- Biển số
- OF-33715
- Ngày cấp bằng
- 22/4/09
- Số km
- 33,553
- Động cơ
- 1,006,605 Mã lực
Em chưa nói gì về chè (trà) Hà Giang, mà đang viết về chè được sản xuất ở các nhà máy chè.E đúng là chưa làm trà, nhưng vợ e hồi trẻ có 10 năm trồng trà và làm trà, cụ ạ. Trà hái xong/cắt xong thì càng nhanh càng tốt (thường là sáng hái/cắt, chiều "quay") và càng nhanh càng giữ dc chất lượng trà. Quá trình chế biến là: cho vào quay trong Tôn trước để Trà tái đi, rồi cho vào máy vo, vo xong cho vào Tôn để Sao; quá trình Sao (1), Vo(2) gồm mấy công đoạn 1 và mấy công đoạn 2 là tùy bí kíp của mỗi xưởng quay trà. Và công đoạn (3) là Đánh Mốc.
Đấy là quy trình làm Trà của Thái Nguyên và Phú Thọ, Yên Bái, Tuyên Quang,...còn quy trình làm trà của Hà Giang thì em k dám chắc, vì e và cũng chưa/ko có ng nhà tham quan/tham gia quy trình làm Trà ở đó!
Quá trình lên men là không thể thiếu đối với chè ta hay chè tây (chè xanh hay chè đen).
Vò chè bằng máy thì chỉ trước đây thấy ở trong các nhà máy, còn ngoài dân thời đó họ vẫn vò bằng chân (ít như tụi em thì vò bằng tay). Sao nhẹ rồi vò, lại cho vào sao vò tiếp,... Vò thủ công cho tép chè xoắn chặt, cong như cái lưỡi câu·
Sao chè trước đây họ sao bằng chảo, dùng than củi, còn bây giờ hiện đại hơn họ sao bằng máy dùng than đá. Bí kíp chủ yếu ở nhiệt độ, nhiệt độ giữ không cao (nhưng mất công nên năng suất thấp) thì chè giữ được mầu xanh dù pha rất đặc, còn nhiệt độ cao thì mầu chè nâu dần (người uống chè gọi là chè đỏ). Chè nhiều nơi có vị đắng ngắt (chứ không phải vị chát đặc trưng của chè) cũng do cần làm nhanh, sử dụng nhiệt độ cao. Tùy công và cách để người làm chè giữ được chất lượng!
Chỉnh sửa cuối: