Gủi các cụ bài viết của cụ Trịnh Hòa Bình - cựu chiến binh đã tham gia chiến trận ở Quảng Trị
----
MƯA ĐỎ & 81 NGÀY ĐÊM
Đó là một lát cắt của 81 ngày đêm BẢO VỆ THỊ XÃ QUẢNG TRỊ.
Một bộ phim truyện khá hay và lấy được nhiều nước mắt của dân chúng.
Hầu hết các cựu binh từng chiến đấu trong thành cổ Quảng Trị năm 1972 đã và sẽ đi xem. Nhưng số này không còn nhiều, nay đều đã ngoài 70. Họ xem để thấy lại mình trong đó. Đây là những người xem rất khắt khe. Mỗi chi tiết không đúng trong thực tế chiến trường sẽ được họ mổ xẻ phân tích kỹ lưỡng. Và họ thường ít chấp nhận những sáng tạo của đạo diễn nếu điều đó không có trong thực chiến của họ.
Trước hết, để hiểu rõ về lực lượng quân ta, tôi xin liệt kê ra đây danh sách Ban chỉ huy của chiến dịch Bảo vệ thị xã Quảng Trị (BCH BVTXQT) và danh sách các đơn vị tham gia chiến đấu trong thị xã.
Lúc đầu, tháng 7/72, BCH BVTXQT là Trung tá Bùi Thúc Dưỡng, phó TM trưởng BTL mặt trận B5 được chỉ định xuống làm Chỉ huy trưởng. (ông cụt một cánh tay hồi đánh Pháp nên thường được gọi là Dưỡng Cụt). Đi cùng xuống BCH BVTXQT có Trung tá Bình, phó Cục trưởng Cục Chính Trị B5 làm Chính ủy. Thiếu tá Lê Quang Thúy, trung đoàn phó e48 làm phó BCH BVTXQT. Các cơ quan Tham mưu, Chính trị, Hậu cần của e48 trở thành 3 cơ quan phục vụ BCH BVTXQT.
Trước khi có BCH hỗn hợp BVTXQT, thì các đơn vị tự chiến đấu thông qua hợp đồng tác chiến với các đơn vị khác trong thị xã.
Đến 14/7/72 ông Dưỡng bị thương phải ra trạm phẫu ở bờ Bắc thì ông Bình cũng ra cùng.
BTL mặt trận B5 cử Trung tá Trịnh Hùng Thái, Tham mưu trưởng sư đoàn 320b làm Chỉ huy trưởng thay ông Dưỡng.
Khoảng 20/7/72 ông Thái cũng bị thương phải đưa ra.
Đêm 22.7.1972, Ban chỉ huy trung đoàn 95 vượt sông Thạch Hãn. Các tiểu đoàn d4, d6 của trung đoàn 95 cùng K3 Tam Đảo tăng cường vào thị xã Quảng Trị đã sang từ trước đó. Tiểu đoàn 4 vào đêm 13/7. Tiểu đoàn 6 vào đêm 17/7. Tiểu đoàn 5 sang sông ban ngày (10g30 ngày 23/7). Chiều 22.7 d5 cùng BCH e95 vượt sông, d5 sang được 1/3 đội hình thì bị lộ, pháo bắn chặn ở bến vượt. Nên hôm sau d5 mới tổ chức vượt sông ban ngày. Khi đó nước sông khá nông. Tổng số quân trong thị xã lúc này là 8 tiểu đoàn. Khi đó Bộ tư lệnh mặt trận B5 quyết định thành lập BCH hỗn hợp BVTXQT, và Ban Cán sự Đảng khu vực TX (9 người), như sau:
-Lê Quang Thuý, trung đoàn trưởng e48 làm Chỉ huy trưởng.
-Hoàng Thiện, chính ủy trung đoàn e95 làm Chính ủy kiêm Bí thư Ban Cán sự Đảng khu vực TXQT
-Trần Minh Vân trung đoàn phó e48, Vũ Thả trung đoàn phó e95 cùng ông Kiện Toàn, Tỉnh đội QT đều làm Phó chỉ huy BCH BVTXQT.
