[Funland] Không chiến trên bầu trời VN - nhìn từ hai phía

Baoleo

Xe tăng
Biển số
OF-320235
Ngày cấp bằng
19/5/14
Số km
1,071
Động cơ
326,722 Mã lực
"Mèo sạch thỉu viết
Em còn nhớ trước đọc ở quyển sách mà em kể trên một trận Mig 21 nhà mình thua rất cay.
Hôm ấy thời tiết kém thế chóa nào 2 con F4 nó lởn vởn quanh sân bay mà rada không phát hiện ra được hay bị chế áp mạnh quá ntn ấy .. mig nhà mình xuất kích bị nó thịt mấy biên đội. Lỗi của rada cảnh giới đã đành nhưng lỗi của phi công hoàn toàn không linh hoạt chỉ biết nghe theo chỉ huy mặt đất mà không biết vòng lại phang lại nó .. cũng là một trong những lỗi phổ biến của tiêm kích phụ thuộc vào GCI ..
Các cụ tìm được trận này phọt lên cho ae nghía nhá .. tiếc là sách nhà cháo cho mượn rồi không lấy lại được không thì cháo dịch hầu các cụ ạ"


Đây là ‘chiến dịch quét sạch bầu trời’, hay còn gọi là chiến dịch ‘Bolo’ – năm 1967.
Chuyện như sau:

Năm mới 1967 được khởi đầu đầy đen đủi cho lực lượng Không quân Bắc Việt. Chỉ trong vài phút ngắn ngủi nhập trận ngày 02-01, đã có tới 5 chiếc Mig-21 bị những chiếc F-4C của Liên đội không quân chiến thuật số 8 thuộc Không quân Mĩ bắn rơi trên bầu trời Nội Bài. Đám “Con ma” dưới quyền chỉ huy của viên “Át” huyền thoại thời Thế chiến 2 – đại tá không quân Robin Olds đã thực hiện “Chiến dịch Bolo” để nhử đối phương sa vào trận đồ không chiến nhằm quét sạch lực lượng tiêm kích Bắc Việt. Nhân tố thành công của Không quân Mĩ trong trận này một lần nữa lại đến từ chiến thuật chưa hợp lí của các phi công Mig-21 Bắc Việt. Mặc dù 4 trong số 5 phi công bị bắn rơi đã nhảy dù an toàn (trong số này có 2 phi công sau này trở thành “Át” là Vũ Ngọc Đỉnh và Nguyễn Văn Cốc), nhưng việc tổn thất tới 5 máy bay trong 1 trận đã ảnh hưởng nặng nề tới tâm lí chiến đấu của cán bộ chiến sĩ Trung đoàn không quân tiêm kích 921.

Trong cái ngày xui xẻo của các phi công Bắc Việt đó, những chiếc Mig-21 ở sân bay Nội Bài và Mig-17 ở sân bay Kép đã được lệnh báo động cấp 1 sau khi các đài ra đa cảnh giới phát hiện 1 đội hình lớn các máy bay Mĩ. Bầu trời cả 2 sân bay này khi đó đều bị phủ mây với lượng che phủ 10 phần, đáy mây 1500 mét và đỉnh mây 3000 mét.

Ngay từ đầu, công tác chỉ huy tại Sở chỉ huy ở Hà Nội đã mắc sai lầm khi không cho phép cất cánh nếu máy bay địch chưa tới cách sân bay 40 km. Nhưng hóa ra hệ thống đài ra đa cảnh giới đã phát hiện không hết số máy bay Mĩ tham gia chiến dịch. Hai biên đội “Con ma” do đích thân đại tá Olds chỉ huy đã lọt tới chiếm vị trí chiến đấu ngay trên đỉnh mây sân bay Nội Bài mà không bị phát hiện. Khi đó dù lực lượng Mig-17 đã được phép xuất kích, nhưng lại bay dưới trần mây và không được trang bị ra đa nên không phát hiện ra đám “Con ma”.

Ngay khi vừa xuất kích từ Nội Bài, những chiếc Mig-21 đã phơi mình dưới làn mưa tên lửa từ biên đội của Olds phóng tới. Từng chiếc từng chiếc một, biên đội 4 Mig-21 đầu tiên đã máy bay Mĩ bắn hạ dễ như bắn bầy ngỗng. Kết cục tương tự cũng giáng xuống chiếc Mig-21 số 1 của biên đội thứ hai.


Bốn ngày sau, đám “Con ma” cũng của Liên đội không quân chiến thuật số 8 lại bắn hạ thêm 2 Mig-21, trong đó có 1 phi công nhảy dù an toàn, còn phi công kia đã hi sinh cùng máy bay.

Tham gia “Chiến dịch Bolo” là các tổ bay F-4C thuộc Phi đội 433 Liên đội không quân chiến thuật số 8, trong số này có tổ bay của đại úy phi công John B. Stone và hoa tiêu vũ khí Clifton C. Dunnegan. Phi công Stone nhớ lại:

- Tôi vừa trả phép về đến doanh trại Phi đội ở Ubon sau kì nghỉ lễ đầy lưu luyến tại quê nhà thì ngóng được tin chuẩn bị có “phi vụ hành quân lớn”. Đích thân đại tá Olds chủ trì buổi giao nhiệm vụ. Khi nghe tới đoạn phải bay vào khu vực Hà Nội thì mọi người chùng hẳn xuống và rất ít người hào hứng với nhiệm vụ lần này.

- Kịch bản chính của “Chiến dịch Bolo” là đóng giả đám “Thần sấm” bay vào dụ những chiếc Mig lên không chiến. Chúng tôi sử dụng đường bay cùng mật danh, tần số liên lạc và thậm chí cả thời điểm kiểm tra hiệu chỉnh hệ thống dẫn đường đóp le của những chiếc “Thần sấm” cho nhiệm vụ này, cho dù đám “Con ma” chỉ được lắp hệ thống dẫn đường quán tính.

- Đại tá Olds vừa mới hô khẩu lệnh “Đèn xanh, Quăng” – mật ngữ có nghĩa lệnh cho các phi công “Thần sấm” thả bom – thì đã nghe 1 thành viên tổ bay của những chiếc “Con ma” dẫn đầu đội hình thông báo đầy phấn khích: “đám Mig kìa”. Chúng tôi thấy 4 chiếc Mig-21 ở hướng 3 giờ. Tôi liền bẻ cần lái sang phải để vào thế bám đuôi. Chỉ vài giây trước khi công kích, tôi còn thấy một ánh kim loại lóe lên ở hướng 10 giờ. Ánh kim loại đó chỉ có thể là Mig vì các máy bay của chúng tôi được phủ lớp sơn ngụy trang không phản chiếu tia mặt trời. Tôi bám theo 1 chiếc Mig, trong khi những chiếc “Con ma” khác trong biên đội tôi bám theo những chiếc Mig còn lại của biên đội 4 Mig-21 này.

- Khi chiếm vị trí ở hướng 6 giờ sau biên đội Mig, tôi phát hiện “chiếc Mig của mình” đã ở vào thế chuẩn bị công kích có thể phóng tên lửa tức thì, nên vội cấp báo qua máy vô tuyến đối không cho viên phi công chỉ huy. Được cảnh báo, biên đội “Con ma” vội ngoặt gấp sang trái ở mức quá tải quá hạn. Giờ đã tới lúc đi săn chiếc Mig-21 đơn độc này và rồi tất cả chúng tôi ào xông vào nó. Lợi dụng tình thế hăm hở hỗn loạn của chúng tôi, chiếc Mig-21 đã chọc thủng vòng vây và thoát li về hướng Trung Quốc. Chúng tôi lại phải tiếp tục truy đuổi chiếc Mig-21 này. Khi còn dưới mặt đất chúng tôi đã thống nhất sẽ sử dụng liền 2 tên lửa “Chim sẻ” cùng lúc do loại “đồ chơi” này có tiếng thiếu tin cậy. Thế nhưng lần này, kế sau luồng đuôi lửa phụt ra từ động cơ, quả tên lửa “Chim sẻ” đầu tiên đã xé chiếc Mig-21 ra thành từng mảnh khi điểm nổ nhằm trúng phần tiếp giáp giữa cánh trái và thân máy bay. Phi công của chiếc Mig-21 đã kịp nhảy dù trước khi máy bay phát nổ.

- Chúng tôi đã được thưởng thức một bữa tiệc tuyệt vời khi Lawrence Glynn hạ thêm được 1 chiếc Mig-21 nữa. Toàn bộ trận không chiến này đã diễn ra ở độ cao 450 mét, nơi mà Mig-21 chiếm ưu thế cơ động hơn “Con ma”, nhưng chúng tôi vẫn hạ được nó.
 

