Miền Bắc đã có lịch sử ngàn năm sống chung với lũ rồi.
Từ những năm 1990 trở về trước sông Hồng và các sông lớn ở Miền Bắc liên tục có báo động. Hầu như mùa lũ bao giờ cũng có người trực và cảnh báo cấp báo động trên đê (cấp 1 là 1 cái mẹt, cấp 2 là 2 cái mẹt, cấp 3 là 3 cái mẹt treo trên 1 cái cột). Toàn dân, nhà nào cũng phải góp tre, rơm, nhân công để tham gia hộ đê nếu có sự cố.
Năm 1971 vỡ đê quê em ngập khoảng 1,5 m. Nhưng người dân lúc đó mỗi nhà chỉ có 1 cái xe đạp (nhà có điều kiện), 1 con lợn, mấy con gà, mấy bao lúa, xoong nồi, làm mấy cây tre hay cây xoan gác ngang xà nhà là cả nhà mang giường chiếu lên đó sống được rồi. Đi vệ sinh thì lấy mấy cây chuối ghép lại thành cái bè rồi đi ra xa xa một tí. Trộm vía là dân ăn bẩn quen nên cũng ít dịch bệnh (Đi làm cả ngày ngoài đồng mà chẳng có ai mang nước uống bao giờ, khát thì uống nước mương, nước ruộng).
Bây giờ thì khác rồi. Từ sau khi đập Hòa Bình xây xong, cắt lũ cho hạ du thì vùng hạ du không còn bị nguy hiểm nữa. Các vùng phân lũ, chậm lũ như Sông Đáy, Phú Thọ cũng bỏ đi rồi.
Ngoài ra, dân bây giờ cũng rất giàu so với ngày xưa, tủ lạnh, máy giặt, tv, ô tô, xe máy đã trở thành vật dụng thông thường, hầu như nhà nào cũng có. Cho nên nếu có ngập thì nhiều của quá, chạy không kịp, đâm ra thiệt hại nhiều. Hơn nữa, biến đổi khí hậu làm cho bão lũ bất thường, khó dự đoán, kèm theo tốc độ đô thị hóa, bê tông hóa, hồ ao san lấp, sông ngòi bị lấn chiếm hành lang thoát lũ, qui hoạch kém không theo kịp với sự phát triển và dự báo được các trường hợp cực đoan.
Do vậy, những thiệt hại vừa rồi là do cả trời và do cả người.
Trừ mấy tỉnh miền núi và ven biển như Đà Lạt, Quảng Ninh,... mưa to vẫn bị ngập thì là do biến đổi khí hậu và qui hoạch đô thị kém, không tính đến được.
Còn mấy tỉnh như Thái Nguyên, Bắc Ninh vừa rồi có bị ngập thì cũng không hẳn là lỗi do qui hoạch mà chủ yếu do trời. Vì mưa lớn 300 - 500 mm trên diện rộng như thế đã làm cho nước Sông Cầu dâng cao. Mực nước ngoài sông dâng cao, vậy thì nước mưa ở trong các khu dân cư tiêu đi đâu được cho hết?
Khi qui hoạch, người ta cũng tính toán với xác suất/tần suất xảy ra mưa lớn, thường chỉ 100 - 200 mm thôi. Ví dụ trận lụt lịch sử năm 2008 ở Hà Nội thì mưa cũng chỉ khoảng hơn 200 mm. Do vậy mà mưa đến 500 mm thì không ai tính đến, và nó nằm ở phần rủi ro thiên tai.
Những rủi ro thiên tai như vậy thì đất nước nào cũng phải chịu, kể cả giàu có và khoa học kỹ thuật phát triển đến mấy. Các nước như Mỹ, Nhật, Đức, Trung Quốc, Hàn Quốc, Hà Lan, Thái Lan, ... đều phải chịu cả, không riêng gì Việt Nam.
Vậy bài học rút ra là gì để giảm thiểu các thiệt hại sẽ xảy ra trong tương lai?
1) Cần phải quan tâm hơn đến công tác thủy lợi, bắt đầu từ nguồn nhân lực đến cơ sở hạ tầng như tổ tiên ta đã làm hàng ngàn năm nay. Công tác qui hoạch đô thị, qui hoạch giao thông và có những người có kiến thức chuyên sâu về thủy lợi tham gia cùng.
Hiện nay qui hoạch đô thị chủ yếu do xây dựng đảm nhiệm dựa trên các tiêu chuẩn lạc hậu và manh mún cho nên nhiều khu đô thị bị ngập thường xuyên như khu Nam An Khánh, Geleximco, đô thị TP Giao lưu, v.v..
Tương tự, qui hoạch cầu cống thoát nước giao thông cũng do bên giao thông tính toán theo các tiêu chuẩn lạc hậu nên một tuyến đường làm xong được xây vắt ngang qua khu tràn lũ với khẩu độ cống quá nhỏ thì cản trở tiêu nước mưa làm cho ngập lụt nhiều hơn và kéo dài hơn. Ví dụ cho kiểu này điển hình ở các tỉnh Miền Trung.
2) Tính toán lại thủy văn xét đến các kịch bản lũ, bão bất thường do biến đổi khí hậu. Đầu tư đo đạc lại địa hình độ phân giải cao, cập nhật lại cơ sở hạ tầng vài năm 1 lần để làm cơ sở cho các tính toán. Thành lập bản đồ ngập lụt theo các kịch bản để phục vụ qui hoạch giao thông, đô thị và cảnh báo, lên các phương án sơ tán, di dời dân khi có thiên tai tương ứng xảy ra.
3) Đầu tư trang thiết bị, các hệ thống dự báo, cảnh báo, quan trắc mưa bằng radar, tính toán lũ và ngập lụt gần với thời gian thực để cảnh báo cho nhân dân và lên các phương án ứng phó khi xảy ra thiên tai.
4) Qui hoạch, thiết kế đô thị chống chịu được với mưa, lũ dạng các đô thị bọt biển. Qui hoạch hệ thống các ao, hồ chứa nước, mương tiêu, cống ngầm theo các tiêu chuẩn được cập nhật dựa trên các tính toán mới. Hạn chế bê tông cứng hóa mà tăng cường cây xanh và nước thấm xuống đất. Đầu tư các trạm bơm tiêu úng cho các khu vực nước mưa không tự chảy được.
5) Tăng cường nhận thức của người dân bằng việc công bố công khai và chi tiết các bản đồ nguy cơ ngập lụt (phạm vi, độ sâu ngập), phát triển các ứng dụng tương tác với người dân cho công tác phòng, tránh thiên tai.