-Vũ Quang Thọ, phó chính ủy trung đoàn e95 làm Phó chính ủy BCH BVTXQT.
-Nguyễn Hải Như, Tham mưu trưởng e48 làm Tham mưu trưởng BCH BVTXQT.
-Nguyễn Văn Tá, chủ nhiệm chính trị e48 làm chủ nhiệm chính trị BCH BVTXQT.
Ban cán sự Đảng có 9 người, trong đó 8 người trong BCH và Trần Ngọc Long (khi đó là tiểu đoàn trưởng, sau lên ban tham mưu e48).
Quyết định này vào ngày 23/7/72, và tối hôm đó 3 vị Chỉ huy trung đoàn 95 đã tới dinh Tỉnh trưởng ngụy cũ làm nhiệm vụ. Các vị chỉ huy của trung đoàn 48 đã có ở đây từ trước.
Sau này, khi BQP cho Tổng kết năm 2006, thì mới chuyển cụm từ BẢO VỆ THỊ XÃ QUẢNG TRỊ thành BẢO VỆ THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ, do truyền thông đã gọi là Thành cổ trước đó.
Chiến dịch BVTXQT bắt đầu từ ngày 28.6.1972 và kết thúc ngày 16.9.1972. Tổng cộng là 81 ngày đêm.
Những nội dung này là thực tế trong cuộc chiến đấu BVTCQT và đã được ghi trong TỔNG KẾT TÁC CHIẾN BẢO VỆ THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ NĂM 1972 của Bộ quốc phòng QĐNDVN.
Đánh giá chung của anh em cựu binh từng chiến đấu trong thành cổ Quảng Trị năm 1972, thì Mưa đỏ là một bộ phim đáng để xem dù rằng còn nhiều điều chưa hợp lý, chưa đúng với sự thật lịch sử. Nhưng chúng ta sẽ phải đánh giá Mưa đỏ dưới hai góc nhìn: Phim truyện - và phim Lịch sử.
Dưới góc độ PHIM TRUYỆN, Mưa đỏ đã truyền tải được tính khốc liệt, tính nhân văn, sự tàn nhẫn của phận người, sự cao cả và đớn hèn, tình yêu và dục vọng… Đó là một câu chuyện có cái kết mở với hình ảnh hai bà mẹ cùng chung một dòng sông, gợi đến một sự HOÀ HỢP DÂN TỘC mà bao nhiêu năm nay chúng ta vẫn tìm kiếm. Và cùng với HOÀ HỢP DÂN TỘC là KHÁT VỌNG HÒA BÌNH VĨNH VIỄN của một đất nước đã trải qua nhiều cuộc chiến tranh.
Dưới góc độ là PHIM TRUYỆN, bộ phim đã hoàn thành sứ mệnh của mình, truyền tải được những điều tác giả và đạo diễn muốn nói, đưa khán giả đến với một lát cắt của cuộc chiến 81 ngày đêm tại thành cổ Quảng Trị mà rất nhiều người chưa từng biết.
Nhưng doanh thu phòng vé cao ngất ngưởng chưa hẳn là thành công của một bộ phim. Nhất là với một bộ phim có tính lịch sử.
Dưới góc độ là PHIM LỊCH SỬ, tôi đánh giá Mưa đỏ chưa đạt yêu cầu. Đừng nói vì thời gian gấp gáp quá. Bởi hạn mức thời gian là do chúng ta tạo ra. Đừng nói vì kinh phí hạn hẹp, bởi có những điều không phải do kinh phí. Cũng đừng nói “Nữ đạo diễn làm được phim thế này là hay rồi”. Nói như vậy là bao biện và có hàm ý phân biệt giới tính.