Baoleo

Xe tăng
Biển số
OF-320235
Ngày cấp bằng
19/5/14
Số km
1,071
Động cơ
326,722 Mã lực
Như nhà cháu đã nói hôm trước, hôm nay, nhà cháu xin lần lượt 'bốt':

Bí mật về chuyến bay MI 4 sang đất Thái Lan 1960

Ngày 15 tháng 12 năm 1960, Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trực tiếp giao nhiệm vụ cho Cục trưởng Cục Không quân và tổ bay Mi-4 đi đón khách đặc biệt ở Sen Sủn, cách Văng Viêng 25km, giáp biên giới Lào - Thái về Hà Nội.
Chuyến bay này đặc biệt, vì nó liên quan đến việc thành lập chính phủ hòa hợp dân tộc ba phái do hoàng thân Xu-pha-na Phu-ma làm thủ t ướng – có lợi cho Việt Nam ta.

Khách đặc biệt là ngài Ki-nim Phôn-sê-na (sau này là Bộ trưởng Ngoại giao trong chính phủ hòa hợp dân tộc ba phái do hoàng thân Xu-pha-na Phu-ma làm thủ t ướng) và đồng chí Chu Huy Mân - Đoàn trưởng Đoàn chuyên gia quân sự Việt Nam tại Lào.

Trung đoàn không quân 919 điều ngay 1 Il-14 sang Sầm Nưa, mang theo xăng dầu để bảo đảm cho Mi-4, còn tổ bay Mi-4: lái chính Phạm Đình Cường-lái chính Hoàng Trọng Khai ngồi ghế lái phụ-dẫn đường trên không Lương Nhật Nguyễn-cơ giới trên không Lê Văn Lạo, sẵn sàng chờ lệnh.

Đặc biệt, chuyến bay còn có kèm theo 5 cán bộ chiến sỹ tình báo-đặc công làm nhiệm vụ đặc biệt, mà chẳng ai trong tổ bay được biết. Đến ngày hôm nay, cũng chẳng ai biết.

Do thời tiết xấu, 11 giờ 30 phút ngày 16 tháng 12 năm 1960, Mi-4 mới cất cánh từ Gia Lâm và đến Sầm Nưa lúc 14 giờ 30 phút.
Sau khi kiểm tra và nạp dầu, Mi-4 bay tiếp theo kế hoạch.

Và chuyện gì đã xẩy ra.
Xin mời các bác đón đọc: Hồi ức của cơ trưởng Phạm Đình Cường về Bí mật về chuyến bay MI 4 sang đất Thái Lan 1960.
 

Baoleo

Xe tăng
Biển số
OF-320235
Ngày cấp bằng
19/5/14
Số km
1,071
Động cơ
326,722 Mã lực
Bí mật về chuyến bay MI 4 bị lạc sang đất Thái Lan 1960
(Hồi ức của cơ trưởng Phạm Đình Cường)

Tôi nhìn vào đồng hồ, lúc này là 17.40, ngày 16 tháng 12 năm 1960.
Từ trên cao nhìn xuống mặt đất đã nhá nhem, sương phủ lờ mờ trên các đỉnh núi.
Theo ước tính thời gian, máy bay đã đến khu vực hạ cánh, nhưng vì bay ở độ cao trên ba nghìn mét, lại không có phương tiện chỉ huy từ mặt đất, chẳng có sông Mê Kông nào cả, mà đường quốc lộ số 13 cũng không thấy, chỉ có một con đường lạ.

Lúc trước đã hiệp đồng không nhận ra địa điểm thì hạ cánh xuống khu vực đường quốc lộ số 13, đốt một đụn khói làm tín hiệu bắt liên lạc.
Tôi cho chiếc Mi-4 hạ thấp độ cao, mặt đất hiện rõ hơn, có một cái sân bóng, máy bay lượn thêm một vòng nhỏ nữa rồi mới từ từ đáp xuống. Tất cả đoàn chưa biết đây là đâu? Trong phi hành của chúng tôi có bốn, cộng thêm năm hành khách tổng cộng thành chín người.

Mở cửa bước xuống đất tôi nhận ra đây không phải đất Lào, phía trên sân bóng có một cột cờ, treo một lá cờ gạch chéo, tôi nhận định đây là đất Thái Lan.
Thấy có chiếc máy bay lạ hạ cánh xuống, nhiều người kéo nhau ra xem, họ đã quây kín xung quanh chúng tôi.




(còn tiếp)
 

lechidung79

Xe tăng
Biển số
OF-119822
Ngày cấp bằng
8/11/11
Số km
1,664
Động cơ
399,740 Mã lực
Thật cảm phục cha anh đi trước. Em rất yêu chim cắt số 2
 

Pobeda

Xe buýt
Biển số
OF-8259
Ngày cấp bằng
16/8/07
Số km
509
Động cơ
551,657 Mã lực
Bác Thớt xem lại mấy post đầu, hình như có nhầm tên thì phải. Nguyên chủ tịch HĐQTVA là bác Đồng Sỹ Hưng, trưởng nam của bác Đồng Sỹ Nguyên chứ không phải Nguyễn Sỹ Hưng đâu ạ.
Tên thật của tướng Đồng Sĩ Nguyên là Nguyễn Sĩ Đồng. Vậy nếu con trai bác ấy mang tên Nguyễn Sĩ Hưng thì cũng là hợp lý thôi cụ.
 

TuDo2808

Xe điện
Biển số
OF-202035
Ngày cấp bằng
14/7/13
Số km
4,782
Động cơ
369,006 Mã lực
Biển số
OF-49
Ngày cấp bằng
23/5/06
Số km
7,387
Động cơ
659,828 Mã lực
Nơi ở
Thừa Thiên Huế
Tên thật của tướng Đồng Sĩ Nguyên là Nguyễn Sĩ Đồng. Vậy nếu con trai bác ấy mang tên Nguyễn Sĩ Hưng thì cũng là hợp lý thôi cụ.
Chắc kiểu như bố là Nguyễn Cơ Thạch mà con lại là Phạm Bình Minh!
Các cụ hồi xưa, thời tiền khởi nghĩa hoạt động bí mật nên thay tên, đổi họ tùm lum... Sau CM thành công, sinh con đẻ cái lại mang họ thật của các cụ trong khi lý lịch các cụ đã chốt tên họ nên kg đổi được nữa.

Nhà em cũng vậy, có lần em bị hạch vì tội khai ẩu lý lịch do em khai các cô dì chú bác (ruột thịt) mỗi người mang một họ khác nhau? . :)) :))
 
Chỉnh sửa cuối:

Baoleo

Xe tăng
Biển số
OF-320235
Ngày cấp bằng
19/5/14
Số km
1,071
Động cơ
326,722 Mã lực
Bí mật về chuyến bay MI4 bị lạc sang đất Thái Lan 1960
(Hồi ức của cơ trưởng Phạm Đình Cường)
(tiếp)


Rất may cho chúng tôi, trong đoàn có một người biết tiếng Thái, anh ta nhanh trí nói với họ: "Chúng tôi bay từ Pắc Xế đi Pắc San, đến đây vì trời tối nên phải hạ cánh để hỏi đường rồi đi ngay".

Không có ai chỉ huy cả, chúng tôi nhận thấy rõ sự nguy hiểm, chốc nữa thôi tất cả sẽ bị bắt, tôi đã được quán triệt rất kỹ, tuyệt đối không để rơi vào tay địch, không được xưng khai, và không mang theo giấy tờ, tài liệu nào hết.
Tôi bảo anh em nhanh chóng lên máy bay thoát khỏi vùng nguy hiểm.
Ngay lập tức không ai nói với ai, máy bay khởi động rồi cất cánh bay ngược lại theo hướng MK30 độ.
Tôi là phi công đã được đào tạo lái máy bay IL-14 hai động cơ tại Liên Xô, chuyển về đoàn M19 cấp trên giao cho tôi bay loại trực thăng Mi-4. Bay trong điều kiện đêm tối anh em rất lo lắng, ngay cả đồng chí Khai lái phụ cũng chưa gặp tình huống này bao giờ, nhưng tôi đã từng bay IL-14 ban đêm nên yên tâm hơn.

Bay được một đoạn chừng hai mươi phút trên địa hình rừng núi, trời tối đen như mực không có điểm nào làm vật chuẩn, tôi không xác định được tọa độ, bắt buộc phải hạ cánh để tránh va vào núi.
Tôi bật đèn pha soi xuống mặt đất, phát hiện có một khoảng đất rộng, máy bay từ từ hạ cánh xuống, kim đồng hồ chỉ 18.20.
Tôi tắt khóa điện cho động cơ dừng hẳn, rất có thể rơi vào tay địch, vì tôi là lái chính quyết định số phận của mọi người, anh em trong đoàn nghe theo lệnh tôi như một người chỉ huy, tôi phân công mỗi người một việc, canh gác xung quanh máy bay, hủy toàn bộ giấy tờ có liên quan đến chuyến bay, riêng tấm bản đồ phải để lại.

