn một nửa trong số họ lên đường. Chiếc xe vận tải chở nhóm kỹ sư nhằm hướng Nam, đi về phía Hồ Cẩm Ly. Họ bắt đầu xây dựng một tuyến đường ống mới, gọi là Tuyến Hướng Đông. Họ biết mình đang dấn thân vào một thử thách mới, nhưng chưa ai hình dung hết sự gian khổ, ác liệt đang chờ họ ở phía trước.
 

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,364
Động cơ
416,007 Mã lực
Nhận hướng tuyến từ Na Tăng đi bản Say, Thục rải quân thi công tuyến. Đã vào sâu mùa khô nên máy bay địch đánh chặn rất quyết liệt các trọng điểm. Địa hình Trường Sơn thường bị chia cắt, nhiều chỗ rất hiểm yếu nên dù đi thế nào cũng phải chạm vào ít nhất là một trọng điểm đánh phá của địch. Đoạn từ Na Tăng vào Bản Say dù tránh trọng điểm Seng Phan, vẫn phải vượt sông cạnh ngầm bản Lắc. Khu vực ngầm bản Lắc thường xuyên bị đánh phá. Thục đã cố gắng đưa tuyến ống vào núi, nhưng vẫn không sao vượt được ra ngoài các vệt bom B52. Khó khăn nhất là việc tập kết ống để đưa lên tuyến. Cả một vùng bom đánh tan hoang, tìm được một chỗ kín đáo để dấu ống thật khó khăn. Bom đánh hàng ngày, những hố bom đánh trúng đường có khi không lấp xuể. Những lúc ấy, lính công binh thường nắn con đường đi chệch sang bên cạnh. Làm đi làm lại như thế cả trọng điểm chằng chịt những lối ngang, lối dọc. Hôm trước, Thục cử một cán bộ trung đội dẫn xe ống vào vị trí tập kết. Khi đi, anh ta đã quan sát rất cẩn thận, vẽ sơ đồ và các điểm đánh dấu. Khi trở về, bom cày xới tung hết mọi thứ. Xe đi đêm, lại không bật đèn, chỉ có đèn gầm rọi lên phía trước vài mét một thứ ánh sáng yếu ớt. Đến giữa trọng điểm, anh ta hoàn toàn mất phương hướng. Những người lính lái xe chở ống cảm thấy mình đang đứng chờ bom rơi xuống đầu. Trên tuyến Trường Sơn, khi bị máy bay phát hiện, những chiếc xe tải có thể liều mạng dấn hết ga chồm qua các ổ trâu, ổ voi để tránh các loạt bom từ trên máy bay đuổi theo. Tuy nhiên khi chở ống trên lưng thì chiếc xe trở nên kềnh càng và khó cơ động vì những chiếc ống thò ra phía sau hơn hai mét khiến cho trọng tâm xe lui sâu về phía sau. Trên đường gập ghềnh mà lái không vững, xe có thể đổ hoặc sa xuống hố bom.Trong cơn hoảng loạn, một lái xe đã túm áo người trung đội trưởng gào lên: Ông định giết chúng tôi hay sao? Đại đội trưởng xe gạt anh ta ra: “Bình tĩnh đi, bom đánh ác liệt thế này, đường mỗi lúc một khác. Có ai muốn thế đâu”. Nói rồi, anh hỏi trung đội trưởng đường ống: Kinh nghiệm của tôi là công binh chưa báo tắc đường thì mình cứ theo chỗ nào nhiều vết bánh xe nhất mà đi. Phía trước có một vệt đường khá rõ. Hình như ở đó có một lạch nước nhỏ, anh có nhận ra đường không?”. Trước sự bình tĩnh của đại đội trưởng xe, anh bộ đội đường ống tĩnh tâm lại, và nhận ra hướng đi. Đoàn xe theo đó vượt qua trọng điểm trước khi một loạt bom tọa độ cắt đứt đường. Để thi công tuyến ống vượt qua Bản Lắc, Thục phải bố trí người nằm ở khu vực trọng điểm, ghi chép quy luật và thủ đoạn đánh phá của địch để đưa bộ đội ra đào rãnh, lắp ống. Gọi là quy luật, nhưng rất tương đối. Bom tọa độ và những cú tập kích ban đêm lại thường bất ngờ cả về thời gian và cường độ. Bởi vậy, cũng đã có đêm bộ đội đang thi công thì dính bom tọa độ và thương vong.