Như tôi đã từng viết “những người chưa từng trải qua chiến trận, chưa từng qua chiến tranh, họ đến xem vì tò mò, vì tự hào dân tộc, vì sự lôi kéo của đám đông và truyền thông. Đối tượng này có lẽ là lớn nhất, làm đầy các phòng vé. Họ chấp nhận tất cả những gì kịch bản và đạo diễn đưa ra, như một đứa trẻ, như một trang giấy trắng. Bởi vậy, mỗi chi tiết trong phim phải thật cẩn trọng. Không cứ Mưa đỏ, mà phim nào trên thế giới cũng vậy. Ví dụ như anh chàng Michail trong phim Bố Già mà đeo đồng hồ điện tử là không ổn rồi. Những người chưa từng biết đến trận chiến bảo vệ thị xã Quảng Trị 1972, những người như trang giấy trắng, sẽ phải đón nhận những thông tin sai lệch về trận chiến này, và họ sẽ lưu giữ mãi điều đó”.
Điều thứ nhất tôi muốn nói, cuộc chiến đấu BẢO VỆ THỊ XÃ QUẢNG TRỊ là bao gồm thành cổ Quảng Trị và các làng xã xung quanh. Đó là các địa danh: nhà thờ Trí Bưu, thánh địa La Vang, chợ Sải, làng Hạnh Hoa, ngã ba Long Hưng… mà thành cổ nằm ở trung tâm các địa danh ấy về phía Bắc, phía sau thành cổ là sông Thạch Hãn. Từ những ngày đầu tiên của 81 ngày đêm bảo vệ thị xã Quảng Trị cho đến khoảng 10.9.1972, các trận đánh ác liệt giằng co chỉ diễn ra ở các làng xã xung quanh ấy, chưa bao giờ trong lòng thành cổ. Quân địch cũng từng muốn đặt chân lên thành cổ để tạo áp lực cho hội nghị tại Paris, nhưng không thể. Đêm 22 rạng sáng 23.7, một trung đội lính dù đã lẻn vào thành để tìm cách cắm cờ, nhưng đã bị tiêu diệt. Phải gần hai tháng sau, đến sáng ngày 15.9.1972, lực lượng Thuỷ quân Lục chiến với sự yểm trợ của pháo binh, xe tăng, máy bay mở một đợt tổng công kích vào khu vực trường Bồ Đề, từ đó tiến sát dinh Tỉnh trưởng tạo thế gọng kìm nhằm bao vây và tiêu diệt các lực lượng Quân giải phóng trong thành, thì cuộc chiến bên trong thành cổ mới diễn ra. Tại trường Bồ Đề, một tiểu đội Quân giải phóng đã hy sinh toàn bộ sau nhiều giờ chiến đấu. Chiều 15.9.1972, một số xe tăng của địch đã tiến sát đến bờ sông khu vực dinh Tỉnh trưởng, thậm chí một chiếc M48 còn dừng ngay trên nóc hầm khẩu đội 12 ly 7 của đại đội 16, trung đoàn 95. Chiếc xe tăng này sau đó bị ta bắn cháy, một chiếc khác gần dinh Tỉnh trưởng phải lùi lại phía sau vì trời cũng đã tối.
Trong phim Mưa đỏ, các trận đánh đều diễn ra trong lòng thành cổ từ những ngày đầu tiên. Và điều đó là sai cơ bản với lịch sử.
Trong cuộc chiến đấu bảo vệ thị xã Quảng Trị, cần phải nhắc đến lực lượng không quân của Mỹ và VNCH. Toàn bộ bầu trời thuộc về họ. Giai đoạn đầu của chiến dịch, lực lượng phòng không của ta khá tốt, hạn chế được các cuộc ném bom. Một khẩu đội 12 ly 7 đã từng bắn cháy một máy bay trực thăng. Một khẩu đội 12 ly 7 khác bắn cháy một máy bay A.37. Nhưng càng về sau càng yếu do bị tiêu hao bởi pháo kích và bom. Nhắc đến bầu trời Quảng Trị những ngày ấy, ai từng chiến đấu ở đó đều nhớ đến tiếng máy bay chỉ điểm OV.10 và L.19. Hết chiếc này đến chiếc kia thay nhau quần thảo lượn lờ nhòm ngó. Tiếng máy bay kêu o o rất sốt ruột. Chỉ một sự khác biệt của quân ta trên mặt đất là lập tức có pháo khói chỉ điểm. Và ngay sau viên pháo khói là máy bay A.37 từ đâu đó hiện ra nhào xuống ném bom. Một chiếc A.37 mang theo 4-6 quả bom. Mỗi lần bổ nhào chúng chỉ ném một quả. Tiếng rít khi bổ nhào rất kinh khủng, như xoáy vào tai vào óc người lính. Hết bom, chúng lại bắn đại bác 40 ly vào nơi nghi ngờ.