Dân quanh đó bắt đầu kéo nhau đến xem, tôi cử hai đồng chí biết tiếng đến liên hệ với họ, hỏi xem khu vực này thuộc địa phận nước nào? Qua một hồi trao đổi được biết; buổi chiều chúng tôi vừa hạ cánh xuống sân bóng của trường huấn luyện cảnh sát Thái Lan, đây vẫn thuộc đất của họ.
Đang giữa thời chiến sự, quân đội Thái Lan đối địch với lực lượng cách mạng Lào, chúng tôi bay đi để bắt liên lạc với lực lượng cách mạng Lào, máy bay hạ cánh trên đất này khác nào vào khu rừng có nhiều cọp dữ.

Tất cả đoàn ai cũng lo lắng, chúng tôi đã cầm chắc trong tay hơn nửa phần chết, hi vọng sống là nhỏ nhoi, đang chưa biết sử trí sa sao? Nhưng phán đoán thì chưa có lực lượng vũ trang nào của Thái Lan đánh hơi thấy, đây là những người dân hiếu kỳ ra xem, chúng tôi nói với họ tránh xa chiếc máy bay, chúng tôi đang bay đi Pắc San, đến đây trời tối quá đành phải hạ cánh xuống nghỉ, ngày mai lại tiếp tục.

Lát sau dân về hết, tôi giao cho nhiệm vụ thông tin liên lạc cùng cơ yếu đánh "Mooc" báo về Bộ tổng tham mưu, nói rõ tình hình đang bị lạc. Viết đến bốn bức điện phát đi nhưng chẳng nhận được sự hồi âm nào cả, bặt vô âm tín, phương tiện duy nhất chúng tôi mang theo là chiêc máy 15W. Núi rừng trả lời là sự im phăng phắc, màn đêm sâu hun hút đến vô tận, đêm đầu tiên không ai chợp mắt nổi, chỉ cần một tiếng động nhỏ là tất cả lại dật mình, chỉ mong cho trời nhanh sáng.


 

Baoleo

Xe tăng
Biển số
OF-320235
Ngày cấp bằng
19/5/14
Số km
1,071
Động cơ
326,722 Mã lực
Bí mật về chuyến bay MI4 bị lạc sang đất Thái Lan 1960

(Hồi ức của cơ trưởng Phạm Đình Cường)
(tiếp)


Ngày hôm sau, mới 05.00 ánh sáng bắt đầu le lói, nhưng trời đất vẫn còn mù sương, tầm nhìn còn bị hạn chế, cả đoàn rất nóng lòng muốn cất cánh nhưng điều kiện thời tiết không cho phép, nếu không nhanh chóng thì rất có thể địch biết tin đến bắt sống, mỗi giây phút kéo dài là nỗi sợ lại nhân lên cấp số nhân.

Mãi đến 07.00 sương mù bắt đầu tan, nhưng ngoài trời vẫn còn lạnh cóng, máy bay khó khởi động, phải nổ máy động cơ ba mươi phút mới cất cánh được.

Khi máy bay đã bốc lên, tôi không dám nâng độ cao, chỉ bay là là với khoảng cách mặt đất 300 mét, vì càng nâng độ cao càng tốn xăng, đồng hồ báo đã chỉ ở vạch đỏ.

Bay được khoảng năm phút đồng hồ đo xăng báo động mức nguy hiểm, mối đe dọa nghiêm trọng đến tính mạng cả đoàn, nhìn xuống dưới mặt đất chẳng có vị trí nào để hạ cánh cả, tôi vẫn liều lĩnh cho máy bay tiếp tục tiến, sự sống và cái chết của chúng tôi cân bằng nhau, thêm một đoạn nữa tôi thấy có một dải đất bằng, nhưng không thể hạ cánh được vì cây cối mọc lởm chởm, nếu có hạ cánh rồi cũng chẳng có cơ hội bay tiếp.

Trong suy nghĩ của tôi bắt đầu nảy sinh nhiều toan tính, một ý nghĩ táo bạo lóe sáng trong đầu.
Chiếc máy bay như con chuồn chuồn đuối sức, cánh quạt quay chậm dần, toàn thân đè lên đám cây kêu răng rắc, cánh quạt chém lá bay tứ tung, kết thúc là một tiếng "khực", một cảm giác khủng khiếp, đồ đạc trong máy bay loảng xoảng, người ngồi trong dúi dụi, giây phút ấy diễn ra trong chốc lát rồi trả lại bình yên, nhưng mặt mũi ai nấy cũng đều tái xanh.


 

Baoleo

Xe tăng
Biển số
OF-320235
Ngày cấp bằng
19/5/14
Số km
1,071
Động cơ
326,722 Mã lực
Bí mật về chuyến bay MI4 bị lạc sang đất Thái Lan 1960
(Hồi ức của cơ trưởng Phạm Đình Cường)
(tiếp)


Anh em chúng tôi bỏ máy bay, mang đồ đoàn mở cửa bước ra. Vẫn đang ở đất Thái. Từ đâu đó năm người chĩa súng thẳng vào chúng tôi:
- Thăng môt dưn kôông! (Tất cả đứng yên).

Mặt mũi bọn họ đằng đằng sát khí, những họng súng đen ngòm sẵn sàng khạc lửa thẳng vào mặt chúng tôi.
Như hiểu ý nhau, tất cả chín anh em ngoan ngoãn đứng dậy giơ hai tay lên quá đầu. Không khí bớt căng thẳng, họ bớt cảnh giác hơn.
- Chúng tôi đi khảo sát địa chất, máy bay bị hết xăng rơi xuống đây. Chúng tôi nói bằng tiếng Thái.

Nhóm người giãn ra, họ bỏ súng xuống, tôi ra hiệu cho một đồng chí đốt máy bay. Nhiên liệu trong khoang máy chỉ còn dính đáy, phải thò tấm vải bông vào thùng thấm, nhóm người kia nhìn nhau ngơ ngác, họ chẳng biết gì. Tôi châm thuốc hút, rồi tiện đà mời họ hút thêm, thái độ họ thân thiện hơn.
Trong lúc đang chuyện trò, chúng tôi nháy nhau chuần bị cướp súng, tất cả hiểu ý định, trà trộn giáp lá cà với họ thành từng nhóm nhỏ, chỉ cần hiệp đồng đúng thời cơ.
Không chần chừ, tôi hô lớn một tiếng, năm người thổ dân bị đè nghiến xuống đất.
Từ lúc nãy, mảng bông tẩm xăng được vứt sẵn trong buồng lái, chúng tôi châm lửa rồi cùng nhau mang súng bỏ chạy.
Không ai nói câu nào, chúng tôi cúi đầu chạy một mạch, đằng sau có tiếng nổ lớn, xác máy bay đã tan tành, không biết năm người dân kia làm gì? Chúng tôi cứ thế chạy thẳng vào rừng sâu.



(còn tiếp)
 

Baoleo

Xe tăng
Biển số
OF-320235
Ngày cấp bằng
19/5/14
Số km
1,071
Động cơ
326,722 Mã lực
Bí mật về chuyến bay MI4 bị lạc sang đất Thái Lan 1960
(Hồi ức của cơ trưởng Phạm Đình Cường)
(tiếp)


Khi đã xa lắm rồi, không ai còn đủ sức chạy tiếp, cả đoàn nằm vật xuống dưới tán một bụi cây lớn.

Chuyến bay đó rất gấp, chúng tôi không kịp chuẩn bị gì, trước đó tôi được thủ trưởng giao cho nhiệm vụ bay đến Xẻn Xum phía bắc Viên Chăn, cách bờ sông Mê Kông khoảng hai mươi kilomet, ngoài ra tôi chẳng biết gì hơn. Họ chỉ nói với tôi, đây là nhiệm vụ đặc biệt! **** và nhà nước tin tưởng đồng chí…Cả Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng nói thế.
Thực ra nhận nhiêm vụ tôi rất lo, điều kiện đảm bảo nhiên liệu cho máy không có, quãng đường lại quá xa, phải chăng đây là một chuyến bay cảm tử? Tôi được chỉ huy gọi lên quán triệt liên tục, đến gần giờ bay tôi mới biết chuyến bay đó có bốn người cùng đơn vị, thêm năm người khách nưa nhưng không biết họ là ai.

Ăn cơm trưa song chúng tôi cùng ra máy bay, mang theo ba chiêc địa bàn, bốn chiếc bình tông đựng nước uống, một khẩu súng tiểu liên AK, lương thực chẳng có gì, một ai đó trong đoàn mua được năm chiếc bánh chưng, năm người khách lạ đi cùng có mang theo hai hộp sữa, một ít bánh bicquy.

