ĐỀN NGHÈ SÀY
( Thôn 2, Bình Hoà, Quảng Châu, Sầm Sơn, Thanh Hoá)
Mình về Đền Nghè Sày đúng dịp cả nước hướng về Lễ diễu binh chào mừng kỷ niệm 80 năm Quốc khánh. Sáng 6h thức dậy trải nghiệm vi vu 1 mình về quê bạn trên xe khách. Tầm 10h tới nơi nhưng khó nhận ra với 1 tháng trước vì sau bão cây đa bị bật gốc, mình lại lóc cóc đi cổng sau

. Mặc dù cách đền An Dương Vương (mình đã up phần trước) tầm 800m nhưng ko nhiều người biết tới, may thay a lái xe trung chuyển là ng gốc nơi này nên chở mình vào tận cổng
Nghè Sày thuộc địa phận làng Bình Hòa, xã Quảng Châu, huyện Quảng Xương. Đối chiếu với lịch sử, vùng đất làng Bình Hòa, xã Quảng Châu thời thuộc Hán thuộc huyện Cư Phong, thời Tam quốc Lưỡng Tấn Nam Bắc triều thuộc huyện Trạm Ngô, đến thời Tùy thuộc huyện Long An, thời Đường thuộc huyện Sùng Bình. Thời Đinh, Tiền Lê, Lý vẫn giữ như cũ, đến thời Trần, Hồ, Quảng Châu thuộc huyện Kết Duyệt và huyện Duyên Giác thuộc Cửu Chân. Đầu thời Lê sơ, làng Bình Hòa, xã Quảng Châu thuộc huyện Vĩnh Xương. Năm Quang Thuận thứ 10 (1469) đổi thành huyện Quảng Xương, phủ Thanh Ninh (sau đổi thành phủ Tĩnh Gia). Suốt triều Lê Trung hưng, đầu triều Nguyễn, làng Bình Hòa, xã Quảng Châu thuộc tổng Cung Thượng (Giặc Thượng). Đời vua Đồng Khánh, làng Bình Hòa thuộc thôn Điều Hòa, xã Điều An, tổng Cung Thượng, huyện Quảng Xương. Đời vua Thành Thái (1889 - 1907), do các cụ trong làng tham gia kháng chiến chống Pháp đánh trận Ba Đình, sợ giặc Pháp trả thù nên mới đổi từ thôn Điều Hòa thành Bình Hòa.
Bình Hòa nằm ở vị trí địa lý khá thuận lợi, giáp liền với cửa Hới và dãy núi Trường Lệ, nơi có thị xã du lịch Sầm Sơn nổi tiếng. Hơn thế nữa, đây là vùng đất lịch sử gắn liền với nhiều huyền thoại như: An Dương Vương và Mị Châu, Quan Nghè Quản Di Đài, mang đậm tính nhân văn và giáo dục cao.
Nghè Sày nơi thờ ông Quản Di Đài thời Lê Trung hưng; truyền thuyết trong làng còn kể lại: Vào khoảng thời gian (1676-1789) thời Lê Trung hưng, có một người từ nơi khác đến, đóng vai bần hàn bỏ quê hương đi kiếm sống. Ông xin làng một miếng đất ngụ cư, cuối cùng làng cũng thương tình cho ông một khu đất bỏ hoang toàn cát ở phía Bắc. May mắn cho ông, miếng đất làng cho lại được huyệt trúng vào đầu Khủng long cho nên phát phúc. Ông bỏ tiền xây dựng cơ nền, mua sắm đồ dùng bát đĩa, chum vại… rồi trở về quê hương đưa vợ con đến ở.
Trước nhà ông có một đường đi xóm Bác Đáy (nay là thôn Châu Chính) xuống các cánh đồng, có một đoạn dài 200m rộng 1m, dân đắp bờ lên hai bên mặt đường phòng trời mưa không cho nước chảy vào ruộng. Trâu bò qua lại bị lầy quá bụng, kéo lê kéo lết mới lên được, do vậy nhân dân gọi là Ngõ Sày (hãy còn gọi là Ngõ Nghẽn). Xung quanh khu đất ông ở cũng được gọi cái tên là Cồn Mày, thân đất dưới gọi là Mày Chua.
Được một thời gian dân làng mới biết tên ông là Quản Di Đài, nguồn gốc từ Hải Dương vào. Ông là người kinh sử giỏi giang nhưng gặp phải cảnh học tài thi phận, khoa cử lận đận, nhiều năm mà không đỗ. Để tránh tiếng đua ganh ở quê cũ, ông dứt áo ra đi, tìm nơi đất tốt ngụ cư thực hiện chí học của mình. Ông có một người chị là Quản Thị Hiền là người rất xinh đẹp được tuyển vào làm cung tần hầu vua. Sau này người chị cũng trốn bỏ về cùng ông lấy cụ Lương Hữu Cẩn.