Không có bom B.52 rải thảm trong thị xã Quảng Trị cũng như thành cổ vì quân ta và quân địch luôn ở thế cài răng lược. Máy bay B.52 chỉ ném bên kia sông ở khu vực làng Nhan Biều và sân bay Ái Tử, nơi có bến vượt của quân ta. Và xa hơn là khu vực miền Tây Quảng Trị.
Quảng Trị năm 1972, nếu tự dưng không gian ắng đi tiếng máy bay F.4, tiếng máy bay OV.10 và L.19, thì có nghĩa là B52 sắp đến.
Trong phim Mưa đỏ không tạo được cảnh máy bay chỉ điểm OV.10, L.19 và máy bay ném bom A.37. Một vài cảnh máy bay ném bom có lẽ được tạo bởi AI xem hơi gượng.
Một điều nữa là pháo kích của quân lực VNCH. Có nhiều loại đạn pháo khác nhau: pháo bầy sát thương trên mặt đất, đạn bắn tới giống như một trận mưa rào thật to, đầy chết chóc; pháo khoan phá công sự hầm chữ A, mà khi mới gặp chúng tôi cứ nghĩ nó là pháo xịt, vì để lại một lỗ tròn trên mặt đất; pháo chụp nổ trên không, cách mặt đất khoảng 15-20 m, bắn những chiếc đinh có cánh xuống dưới và chiếc đinh này có thể xuyên thủng một tấm tôn, loại này rất nguy hiểm với người đang không ở trong hầm.
Tuy vậy, các loại pháo này đều có thể tránh nếu biết cách. Với pháo bầy và pháo chụp, bao giờ cũng có một vài quả thử để tính toán phần tử bắn. Nếu có một cái hầm chữ A gần đó thì nên chui ngay vào để tránh. Hoặc phải tìm cách chạy thật nhanh ra khỏi khu vực chuẩn bị có pháo kích, vì khi đã có tiếng depar đầu nòng thì bạn không còn thời gian để tránh nữa. Cái kinh nghiệm “hai viên đạn không bao giờ rơi chồng vào nhau” của thế chiến 1 không áp dụng được ở đây. Vì pháo bầy là do hàng chục khẩu pháo bắn một lúc, và mỗi vết đạn có thể là do vài viên đạn nổ ở đó.
Phải công nhận rằng pháo binh của VNCH rất giỏi. Họ bắn rất chính xác, gây nhiều thương vong cho bộ đội ta. Những ngày lính VNCH không đánh, thì thường là có pháo kích. Pháo bắn dai dẳng cả ngày. Đầu tiên là pháo bầy, khiến quân ta phải chui xuống hầm. Tiếp đó là pháo khoan, nhằm phá hầm, quân ta lại phải bỏ hầm để chạy ra hào ngồi. Quả pháo khoan khi trúng hầm sẽ khiến căn hầm bị phá huỷ. Anh bạn Sâm “mèo” phố Lò Đúc của tôi ở đại đội 7 đã lĩnh trọn một quả pháo khoan như vậy. Thân hình anh tan ra thành từng mảnh. Chúng tôi vét phần xương thịt còn giắt trên các vì kèo của căn hầm chữ A, được một ca thịt đem chôn. Để rồi ngày hôm sau pháo kích lại bắn trúng, và ca thịt ấy bay đi đâu mất.
Với pháo bầy, pháo khoan hay pháo chụp thì còn có thời gian để tìm cách tránh, chứ với pháo tăng thì không. Khi một chiếc xe tăng bắn, tiếng nổ đầu nòng và điểm chạm nổ của viên đạn gần như là tức thời. Gia tốc của đạn là 1200 m/ giây. Khoảng cách gần cùng gia tốc của viên đạn không cho phép người lính kịp né tránh. Nếu viên đạn hướng trúng vào ta, thì ngay cả một tiếng kêu “mẹ ơi” cũng không kịp thốt ra.