Ở trong khu rừng chúng tôi bắt đầu nảy sinh mâu thuẫn, nhiều quan điểm khác nhau, có người bảo cứ hành quân theo đường quốc lộ, người khác lại bảo vào dân hỏi đường và xin lương thực. Tất cả những ý kiến đó đều không khả thi, đây là vùng đất địch. Cuối cùng mọi vấn đề đều được thống nhất, trong đoàn của chúng tôi có chín, tám người là **** viên, một người là đoàn viên ưu tú, chi bộ lâm thời được thành lập, đồng chí Đạt có thâm niên lâu hơn được đề cử làm bí thư, tôi làm phó bí thư. Chúng tôi thống nhất phương trâm, "Chết đống còn hơn sống một".
Đói quá có anh em bắt đầu lả đi, nhưng lương thực quá ít ỏi không dám dùng hết, đành phải cắt một miếng bánh chưng nhỏ cho ăn, phần còn lại phải để dành những ngày tiếp theo.
Chúng tôi lại bắt đầu đi.
Sông Mê Kông nằm ở phía đông, buổi sáng mặt trời mọc ở hướng đó, buổi chiều lăn phía sau lưng. Rừng ở Thái Lan không rậm lắm, chủ yếu là cây khôộc và nhiều loại cây khác nữa, người khỏe thay phiên nhau dìu người yếu. Cứ vậy chúng tôi hành quân về phía sông Mê Kông.
Đi được một quãng khá xa thì bất ngờ nghe tiếng nổ lớn, tất cả anh em tản ra nằm rạp xuống, hóa ra là một khẩu súng kíp anh em cướp được của thổ dân bị nảy cò nổ, may mắn không ai bị dính đạn. Sau tiếng nổ ấy chúng tôi lại tiếp tục chạy, sợ nhỡ địch nghe thấy súng ập đến bao vây.

Lúc ấy đang là mùa đông, buổi chiều thời tiết ấm hơn, mùa này rừng cũng chẳng có loại hoa quả gì có thể ăn được, không thể tiếp tục đi mãi khi bụng đói tóp teo, chúng tôi tản ra tìm bất cứ loại gì đút vào miệng sống qua ngày.

Sau một giấc ngủ mê mệt, khí lạnh tràn về khắp khu rừng, chúng tôi tỉnh giấc lại giữa mà đên tối om om, bầu trời bắt đầu hiện đầy sao.
Bỗng dưng tôi khát khao sự sống đến thê? Cả nhà (vợ, con) không ai biết tôi đang ở đâu, tôi không kịp thông báo chuyến đi này, hình ảnh những đứa con đang ríu rít vui đùa khiến tôi ứa nước mắt, nếu tôi chết thì chúng sẽ sống ra sao?
Anh Đạt cũng tỉnh từ lúc nào, đang ngồi trầm tư nghĩ ngợi bên gốc cây.
Chúng tôi túm tụm lại thành một nhóm. Cơn khát lại kéo về dày vò, một đồng chí nữa lại lả đi.
Cuộc hành trình của chúng tôi theo tinh thần của nghị quyết chi bộ. Để đảm bảo ăn dè sẻn số lương thực mang theo, chúng tôi bầu một đồng chí làm quản lý, phân phối tiêu chuẩn ăn mỗi người một bữa chỉ được một nhúm bicquy, một cái bánh chưng phải chia ra thành chín xuất, tính như thế cũng chỉ đảm bảo được hai ngày, riêng hai hộp sữa phải để dành khi đến bờ sông Mê Kông ăn để lấy sức vượt.
Giữa rừng sâu không có một dấu chân người, tất cả bốn bi đông nước không còn lấy một giọt, xung quanh không có dòng suối nào cả, không thê kiếm nước ở đâu uống qua cơn khát, một đồng chí đã quá yếu không dậy được. Chúng tôi không thể ngồi nhìn nhau chết dần trên đường về, không còn cách nào khác đành phải *** ra lấy nước đổ vào mồm đồng đội.

Đi trong rừng nhìn thấy dây củ mài mọc mà không có cách nào đào lên được, trong tay chúng tôi chẳng có gì, mấy khẩu súng kíp cướp được cúng đành phải bỏ lại vì không đủ sức mang theo. Thật may mắn anh em trong đoàn chúng tôi có một người cầm bật lửa, dọc đuờng đi hễ cứ tìm được thứ gì ăn được là anh em cùng nhau kiếm, kể cả những loại cây thú rừng ăn nham nhở cũng hái bỏ vào ống nứa non nấu.

Một hôm chúng tôi qua mảnh nương cũ của dân bỏ lại, lấy được bí đỏ ăn no nê một bữa, thế rồi ba hôm sau không kiếm được thứ gì nên người mệt mỏi vô cùng, lê từng bước trong rừng, cứ đi được năm đến mười phút lại phải nghỉ giải lao hàng tiếng. Lúc đứng dậy mắt hoa đom đóm, đầu óc choáng váng, một đống chí không biết ăn phải quả dại nên ngộ độc; mặt tái xanh, hôn mê, nôn mửa, chân tay run lật bật tưởng chết nhưng qua khỏi.
Dọc đường đi gian khổ cũng có một vài đồng chí nảy sinh tư tưởng muốn vào nhà dân xin cơm, nhưng nghị quyết chi bộ đã quán triệt nên nhất nhất phải nghe, "Chúng ta đi theo tinh thần của người Đ**** viên Cộng sản".

Thêm một ngày là sức lực chúng tôi thêm kiệt quệ, phải vượt qua nhiều địa hình hiểm trở, đường cao, dốc thẳm.
Tôi còn nhớ một hôm gặp dãy núi đá rất cao, người bình thường cũng khó lòng để vượt qua. Thế mà chúng tôi những người sức lực đã yếu, chi bộ phải chụm lại bàn bạc. Lúc đầu chúng tôi đi vòng quanh hình chữ Z nhưng suốt một ngày không lên đến mỏm, cuối cùng phải quyết tâm leo. Nhích từng bước một chúng tôi cồng kênh nhau, nếu chẳng may ai trượt chân ngã xuống coi như đã mặc niệm. Thế rồi cũng lên được đỉnh, không ai bị sơ xuất.

Rồi có một đồng chí bị đi kiết, người rũ rượi không đủ sức đi tiếp, rút súng ngắn định tự sát: "Thôi các đồng chí cứ đi tiếp, chúng ta phải trở về với tổ quốc. Còn tôi…" Tôi lại phải kể tiếp, mỗi đồng chí chúng tôi trước lúc lên máy bay đã giắt sẵn trong người một khẩu súng ngắn. Lúc ấy tinh thàn quyết tâm lại chỗi dậy, anh em xúm lại, nhìn đồng đội thoi thóp mà nước ứa đầy hai khóe mắt. "Thà chết đống còn hơn sống một" Cả đoàn lại đứng lên dìu dắt nhau đi bằng được.

Nhìn trên bản đồ quân sự, chúng tôi ước tính chỉ đi bộ khoảng hai hoặc ba ngày là đến bờ sông Mê Kông, nhưng đã trải qua chín ngày vẫn chưa tới nơi. Vào một buổi chiều, khi mặt trời đã chuẩn bị chìm xuống dãy núi phía sau, phía trước mặt xuất hiện một cánh đồng rộng, tôi nghĩ thầm là sắp đến bờ sông. Cánh đồng đó rất rộng, xung quanh nhà dân mọc lên san sát, chúng tôi không thể ngang nhiên vượt qua đó được. Anh em ngồi lại đó quan sát kỹ lưỡng. Thế là chúng tôi nghỉ lại ở một mép rừng, trong bản có tiếng chó sủa nhiều, phía xa có ánh đèn pha, mọi người bắt đầu thấy lo, lúc chiều đột nhiên gặp một số người dân, có thể đã bị lộ, địch đang tiến hành truy kích. Phương án của chúng tôi vạch ra: Tất cả nằm bất động, cử hai người cảnh giới, phải vượt qua cánh đồng trong đêm nay. Đợi mãi đên 01.00 chúng tôi mới bắt đầu thực hiện, lúc này có sương xuống chó không thể đánh hơi người. Trước lúc lên đường bắt tất cả mọi người phải cởi giầy. Tôi đã quen đi giầy, da bàn chân mỏng như tờ giấy, dẫm lên gốc cây bàn chân cảm thấy nhói buốt, chẳng hiểu thế nào mà tôi đã cùng đồng đội đi suốt đoạn đường dài hai tiếng không nghỉ. Đêm trên đồng tối mờ mịt, bản đồ và địa bàn không thể đối chiếu với bên ngoài được, nhìn lên bầu trời có vì sao Bắc đẩu, chòm Đại hùng tinh, Tiểu hùng tinh cùng chùm sao Chiến sĩ rất sáng, chúng tôi căn vật chuẩn vào đỉnh núi phía sau và ngọn cây phía trước để hành quân. Đến gần sáng thì chúng tôi đến một khu rừng.