Vào khóa thi cuối thời hậu Lê ông thi đỗ Tiến sĩ(1), theo điều lệ quy định của triều đình, ông vinh qui bái tổ, cờ rong trống mở quan lại quê hương, nhân dân nơi cư trú phải tổ chức rước ông về làng. Trong làng một số vị quan lại chức sắc do sĩ diện với quê hương nên tỏ ý đố kỵ ghen ghét, coi thường ông chỉ là một nho sinh nghèo vừa phiêu bạt đến đây mà đã sớm được xứng bảng đề danh hơn các bậc quan lại trước đây trong làng. Do vậy họ tỏ ý coi thường, khinh rẻ và bày ra cái trò đem ghế nhổ mạ ra làm kiệu khênh, lọng bằng nón sổ vành, cờ bằng khố cho làng đi trước. Thấy cảnh trái ngang, dân làng miệt thị mình, ông quá uất hận nhưng vẫn cố nén chịu, đi bộ về nhà chia sẻ nổi niềm cùng vợ con. Về đến nhà ông lập đàn tế cúng, tấu lên Thiên Tào, Bắc Đẩu, cửu trùng về nổi oan khiên của mình. Sau đó vì uất hận không chịu nổi ông liền tự vẫn, thật là bi thương.
Sau cái chết của ông, như có sự linh nghiệm đến quỉ thần trời đất, trong làng Bình Hòa liên tục xảy ra nhiều tình trạng chết người hại của, chẳng ai học hành thi cử đỗ đạt. Tai họa này đến tai họa khác liên tục giáng xuống khiến cho cư dân điêu đứng. Nhiều người trong làng phải dời bỏ quê hương tìm nơi mưu sinh cuộc sống. Hối hận với những việc làm sai trái với quan nghè Quản Di Đài, dân làng đã lập đàn, mời thầy phù thủy cao tay nhiều lần về cúng tế nhưng vẫn không linh ứng. Cuối cùng dân làng họp bàn, những ngày đại lễ và những ngày lễ khác được làm cổ mặn, phối thỉnh ông trên bàn sập hội đồng. Đặc biệt mâm cổ của ông thứ gì cũng phải đủ 12 đĩa, bát hoặc 12 khay trầu tượng trưng cho 12 cửa họ trong làng sám hối đối với ông, mong cầu ông xá bỏ uất hờn giúp đỡ cho dân làng.
Sau khi ông qua đời, con cháu ông không biết đi đến chỗ nào? kể cả bà chị gái ông. Phần mộ ông được đặt trên khu đất làng đã cho ông, khu đất này so với ruộng Mày Chua cao tới hơn 2m, những năm mưa to gió lớn dân ra lấy được bát đĩa, nồi đồng, mâm đồng…dân gian cho rằng đó là của cải đồ dùng của gia đình ông Quản Di Đài, sau khi ông mất, con cháu bỏ đi nơi khác nên chôn cất giấu của, khu đất ấy tới nay nhân dân vẫn gọi là khu đất ông Nghè Sày.
Như vậy, về nhân vật Quản Di Đài được thờ ở Nghè Sày nó chỉ là tương truyền, thực chất nó là một truyền thuyết đầy tính nhân văn nhằm giáo dục con người. Việc ông Quản Di Đài thi đỗ Tiến sĩ khoa nào cho đến nay chưa có tài liệu nào ghi chép. Chỉ thấy hiện nay một số các tài liệu thành văn hiện trong nghè nơi thờ ông có đề cập đến việc ông là Tiến sĩ được gọi là ông Nghè. Nội dung câu đối như sau:
“Tiến sĩ tôn ông thiên cổ tại.
Quan nghè tưởng niệm quốc gia phong”.
Nghĩa là:
Quí ông tôn quí đổ Tiến sĩ nghìn năm vẫn ở chốn này.
Tưởng niệm về quan nghè được đất nước phong tặng. Ngày nay trên đất ông Nghè Sày, nơi ngôi nhà ông ở trước đây vẫn còn một chính tẩm cũ, được một gia đình họ Lương vì thương cảm số phận của ông cho nên lập một ngôi miếu với qui mô khang trang hơn nhiều so với trước, kể cả hệ thống đường vào cũng được rải nhựa để thuận tiện cho việc lưu thông qua lại. Đôi câu đối treo trong Nghè minh chứng rõ ràng hơn:
“Quản môn xuất thế gia đình cựu.
Quan Nghè hiển ứng miếu vũ tân”.
Nghĩa là.
Nơi xuất thế gia đình họ Quản cũ.
Miếu đền quan Nghè được tôn tạo mới.
Phía cổng ngoài vẫn ngổn ngang cây cối đổ sau bão 🥲
Khu thờ chính Quan Nghè Sày
Phía bên tay phải là Cung thờ Tứ phủ công đồng, Đức Thánh Trần và Ban thờ Mẫu
Bên trong khu Công đồng
Bên trong khu thờ chính Đền Quan Nghè Sày
Góc chụp bên trong đền
Cổng chụp từ phía bên trong
Phía bên ngoài khá rộng và thoáng đãng
Biện lễ ở góc cúng chúng sinh rằm tháng 7 mong các âm linh sớm được siêu thoát, tái sinh cõi lành!
Ở HN mọi người có thể ra bến xe nước ngầm vào VP nhà xe Vân Anh sẽ có xe chạy thẳng về Sầm Sơn sau đó có xe trung chuyển chở về thẳng đền ạ.