Trong phim Mưa đỏ tôi chưa thấy cảnh pháo bầy, hoặc pháo khoan. Mà đó lại là một đặc trưng của chiến trường thị xã Quảng Trị. Và đặc biệt chưa mô tả sự choáng do một quả pháo tăng gây ra. Chúng ta mới thấy hình chiếc xe tăng gầm gừ, nhả đạn chớp loé đầu nòng pháo mà thôi. Giá như dựng được đoạn phim người lính choáng váng sau quả đạn pháo tăng nổ thì sẽ gây ấn tượng mạnh hơn cho người xem.
Một điều nữa là chiến hào và hầm chữ A. Chiến hào thường được đào sâu khoảng một mét, hoặc hơn một chút, rộng khoảng 7-80 phân. Không đào sâu quá, lúc cần nhảy lên sẽ rất khó. Còn đào rộng quá thì không có sức để đào. Đào hào xong thì đào hầm chữ A. Hầm chữ A được học tập theo kinh nghiệm của chiến tranh Triều Tiên 1950, gồm một cây đòn nóc dài thật vững, gác lên đó những thanh tre hoặc gỗ, lát thêm miếng ván hoặc liếp tre rồi đổ đất vào lèn kỹ. Hai cửa hầm chữ A là nhánh hào râu tôm thông ra ụ chiến đấu. Hầm chữ A để tránh bom pháo rất tốt. Tôi từng thấy một căn hầm chữ A sát một hố bom, trơ cả khung như xương sườn một con trâu mà không bị sập.
Trong thị xã Quảng Trị năm 1972, những chiếc hầm chữ A cùng các ụ chiến đấu được ngụy trang rất kỹ nhằm tránh sự phát hiện của máy bay chỉ điểm OV.10 hay L.19. Và cả xe tăng của địch nữa. Bất kỳ một mô đất nào nhô lên bất thường đều sẽ bị pháo dập cho tơi bời. Xe tăng địch cũng sẽ ưu tiên nhằm bắn vào các ụ đất mà nó nghi ngờ. Bởi vậy, các đoạn hầm hào của quân ta trong Mưa đỏ được đắp bởi các bao cát là sai cơ bản. Chưa nói đến các bao cát thời ấy chỉ đựng khoảng 20 kg thôi, chứ không phải loại to đùng 5-70 kg như trong phim. Chưa kể trong phim người ta còn kiếm được mấy tấm ghi lỗ để gác lên mái hầm. Ghi lỗ ấy vốn dùng để làm đường băng dã chiến, chỉ có ở khu vực sân bay, trong thành cổ không có loại này. Một cái hầm gác mấy tấm ghi lồ lộ thế, thì may được nửa ngày chứ đừng nói cả cuộc chiến.
Chiến dịch bảo vệ thị xã Quảng Trị là một chiến dịch phòng ngự. Mà đã phòng ngự thì ít di chuyển. Việc đeo cái tạp dề Bao-xe đựng băng đạn trong phòng ngự là không cần thiết. Vì các băng đạn được quân ta để rải rác trên vách hào, hết đạn là lấy được ngay. Vả lại, mỗi khẩu AK bao giờ cũng lắp hai băng đạn ngược đầu nhau. Một trận đánh đâu phải lúc nào cũng dùng hết 60 viên đạn? Với điểm xạ hai viên một, thì vừa chính xác, vừa tiết kiệm đạn, vừa tạo uy lực áp đảo đối phương. Thực tế, lính dù và sau này là lính Thủy quân lục chiến rất ngại những điểm xạ hai viên một của bộ đội ta. Nó thể hiện sự điềm tĩnh của người lính, thể hiện người bắn đã từng trải. Xem phim thấy tiểu đội trưởng Tạ là lính cựu mà không dùng hai băng AK cột ngược, hết đạn vẫn phải móc băng đạn mới trong tạp dề để thay thì buồn cười. Chi tiết đó giảm đi sự sáng tạo, kinh nghiệm của người lính Giải phóng quân. Lúc mới vào thị xã Quảng Trị, tôi cũng từng đeo tạp dề. Vì nghĩ rằng nó cũng giống như miếng áo giáp, che chở cho mình. Nhưng sau vài ngày thấy vướng, cần thay đạn rất khó. Nên bỏ. Lúc bỏ, thấy da bụng nhăn nheo vì mồ hôi, ở giữa có đám hắc lào to gần bằng bàn tay.