Đây có lẽ là một cuộc thoát hiểm hiếm có trong chiến tranh, đã là ngày thứ mười chúng tôi sống trong nỗi sợ hãi, cái đói, khát cứ liên tục dày vò, không còn đủ sức mà tiếp tục, bờ sông Mê Kông đang vẫy gọi chúng tôi tiến đến. Khu vực này địch rất có thể ập đến bất cứ lúc nào, đã kiệt sức quá rồi nhưng không thể quên cảnh giới. Tối hôm sau chúng tôi lại tiếp tục vượt qua một rừng tranh, thêm hai người nữa mệt quá bị ngất đi, nhưng ước vọng lớn nhất của chúng tôi là nhìn thấy bờ sông Mê Kông, đã mười ngày trôi qua mà vẫn chưa nhìn thấy gì, niềm thất vọng lan ra khắp cả đoàn.

Ngày hôm đó chúng tôi gặp một người dân, họ đến gần hỏi chuyện:
- Các ngài đang đi đâu?
- Chúng tôi là đoàn địa chất của chính phủ. Từ đây đến Vang Sa Phông có xa không? Người trong đoàn biết tiếng Thái nói.
- Đường lên huyện và ra bờ sông bằng nhau, đi bộ mất khỏang một ngày.
Họ nói thế và mời chúng tôi vào bản nhưng phải từ chối. Đợi họ đi khuất rồi chúng tôi lần vào rừng sâu.

Sau cuộc gặp gỡ chúng tôi đã mừng thầm, nhẩm tính chắc chỉ đi bộ thêm ba ngày nữa. Nhưng thực tế không phải như vậy, chúng tôi đi hơn năm ngày nữa mới đến bờ sông, sức chúng tôi đã quá kiệt quệ mất rồi, đi bộ chừng mười lăm phút phải nghỉ mất hàng tiếng đồng hồ, gặp gì ăn nấy. Những khi gặp được một con suối chúng tôi nghỉ lại cả buổi, anh em nào khỏe thì xuống mò ốc bắt cua, nhái nấu để ăn, lúc đó không ai còn biết ghê tởm điều gì hết.
 

Baoleo

Xe tăng
Biển số
OF-320235
Ngày cấp bằng
19/5/14
Số km
1,071
Động cơ
326,722 Mã lực
Bí mật về chuyến bay MI4 bị lạc sang đất Thái Lan 1960
(Hồi ức của cơ trưởng Phạm Đình Cường)
(tiếp)


Mười lăm ngày trôi qua là một cuộc đấu tranh vô cùng ác liệt, sáng sớm ngày thứ mười bảy tôi thức dậy rất sớm, lợi dụng sương mù dày đặc tranh thủ men theo con đường nhỏ đi thám thính xem có phải bờ sông không.
Đúng như dự tính bờ sông Mê Kông đang ở ngay trước mặt tôi.
Lúc đầu chúng tôi nghi ngờ nhưng mang bản đồ đối chiếu với thực địa thì quả thật đúng như vây.
09.00 rồi mà sương mù vẫn bao phủ khắp mặt nước, bờ sông đoạn này hai bên có rừng cây rậm rạp và các tảng đá to.
Chúng tôi ngồi ở đó quan sát sang phía bờ sông bên kia.

Đến lúc này chỉ cần vượt sang bên kia sông là sự sống của chúng tôi có nhiều hi vọng. Nhưng không thể nôn nóng mà liều lính rơi vào tay địch.
Trong đoàn lại nảy sinh nhiều ý kiến, có ngời bảo lợi dụng thuyền của dân, ý kiến khác cho rằng thế là nguy hiểm, thỉnh thoảng lại có thuyền với ca nô chạy qua đoạn sông chúng tôi đang ngắm.

Nhiều ý kiến đề xuất nên chủ trương chính của chúng tôi vẫn dùng thuyền để vượt sông, e rằng dùng bè chuối một số anh em yếu không đủ sức bơi.
Chúng tôi phân công nhau thành nhiều nhóm.
Đồng chí Đạt cùng hai người nữa ra mép sông trinh sát và lấy nước cho anh em.
Ở dưới sông có năm người dân đang đóng bè nứa, tổ trinh sát thương lượng để họ chở bè nứa qua sông nhưng không được, đồng chí Đạt bào về cần khẩu súng AK, bộ phận sau chuẩn bị mang hành lý lên bè sang sông.
Lúc ấy đã là 17.30, mặt sông đã nhá nhem tối.
Lúc sau nghe một loạt AK, chúng tôi dồn cả về phía có tiếng nổ, nghĩ rằng tổ trinh sát đã bắn chết năm người dân để cướp bè nứa.
Nhưng không phải. Một cuộc đọ súng giữa ta với địch nổ ra. Họ bắn nhau dữ dội!
Khi hai đồng chí trong tổ trinh sát quay lại, Tôi hỏi.:

- Đồng chí Đạt đâu?
- Không biết. Một đồng chí nói rồi nằm vật xuống đất ngất đi.

Địch trên sông triển khai đội hình chiến đấu, súng của địch bốn phía bắn liên tiếp về phía bờ sông, cả đạn cối cũng nổ tung các cột nước trắng xóa. Tôi nghe thấy chúng hô hoán om xòm nhưng không biết tiếng, con đường phía sau xe tăng chạy ầm ầm.
Trời đã buông màn đêm đen kịt xuống từ lúc nào, chúng tôi phải im lặng nằm tại vị trí chờ đồng chí Đạt trở lại.
Chúng tôi chờ mãi cho đến 24.00 không thấy đồng chí Đạt quay lại mới tiếp tục đi.
Trong suy nghĩ của tôi đoán có lẽ đồng chí ấy đã bị lạc hoặc chết vì bị lộ. Chúng tôi quay lại rừng không dám vượt sông ngay đêm ấy.

Phải mất thêm hai ngày nữa chúng tôi mới tổ chức vượt sông được.
Chúng tôi lê từng bước đi cách chỗ cũ khoảng mười kilomet mới đến bờ sông. Đoạn này cũng hẹp! Chỗ đấy là một cái khe nhỏ, hai bên khe có nhiều chuối rừng mọc, có cả cây đu đủ rất sai, đói quá chúng tôi thi nhau ăn, đến sau này tôi mới biết vì thế mà mình mắc chứng đau dạ dày.
Quan sát thấy bờ sông vắng lặng, chúng tôi họp lại, họ phân công tôi làm bí thư chi bộ. Cả đoàn lúc này chỉ còn lại tám người, chia làm hai nhóm vượt sông, tổ chức hiệp đồng cẩn thận song xuôi đây đấy.
Đúng đến 02.00 thì hai chiếc bè chuối được hoàn thành, chúng tôi chỉ có 2 con dao díp nhỏ để tiện thân chuối, còn anh em khác dùng mồm để cắn dây buộc cốn bè.

Mặt sông bồng bềnh trong sương lạnh, tất cả súng đạn cùng đồ đoàn chất lên trên, mỗi người phải lấy một sợi dây buộc mình vào bè chuối phòng mệt bị nước cuốn đi.
Lờ mờ sáng thì sang đến bờ bên kia, một số anh bị ngất đi, những người khỏe hơn thì khuân vác đồ cùng cõng anh em vào trong bờ cất giấu, vừa song việc có một chiếc ca nô của địch đi tuần tiễu trên sông.
Theo hiệp đồng thì bè nào sang trước ở bên trên thì đi xuôi xuống tìm bạn, bè nào phía dưới thì đi ngược lên, tôi đi ngược tìm những người bên tổ bạn nhưng không thấy, ba anh em trong tổ bị ngất đi mãi đến 15.00 mới tỉnh lại.
Chúng tôi tiếp tục ngược lên phía trên tìm bạn, tối hôm ấy bắt đầu có trăng, dưới tán rừng ánh trưng soi mờ ảo, chúng tôi vẫn đi đến khoảng 21.00 thì nghe có tiếng huýt sáo, (lúc trước đã hiệp đồng gọi nhau bằng tiếng huýt, người gọi bằng một tiếng, đáp lại bằng hai tiếng). Tôi huýt lại hai tiếng, thế là anh em gặp được nhau. Đáng lẽ chúng tôi phải cười lên mới đúng. Nhưng chúng tôi chẳng nở được một nụ cười nào. Tất cả lặng đi nhìn về phía bên kia nhớ thương đồng chí Đạt…
 

sondong

Xe điện
Biển số
OF-85751
Ngày cấp bằng
18/2/11
Số km
2,795
Động cơ
436,955 Mã lực
Em lót dép có time đọc lại
 

Baoleo

Xe tăng
Biển số
OF-320235
Ngày cấp bằng
19/5/14
Số km
1,071
Động cơ
326,722 Mã lực
Bí mật về chuyến bay MI4 bị lạc sang đất Thái Lan 1960
(Hồi ức của cơ trưởng Phạm Đình Cường)
(tiếp)


Nếu tôi kể tiếp thì chuyện còn dài lắm, sang đất Lào chúng tôi may mắn gặp được một du kích Pa Thét, lúc đầu họ vẫn chưa tin chúng tôi là quân đội Bắc Việt, họ nghi là Phỉ của Việt Nam Cộng Hòa. Mãi về sau một người trong đoàn gặp một người bạn học hồi còn ở Trung Quốc họ mới tin, chúng tôi còn phải tiếp tục hành quân bộ hơn 300kilomet nữa, về đến cánh đồng Chum bắt được liên lạc về nước. Về sau tôi được biết đồng chí Đạt đã chết trong lần đụng độ ngày hôm ấy (Theo nguồn tin quân sự), chuyến bay đó tôi không bao quên trong ký ức… Phạm Đình Cường


Cái kết có hậu của tổ bay MI 4 và các vị khách bị đón hụt


Ngày 15 tháng 12 năm 1960, Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trực tiếp giao nhiệm vụ cho Cục trưởng Cục Không quân và tổ bay Mi-4 đi đón khách đặc biệt ở Sen Sủn, cách Văng Viêng 25km, giáp biên giới Lào - Thái về Hà Nội.