Thi công qua khu vực núi đá Mường Khăm lại có kiểu khó khác. Tuyến đi trên núi đá cây cối thưa thớt, nhưng yêu cầu ngụy trang che mắt máy bay lại rất cao. Bôi đội đã cố gắng lắp ống đi qua tối đa các bụi cây. Mặc dù vậy, vẫn có những đoạn ống bị phơi ra giữa bãi đá, phải lấy các cây khô bó quanh ống, rồi dùng những cây khô khác ném ngổn ngang để từ trên cao không còn hình dạng của tuyến ống.
Theo kế hoạch thì số ống có thể lắp đủ đến bản Vat, nhưng khu vực 050 bị đánh ác liệt quá, phải thay liên tục nên tuyến ống lắp cách bản Say gần ba cây số thì số ống do Liên Xô viện trợ đã hết. Tổng Cục chuyển vào các ống thép đường kính năm mươi mi li mét. Từ tuyến một ống phi một trăm, thông qua một bộ chuyển tiếp sang hệ bốn ống phi năm mươi lắp song song. Tuy nhiên, những ống nhỏ này đã không chịu được áp suất bơm, nên phải dừng lại


Viêc đường ống vượt qua được tam giác lửa Vinh- Nam Đàn- linh cảm, rồi vượt qua trọng điểm 050, luồn lách qua những đoạn đường máy bay địch đánh phá để đưa xăng vào Na Tăng đã gây sự ngạc nhiên cho ngay cả những người giàu trí tưởng tượng. Kết quả đó là minh chứng hùng hồn hiệu quả và sức sống của phương thức vận chuyển xăng dầu bằng đường ống. Ngay sau ngày Mỹ ngừng ném bom Miền Bắc, tuyến đường ống được thi công rất khẩn trương từ Vinh đến QH. Tuy vậy, việc thiếu ống, phụ kiện và máy bơm ngày càng nghiêm trọng. Đặc biệt, tin báo về: Đường ống lắp đến cách bản Say ba cây số thì hết ống. Chủ nhiệm Đinh Đức Thiện nhẩm tính, đối chiếu với số ống mà Bạn viện trợ, và thốt lên: Sao nhanh hết ống thế. Có vấn đề gì không ổn mà mình chưa hiểu hết không? Ông quyết định triệu tập một cuộc họp.

Mở đầu cuộc họp, Chủ nhiệm cầm bút chì vạch một đường màu đen biểu diễn tuyến đường ống ở phía Nam ngầm bản Lắc, nhìn thẳng vào Lê Trọng, hỏi:

- Chỉ đến đây thôi sao? 200 cây số bạn viện trợ, đã ưu tiên cho các cậu, sao lại chỉ đến đây?.

Lê Trọng đứng yên để cơn thịnh nộ của người chỉ huy vơi bớt. Thật vô lý khi ông phải chịu cơn thịnh nộ này. Nhưng cũng rất dễ hiểu: xuống đến Na Tăng là một thắng lợi, Nhưng trọng điểm Seng Phan, bản Lắc lại đang chặn đường các xe chở xăng. Nếu xăng không đến được bản Say thì các đợt Tổng công kích công mùa khô sẽ không đạt kế hoạch như mong muốn. Xăng đến Na Tăng, ở 559 có người nghĩ việc làm đường ống là đơn giản nên có ý báo cáo công trường 81 không tích cực thi công tuyến tiếp vào phía trong.

Nói gì chứ! Tiếng gắt của chủ nhiệm làm Lê Trọng trở lại với thực tại
- Báo cáo chủ nhiệm, nếu tính số ống mà tổng cục xuất cho công trường 81 thì tuyến đã vượt qua bản Say rồi. Những tổn thất ống trên đường vận chuyển, đặc biệt là số ống phải thay do bom đánh, nhất là khu vực 050 đã nhiều hơn rất nhiều so với dự kiến của ta. Nếu ta rút ống dự phòng của tuyến đang vận hành để lắp cho phía trước thì có nguy cơ chỉ vài tuần là phải ngừng bơm xăng cho Na Tăng. Tổng cục đã chuyển cho chúng tôi ống phi 50 để nối tiếp đoạn ống của Liên Xô vào bản Say. Tuy nhiên, đây là ống dẫn nước, không chịu nổi áp suất bơm và rò rỉ rất lớn nên đã dừng lại.
- Mẹ chúng nó chứ - Chủ nhiệm buông câu chửi đổng – Nó cậy giầu, bom đạn như vỏ trấu thế này làm gì mà lính mình không vất vả.

Ông quay sang Cục trưởng xăng dầu:

- Tôi đã đề nghị chính phủ tiếp tục xin Liên Xô và Trung Quốc viện trợ. Nếu được thì cũng phải nhiều tháng nữa mới có - lỡ hết thời cơ. Tình hình tổ chức các nhà máy của ta sản xuất thay thế ra sao rồi.

Cục trưởng giở sổ tay, báo cáo:

Chúng tôi đã gửi mẫu đường ống và phụ kiện cho các nhà máy và cử kỹ sư cùng họ nghiên cứu sản xuất. Ta không có ống hợp kim như bạn, phải dùng ống thép đen. Mỗi ống nặng tới bảy mươi lăm cân, trong khi ống của bạn chỉ ba mươi hai cân. Các ngoàm nối của ta chỉ chịu lực được bằng bảy mươi phần trăm của bạn. Nhà máy cao su sao vàng sản xuất gioăng về cơ bản đã đảm bảo thiết kế, nhưng còn nhiều ba via nên chưa thật kín và nhanh bị lão hóa. Các kỹ sư đang tiếp tục nghiên cứu.
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top