Như tôi đã viết ở trên, các tiểu đoàn d4, d5, d6 của trung đoàn 95 và K3 Tam Đảo sau khi vượt sông ngày 22.7.1972 vào thị xã Quảng Trị thì lực lượng quân ta có 8 tiểu đoàn, trong đó trung đoàn 48 đã ở đó từ đầu chiến dịch.
Trung đoàn 48 của sư đoàn 320 còn có tên là đoàn Quang Sơn , với lời thề “Quang Sơn còn- Thành cổ còn”!
Trong Mưa đỏ, đạo diễn và tác giả kịch bản đã nhét lời thề này vào K3 Tam Đảo “Tam Sơn còn- Thành cổ còn”. Vậy là sai rồi. Chưa kể, tiểu đoàn K3 Tam Đảo đến ngày 22.7.1972 mới vượt sông vào thị xã Quảng Trị, chứ không phải từ đầu chiến dịch.
Cuộc rút quân đêm 15.9.1972 là do sự quyết đoán của BCH hỗn hợp lực lượng bảo vệ thị xã Quảng Trị sau nhiều ngày phân tích thế Địch-Ta. Nên nhớ rằng mọi phương tiện thông tin liên lạc giữa thành cổ Quảng Trị với bờ Bắc đều đã bị cắt đứt từ trước đó nhiều ngày. Mãi đến chiều tối 15.9 khi có chỗ xe tăng địch nống sát đến bờ sông Thạch Hãn và sở chỉ huy, thì BCH mới ra quyết định này. Tất cả đều bơi để vượt sông, không có thuyền nào đón cả. Đơn giản vì không còn chiếc thuyền nào nữa, bị địch bắn chìm trước đó cả rồi. Các thương binh nặng thì đành để lại, vì không thể đưa qua sông. Một vài nhóm nhỏ ở xa, mất liên lạc nên cũng bị rớt lại. Ngày 16.9 địch tiếp tục tấn công, nhưng không dám tiến nhanh vì không biết quân ta đã rút. Các nhóm nhỏ bị rớt lại và một số anh em thương binh vẫn tiếp tục chiến đấu. Nhiều người trong số đó đã hy sinh hoặc bị bắt, thậm chí bị giết khi súng hết đạn. Đêm 16.9 vẫn còn một số anh em từ trong thành vượt ra. Chính họ đã kể cho chúng tôi những gì đã xảy ra trong ngày 16.9 khi lính Thủy quân lục chiến tràn ngập Cổ thành.
Một người bạn của tôi còn kể lại rằng chiều ngày 16.9, bạn anh ấy (là lính VNCH) đã dùng ca nô để vớt những người lính GPQ đang kiệt sức và bị dòng lũ trên sông Thạch Hãn cuốn đi…
Trong chiến tranh, sẽ có những sai sót và tổn thất khó tránh. Không tô hồng và dám nhìn thẳng vào sự thật sẽ làm chúng ta mạnh mẽ hơn.
Vậy Mưa đỏ có phải là một bộ phim đáng xem?
Vâng. MƯA ĐỎ LÀ MỘT BỘ PHIM NÊN XEM. Ít nhiều, nó đã phản ánh được cuộc chiến đấu Bảo vệ thị xã Quảng Trị năm 1972. Những điều tôi viết ở trên chỉ làm rõ thực tiễn chiến trường lúc đó để những ai chưa từng trải qua sẽ hiểu thêm về Lịch sử của 81 ngày đêm khốc liệt ấy.