Trung đoàn không quân 919 điều ngay 1 Il-14 sang Sầm Nưa, mang theo xăng dầu để bảo đảm cho Mi-4, còn tổ bay Mi-4: lái chính Phạm Đình Cường-lái chính Hoàng Trọng Khai ngồi ghế lái phụ-dẫn đường trên không Lương Nhật Nguyễn-cơ giới trên không Lê Văn Lạo sẵn sàng chờ lệnh.

Do thời tiết xấu, 11 giờ 30 phút ngày 16 tháng 12 năm 1960, Mi-4 mới cất cánh từ Gia Lâm và đến Sầm Nưa lúc 14 giờ 30 phút.
Sau khi kiểm tra và nạp dầu, Mi-4 bay tiếp theo kế hoạch.

Do gió trên cao thay đổi, lại gặp trời mù trong thời gian dài, dẫn đường trên không không phát hiện được sai lệch, nên đã bị lạc đường và tổ bay phải hạ cánh bắt buộc xuống đất Thái Lan.

Trong tình huống hết sức khó khăn, tổ bay đã quyết định thiêu hủy trực thăng và tổ chức thành một đơn vị chiến đấu, tìm đường trở về.

Sau khi mất liên lạc với Mi-4, Cục Không quân quyết định sử dụng An-2 tiếp tục làm nhiệm vụ.
Ngày 21 tháng 12 năm 1960, tổ bay An-2 gồm:
-lái chính Phan Như Cẩn
-một lái chính khác, làm nhiệm vụ dẫn đường trên không là Hoàng Cần
-thêm một chủ nhiệm dẫn đường-chuyên gia Liên Xô
-cơ giới trên không Trần Văn Nam
-thông tin trên không Hồ A
đã cất cánh.

Tại điểm cuối của đường bay, tổ bay phải vòng đi vòng lại nhiều lần mới xác định được điểm hạ cánh và đón được khách đặc biệt, trong đó có ngài Ki-nim Phôn-sê-na (sau này là Bộ trưởng Ngoại giao trong chính phủ hòa hợp dân tộc ba phái do hoàng thân Xu-pha-na Phu-ma làm thủ t ướng) và đồng chí Chu Huy Mân - Đoàn trưởng Đoàn chuyên gia quân sự Việt Nam tại Lào.
Tổ bay An-2 trở về Gia Lâm an toàn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

Sau 17 ngày đêm, tổ bay Mi-4 tuy không hoàn thành nhiệm vụ bay đón khách nhưng đã trở về đơn vị, mặc dù bị kẻ địch truy lùng và một người trong đoàn đã anh dũng hy sinh.

Sau này, cả hai tổ bay An-2 và Mi-4 được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Ba, được Đại tướng Võ Nguyên Giáp tặng hoa và chụp ảnh lưu niệm.
 

Baoleo

Xe tăng
Biển số
OF-320235
Ngày cấp bằng
19/5/14
Số km
1,071
Động cơ
326,722 Mã lực
Xin mời các bác tham khảo câu chuyện: ‘Phi công Xô-viết trên bầu trời Bắc Việt’.
Tác giả là Phi công Xô-viết Isaev Piotr Ivanovitch .

Tài liệu này do bác qtdc trong quansu.net biên soạn.

Xin đề - mô trước: giấy ‘Chứng Minh Thư quân nhân’ của Phi công Xô-viết Isaev Piotr Ivanovitch, do Quân đội nhân dân Việt Nam cấp, trong thời kỳ chiến tranh.

 

Baoleo

Xe tăng
Biển số
OF-320235
Ngày cấp bằng
19/5/14
Số km
1,071
Động cơ
326,722 Mã lực
Phi công Xô-viết trên bầu trời Bắc Việt

Giới thiệu

Piotr Ivanovich Isaev - đại tá không quân. Sinh ngày 05 tháng 8 năm 1933 tại làng Grano-Maiak thuộc khu Altai (Siberie). Năm 1955, tốt nghiệp Trường đào tạo phi công Hải quân ở Eisk và được phân công tới phục vụ tại Hạm đội Thái Bình Dương. Trước năm 1960 ông phục vụ trên các cương vị phi công, phi công trưởng, biên đội trưởng thuộc trung đoàn không quân tiêm kích hải quân. Năm 1960 chuyển sang phục vụ tại trung đoàn không quân tiêm kích thuộc bộ đội phòng không Quân khu Viễn Đông với chức vụ biên đội trưởng.

Năm 1961 ông vào học tại Học viện Không quân Yu.A.Gagarin. Năm 1965, sau khi tốt nghiệp Học viện hạng ưu tú, ông được bổ nhiệm phi đội trưởng một phi đội máy bay tiêm kích thuộc quân khu PriBaltic. Năm 1968 ông được bổ nhiệm Trung đoàn phó trung đoàn không quân tiêm kích ngay tại quân khu này, và năm 1971 chuyển sang phục vụ tại Cụm quân Bắc quân đội Xô Viết đóng tại Ba Lan. Cùng năm đó được bổ nhiệm làm Trung đoàn trưởng trung đoàn không quân tiêm kích.

Từ tháng 8 năm 1968 đến tháng 7 năm 1969 đã tham gia vào hoạt động chiến đấu tại Việt Nam với tư cách trưởng nhóm chuyên gia không quân Liên Xô tại một trung đoàn không quân tiêm kích, binh chủng Không quân Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Từ tháng Năm năm 1973 đến tháng Ba năm 1976 công tác biệt phái tại Syria trên cương vị cố vấn cho Lữ đoàn trưởng lữ đoàn không quân tiêm kích lực lượng Không quân CH Arab Syria.
Từ năm 1976 đến 1990 - Nghiên cứu viên cao cấp tại Học viện Không quân mang tên Yu.A.Gagarin. Sau khi ra khỏi Quân đội, ông tiếp tục hoạt động với tư cách cộng tác viên khoa học tại học viện này.

Được trao tặng huân chương "Sao Đỏ", huân chương "Phục vụ Tổ quốc trong lực lượng vũ trang Liên Xô» hạng III, bằng danh dự "Chiến sỹ làm nhiệm vụ quốc tế" và 15 huy chương.
Được Chủ tịch nước VNDCCH Hồ Chí Minh trao tặng huân chương "Chiến công» hạng III, cũng như huy chương "Vì tình bạn chiến đấu".

Đây là ảnh Phi công tác giả Isaev Piotr Ivanovitch, trên đất Bắc Việt





Tôi đến Việt Nam công tác từ Trung đoàn không quân tiêm kích cận vệ số 53 được trang bị máy bay MiG-21, đóng quân tại thành phố Siauliai nước CHXV Lithuania, với chức trách phó chỉ huy trung đoàn. Tại đó còn có bộ tham mưu sư đoàn chúng tôi, thời đó do thiếu tướng không quân Antsiferov Evgeny Nikolaevitch chỉ huy, người sau này trở thành thủ trưởng trực tiếp của tôi, khi ông giữ trọng trách Trưởng nhóm chuyên gia Không quân Xô Viết tại Việt Nam. Trước khi đi Việt Nam, ông đến trung đoàn của chúng tôi, để nói lời tạm biệt với tập thể quân nhân. Chúng tôi chúc ông thượng lộ bình an và thành công trong môi trường hoạt động mới của mình. Ông cảm ơn chúng tôi và sau đó quay sang tôi mỉm cười nói: "Cậu Isaev này, tôi sẽ đưa cậu theo tôi sang Việt Nam". Câu nói đùa của tư lệnh sư đoàn sau này đã trở thành hiện thực.


Phi công tác giả Isaev Piotr Ivanovitch trên buồng lái MIG 21 của Bắc Việt Nam


 

Baoleo

Xe tăng
Biển số
OF-320235
Ngày cấp bằng
19/5/14
Số km
1,071
Động cơ
326,722 Mã lực
Phi công Xô-viết trên bầu trời Bắc Việt
(tiếp)

Tôi đến Việt Nam công tác từ Trung đoàn không quân tiêm kích cận vệ số 53 được trang bị máy bay MiG-21, đóng quân tại thành phố Siauliai nước CHXV Lithuania, với chức trách phó chỉ huy trung đoàn. Tại đó còn có bộ tham mưu sư đoàn chúng tôi, thời đó do thiếu tướng không quân Antsiferov Evgeny Nikolaevitch chỉ huy, người sau này trở thành thủ trưởng trực tiếp của tôi, khi ông giữ trọng trách Trưởng nhóm chuyên gia Không quân Xô Viết tại Việt Nam. Trước khi đi Việt Nam, ông đến trung đoàn của chúng tôi, để nói lời tạm biệt với tập thể quân nhân. Chúng tôi chúc ông thượng lộ bình an và thành công trong môi trường hoạt động mới của mình. Ông cảm ơn chúng tôi và sau đó quay sang tôi mỉm cười nói: "Cậu Isaev này, tôi sẽ đưa cậu theo tôi sang Việt Nam". Câu nói đùa của tư lệnh sư đoàn sau này đã trở thành hiện thực.

Về nguyên tắc, tôi đang mong một chuyến công tác biệt phái tại một đất nước khác. Điều này được giải thích bởi thực tế là tại sư đoàn đã thành lập thêm biên chế bổ sung cho một số chức trách ban bay: Phó chỉ huy trung đoàn, phi đội trưởng và phi đội phó phi đội này. Bằng cách đó người ta đã tạo ra ban chỉ huy dự bị cho sư đoàn, cho phép khi cần thiết phái đội ngũ ban bay đi công tác biệt phái mà không ảnh hưởng đến huấn luyện chiến đấu của đơn vị có người đi công tác. Vì vậy, tất cả những người đã vào biên chế dự bị ấy ở bất kỳ thời điểm nào cũng phải sẵn sàng khởi hành đi công tác nước ngoài.

Ảnh:Hàng 1: Trưởng đoàn chuyên gia quân sự Xô Viết tại Việt Nam trung tướng Аbramov V.N., Hàng 2: ở giữa là trưởng nhóm chuyên gia không quân Xô Viết thiếu tướng Аntsiferov Е.N., trưởng nhóm chuyên gia tên lửa phòng không Xô Viết đại tá Stutchilov А.I.


 
Biển số
OF-3680
Ngày cấp bằng
7/3/07
Số km
10,879
Động cơ
663,247 Mã lực
Tuổi
49
Hay quá .. tiếp đi bác Baoleo .. hình như đúng quyển sách của cựu chiến binh LX mà em đã từng được đọc ..
 

Baoleo

Xe tăng
Biển số
OF-320235
Ngày cấp bằng
19/5/14
Số km
1,071
Động cơ
326,722 Mã lực
Phi công Xô-viết trên bầu trời Bắc Việt
(tiếp)

Và thời điểm đó đã đến.
Tôi và phi đội phó đại úy V.Velikanov, cũng như đại úy kỹ thuật hàng không Tomilets G.R. được trung đoàn trưởng triệu tập lên phòng ông, trao cho chúng tôi mệnh lệnh sơ bộ về việc chuẩn bị đi biệt phái công tác tới Việt Nam.
Và sau đó tất cả mọi thứ đi theo sơ đồ đã định: trò chuyện trao đổi và dặn dò của các chỉ huy, cuộc trình diện Hội đồng Không quân, ở đó người ta say sưa nghe báo cáo của chúng tôi về nguyện vọng và sự sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ của chính phủ trao cho chúng tôi.
Và cuối cùng, cuộc trình diện tại Moskva.
Đầu tiên, chúng tôi được hướng dẫn ở Cục Huấn luyện Chiến đấu Bộ Tổng tham mưu lực lượng Không quân, và sau đó đến Văn phòng Bộ Tổng tham mưu các lực lượng vũ trang Liên Xô. Ở đây chúng tôi được ủy ban thẩm tra thông qua, và tôi vẫn còn phải tới các phòng ban mà người ta chỉ định, nơi các sỹ quan của văn phòng cho tôi các chỉ dẫn cuối cùng, còn tại căn phòng cuối cùng tôi phải làm quen với một danh sách các tài liệu kỹ thuật có sẵn tại Việt Nam và về sự cần thiết đặt những tài liệu bổ sung.

Sau khi xin phép, tôi bước vào căn phòng này.
Sau bàn là một ông già, trông như một thiếu tá về hưu và đang nói chuyện điện thoại với một Maria Vanovna nào đó về khả năng điều trị bệnh đau thần kinh tọa, ông chỉ cho tôi ngồi xuống một chiếc ghế, vẫn tiếp tục nói chuyện điện thoại, nhưng với một chủ đề khác - làm thế nào để muối dưa chuột và cà chua .

Nhìn thấy nỗi mệt mỏi của tôi, ông kết thúc cuộc trò chuyện và hỏi: "Anh đi đâu? "Đi Việt Nam" - tôi trả lời. "Tốt!" - Ông nói. "Bây giờ tôi sẽ đọc cho anh biết ở đó có những sách kỹ thuật nào, sau đó anh hãy nói anh muốn nhận được thêm những gì".
Ông mở các thư mục và bắt đầu đọc một danh sách các tài liệu tham khảo liên quan đến tên lửa phòng không ở Việt Nam.
Tôi nói với ông rằng tôi là phi công-nhà hàng không, và tôi cần những cuốn sách về các chủ đề hàng không.
Ông ta trả lời rằng cái đó không có nhiều, và tiếp tục đọc danh sách.
Tôi không ngắt lời ông ta nữa.
Sau khi đã đọc xong tài liệu gì đó về xe tăng, ông chuyển sang các sách cho các chuyên gia hàng không.
Sau đó ông hỏi tôi: "Nào, anh sẽ đặt hàng tài liệu gì đây?".
Tôi đáp lại là sẽ không đặt cuốn nào cả, tôi thích tài liệu có sẵn ở đó. "Phải," - thiếu tá nói - "khi tài liệu đến nơi, anh bạn đã trở về nhà rồi".
Từ những lời khôn ngoan của viên thiếu tá trên, tôi hiểu ra rằng mạch giao thông vận tải giữa Việt Nam và Liên Xô đã bị phá hủy, và người ta thường không nhận được tin tức từ bạn bè và người thân. Tất cả những điều ấy sau này đã được thực tế xác nhận.

Hoàn thành xong các công việc trên, người ta cho chúng tôi về nhà, sau khi tuyên bố trước là sẽ thông báo cho chúng tôi thời điểm phải tập trung tại Moskva cho chuyến đi tới Việt Nam.
Khi trở về trung đoàn, chúng tôi cùng với đại úy Velikanov lại tích cực tham gia vào các hoạt động bay.
Khi thực hiện những chuyến bay tập luyện, được tổ chức vào thời gian đó tại trung đoàn, đã có những bất ngờ xảy ra: trong quá trình cất cánh từ mặt đất khi mang tải trọng bom, máy bay của Velikanov bị hư hại sát xi càng trái, kết quả là lúc hạ cánh phi công đã bị thương và bị gạch tên khỏi công tác bay. Vậy là, nhóm đã được lên kế hoạch đi công tác biệt phái của chúng tôi bị mất một phi công, ngay trước khi đến Việt Nam.
Một vài ngày sau người ta triệu tập chúng tôi đến Moskva. Cùng có mặt còn có các cô vợ của chúng tôi, đến tiễn chúng tôi đi vào hành trình dài.

Trước khi khởi hành cần thực hiện một vài hành động nữa: trao lại thẻ **** tại Ủy ban Trung ương, *** Liên Xô, làm các giấy tờ thủ tục về tài chính và nhận trang phục.
Số lượng đồng phục được cấp phát, theo ý kiến của tôi, đủ cho ba năm. Vỏ nệm được bó lại bằng dây. Phát sinh vấn đề, mang gì theo mình đây.
Tôi đặc biệt bận tâm về vấn đề làm gì với đôi ủng cao su - mang đi hay không mang đi? Một mặt, nếu mang đi sẽ mất thêm chỗ trong va li. Mặt khác, một ý nghĩ trở nên sắc nhọn - nếu cho họ thì có phí không, nghĩa là, ở đó họ có thể cần nó.
Và chợt tôi thấy một nhóm sỹ quan ngày hôm qua vừa trở về từ Việt Nam. T
ôi tiếp cận một người trong số họ, và không làm mất thời gian, tôi hỏi thẳng: "Anh hãy cho tôi biết, ủng cao su có cần thiết hay không?". "Sao thế anh bạn - ông ấy nói - "ở bên ấy anh không thể không có nó được, nhất định phải mang nó đi".

May mắn thay trong nhóm này lại có người tiền nhiệm của tôi, người mà tôi phải đến thay phiên. Các sĩ quan văn phòng Bộ Tổng tham mưu đã tập trung tôi với ông ta lại, dành cho chúng tôi một phòng riêng để nói chuyện. Ông ấy giới thiệu cho tôi tình hình chính trị-quân sự đất nước này, tình hình công việc trong trung đoàn không quân, và cũng chỉ ra những điều tôi cần chú ý.
........


Phi công Xô viết và bộ đội Việt Nam


 

Baoleo

Xe tăng
Biển số
OF-320235
Ngày cấp bằng
19/5/14
Số km
1,071
Động cơ
326,722 Mã lực
Phi công Xô-viết trên bầu trời Bắc Việt
(tiếp)

Về các nghĩa vụ cá nhân của tôi, tôi đoán chừng dựa theo tên gọi chức trách của mình.
Còn nói, một cách chung chung được gọi như sau - trưởng nhóm chuyên gia hàng không Liên Xô tại trung đoàn không quân tiêm kích lực lượng không quân QĐNDVN - Chuyên gia bên cạnh trung đoàn trưởng không quân tiêm kích - phi công - huấn luyện viên.
Nghĩa là, tương ứng tôi sẽ có nghĩa vụ chỉ huy nhóm của mình, giúp chỉ huy trung đoàn nâng cao trình độ huấn luyện chiến đấu của trung đoàn và thực hành đào tạo ban bay về kỹ thuật lái và áp dụng nó vào chiến đấu trên máy bay MiG-21.
Còn người tiền nhiệm của tôi giới thiệu cho tôi những phương pháp làm việc trong điều kiện chiến đấu của Việt Nam.
Tôi cảm ơn ông về cuộc trò chuyện về công việc, cuối cùng hỏi ông một câu hỏi rất thường:
"Thế đôi ủng cao su có nên mang theo không?".
"Ủng thì ở đó không cần đâu" - người trò chuyện với tôi trả lời.
"Nhưng một đồng chí lại nói với tôi rằng nhất định phải mang nó theo" - tôi gạn hỏi.
Và khi đó ông ấy giải thích với tôi rằng tôi đã nói chuyện với chuyên gia tên lửa phòng không nào đó rồi, vì họ thực sự cần chúng.
Sau mỗi đợt phóng tên lửa, họ thường xuyên phải thay đổi vị trí trận địa trong rừng rậm. Thế nên họ thực sự cần những đôi giày đó. Vậy là vấn đề với các đôi ủng cao su đã được giải quyết.

Một vài ngày sau, nhóm chúng tôi, gồm khoảng 24-26 người được đưa đến sân bay.
Nhóm gồm phần lớn là sĩ quan tên lửa phòng không, còn các nhà hàng không chúng tôi thì chỉ có hai phi công.
Đi cùng chúng tôi sau kỳ nghỉ phép trở về là Phó trưởng đoàn chuyên gia quân sự Xô Viết phụ trách công tác chính trị, đại tá Polivayko Evgeny Ivanovitch.

Việc chia tay diễn ra rất buồn.
Vợ và người thân của chúng tôi đã khóc.
Đàn ông, cố gắng trong mức có thể, an ủi họ, và trong tâm hồn mỗi người chúng tôi đều cảm thấy xao xuyến, tôi tin rằng, ai cũng mong muốn nhanh chóng kết thúc thời gian chia ly nặng nề này và xe buýt đã nổ máy đi tới sân bay.

Vào thời gian đó, từ Moskva tới Bắc Kinh người ta chỉ thực hiện tất cả có một chuyến bay.
Đồng thời, cứ một ngày chuyến bay được phi hành đoàn Trung Quốc thực hiện trên máy bay của mình, và ngày hôm sau chuyến bay lại được phi hành đoàn của chúng tôi thực hiện.

Chúng tôi đã gặp may - chúng tôi bay trên một máy bay Tu-104 của hãng Aeroflot với phi hành đoàn của chúng tôi.
Qua hai lần hạ cánh tại sân bay trung gian chúng tôi đã đến Bắc Kinh.
Lúc này quan hệ giữa Liên Xô và Trung Quốc đã xấu nhiều.
Ở Trung Quốc, Cách mạng Văn hóa đang hoành hành.
Sau khi hạ cánh, quân biên phòng Trung Quốc vào thẳng trong máy bay bắt đầu kiểm tra hộ chiếu.
Sỹ quan trực ban bằng một thứ tiếng Nga trọ trẹ hỏi:
"Các anh bay đi đâu và các anh là ai?".
Trưởng nhóm của chúng tôi nói rằng chúng tôi bay đến Việt Nam và là chuyên gia.
"Nhưng các anh là chuyên gia về cái gì?". Anh ta tò mò hỏi.
"Chúng tôi là những chuyên gia về điện" - trưởng nhóm lại trả lời, và bằng cử chỉ, ông lấy tay miêu tả quá trình xoáy bóng đèn vào đui cắm.
Viên sĩ quan gật đầu tỏ dấu hiệu cho thấy anh ta đã hiểu tất cả, và yêu cầu chúng tôi rời khỏi máy bay.

Khi đi xuống cầu thang, chúng tôi nghe thấy bài hát nổi tiếng ở đất nước ta và ở Trung Quốc, bài hát "Moskva-Bắc Kinh". Loa phóng thanh mở hết công suất phát ra điệp khúc: "Stalin và Mao đang lắng nghe chúng ta ...». Một cặp thực hiện bằng tiếng Nga, một cặp thực hiện bằng tiếng Trung Quốc. Chúng tôi lập tức hiểu rằng bài hát được chơi dành riêng cho hành khách của chiếc máy bay của chúng tôi. Trong tòa nhà ga hàng không buổi hòa nhạc được lặp đi lặp lại, nhưng như người ta nói dàn nhạc sống: một dàn hợp xướng lớn, bao gồm người lớn, trẻ em và người già hát những bài hát phổ biến ở đất nước ta cũng như ở Trung Quốc.

Sau khi điền vào tờ khai, chúng tôi được mời lên máy bay, tiếp tục bay theo lộ trình Bắc Kinh-Quảng Châu (Canton).
Đó là một chiếc máy bay Il-18 và nhóm hành khách chính là nhóm của chúng tôi. Sau khi máy bay cất cánh và lấy được độ cao đã định, hai nữ tiếp viên bắt đầu đọc các trích đoạn của Mao Trạch Đông bằng tiếng Anh và múa các điệu múa nghi lễ dành cho lãnh tụ của họ.

Tại Quảng Châu, chúng tôi ngồi đợi hai ngày. Phụ trách sân bay giải thích rằng khí tượng bay tại Việt Nam chưa phù hợp.
Chúng tôi được bố trí trú tại khách sạn, nơi phải trả cho chỗ ở cũng như cho bữa ăn trong nhà hàng 25 nhân dân tệ, mà chúng tôi được cấp phát ở Moskva. Và nếu tính đến một số đồng chí đã tiêu tốn tiền ở Bắc Kinh, có thể cho rằng vào ngày thứ hai, nhiều người đã cạn tiền bạc. Tư vấn thì chẳng có ai - chúng ta không có Lãnh sự quán tại Quảng Châu. Chúng tôi quyết định gọi cho đại sứ quán của chúng tôi tại Bắc Kinh. Trưởng nhóm đi gọi điện, còn chúng tôi phải chờ kết quả của cuộc trao đổi. Kết quả là thế này - tại đại sứ quán người ta khuyên không nên ký bất cứ giấy tờ nào của khách sạn hoặc nhà hàng, và lúc chia tay hãy nói: "Các đồng chí hãy giữ lấy".

Và sau 10 phút người Trung Quốc mang lại phiếu thanh toán 25 nhân dân tệ cho cuộc đàm thoại. Lối thoát chỉ có một - đặt tất cả tiền bạc của ai còn lại, trả cho tất cả mọi thứ và đợi đến lúc ra phòng đợi ở sân bay chờ chuyến bay tiếp.

Lãnh đạo sân bay, sau khi hiểu rõ tình trạng khó khăn về tài chính của chúng tôi, quyết định rằng việc giữ chúng tôi lại sân bay không còn hữu ích nữa, chấp thuận cho chuyến bay tới Việt Nam xuất phát. Họ xếp chúng tôi lên một chiếc IL-14 hai động cơ piston và chúng tôi bay đi Việt Nam. Trong chuyến bay, phục vụ chúng tôi là một nam tiếp viên trẻ dáng người cao có đôi vai rộng và một nữ tiếp viên nhỏ nhắn xinh xắn. Họ cũng bắt đầu đọc các trích tuyển của Mao Trạch Đông, và chúng tôi thì thiếp đi vì kiệt sức. Và đột nhiên, họ dừng đọc và người nam tiếp viên nói bằng một ngôn ngữ Nga thuần khiết: "Chúng ta hãy hát bài hát "Chiều Moskva". Và cả hai bằng một giọng tuyệt đẹp cất tiếng hát bài hát này, tất cả chúng tôi như run lên, cùng cất tiếng đồng ca theo họ. Cứ như vậy cho đến khi hạ cánh tại sân bay Gia Lâm của Việt Nam, chúng tôi hát những bài hát Nga.

Phi công LX trong quần áo bay VN





Phi công LX hiệp đồng chiến đấu trên mặt đất

 
Thông tin thớt
Đang tải
Top