[Funland] Nơi chia sẻ những câu chuyện Tâm linh trong cuộc sống thường ngày 2020 Vol1

tomtomchát

Xe container
Biển số
OF-394561
Ngày cấp bằng
30/11/15
Số km
6,661
Động cơ
260,676 Mã lực
Tuổi
48
Nơi ở
Phủ Khai Thông
- ĐÊM DÀI MỘNG MỊ.

Phần năm:
Sáng nay bà Hiên dậy sớm để ra vườn ngắm hoa cùng bà Nguyệt. Đêm qua bà đã ngủ lại đây, sau năm mươi năm trời thất lạc và thương nhớ, đôi tri kỷ ấy mới lại được đắp chung một tấm chăn giống như ở Trạm Quân Y trong rừng Trường Sơn năm nào...
Hôm qua, trước khi Thành chở hai bà rời khỏi căn nhà trọ, bà đã dặn vợ chồng anh con trai là mẹ đi lễ chùa với bà Nguyệt ít hôm. Do con trai bà đã biết rõ tình cảm của mẹ với bà Nguyệt. Hơn nữa, từ lúc đeo sợi dây có hạt gỗ mẹ cho đến giờ, sự bình yên đã trở lại nên con trai bà hoàn toàn yên tâm và ủng hộ mẹ đi chơi với bạn. Tính cách bà Hiên là vậy, quyết đoán nhưng rất thương yêu con cháu. Điều gì có hại cho con thì bà sẽ ngăn bằng được, nhưng điều gì có lợi cho con cháu thì bà sẽ thực hiện đến cùng.

Do hoàn cảnh riêng của bà quá đặc biệt, trên đời này bà không có ai là người thân thích. Chỉ có duy nhất một núm ruột ấy thôi, vì vậy mà tình yêu thương của bà dành cho con cháu là vô bờ bến. Chắc hẳn, sẽ nhiều hơn những người mẹ khác.
Từ lúc phát hiện ra đầu mối duy nhất là người đàn ông độc thân thuê nhà của bà Nguyệt đã chết. Bà Hiên thực sự rất sốc và hụt hẫng. Đầu mối duy nhất vừa xuất hiện đã phũ phàng tắt lịm. Giống như tia sáng cuối đường hầm vừa loé lên đã bị một trận động đất bất ngờ sập xuống bịt kín lại. Bế tắc quá, bà chưa biết sẽ phải bắt đầu từ đâu để có manh mối của lão già trưởng nhóm. Nhưng nhất định, bằng mọi giá bà vẫn sẽ phải truy tìm cho bằng được, bởi bà hiểu rất rõ rằng vấn đề này vô cùng nghiêm trọng. Nó sẽ chưa dừng lại ở đây, chắc chắn nó sẽ còn gây ra nhiều tai họa thêm nữa.

Bây giờ bà Hiên đã có hai mẹ con bà Nguyệt giúp sức nên cũng phần nào vững tâm hơn. Thành rất kính trọng bà Hiên và quý mến bà đặc biệt. Anh là một người đàn ông khá phong trần và bản lĩnh. Nhưng không hiểu sao, từ lúc hai bà gặp nhau thì anh lại rất hay xúc động. Có lẽ vì Thành là người giàu tình cảm và quá thương mẹ. Anh rất xót xa khi biết mẹ và bà Hiên đã từng sống chết có nhau trong một tình huống quá ngặt nghèo ở rừng Trường Sơn năm mươi năm trước.

Thành bàn với hai bà và quyết định phá khóa gian quán thổ cẩm kia để tìm manh mối. Tuy anh ta đã chết, nhưng Thành muốn kiểm tra thật kỹ, may ra có thể biết được điều gì liên quan đến lão già và ngôi mộ cổ.
Sau khi Thành mở được cánh cửa ấy ra, cả bà Hiên và bà Nguyệt cùng bước vào trong quán. Mọi thứ vẫn ngăn nắp, không có gì sáo trộn. Những chai mật ong vẫn nằm ngay ngắn, những tấm vải thổ cẩm sặc sỡ và nhiều họa tiết cầu kỳ ấy vẫn gọn gàng.
Sau khi đã kiểm tra tất cả mà vẫn không thấy có điều gì liên quan. Những thứ giấy tờ sổ sách bán hàng của người đàn ông kia cũng không có chi tiết nào gợi mở. Ba người đành bước ra, Thành đã dùng một chiếc khóa khác để thay thế cho chiếc khóa vừa bị đập. Tuy người này thuê nhà của bà Nguyệt cũng được vài tháng nhưng đây là lần đầu tiên bà bước chân vào trong quán của họ. Tính bà vậy, họ thuê nhà bà nhưng bà giữ ý để cho họ được thoải mái. Cần bàn bạc với nhau điều gì thì bà giao cho Thành hoặc mời họ vào nhà trong uống nước.

Nhưng hình như... Sau khi quan sát kĩ những tấm vải thổ cẩm của họ, nét mặt của bà Nguyệt rất ưu tư, giống như bà đang suy nghĩ đến một điều gì thì phải...
Tối hôm đó, sau khi các con của Thành đã ngủ hết, bà Nguyệt mới gọi vợ chồng Thành ngồi lại uống nước với hai bà. Sau một hồi suy nghĩ, bà Nguyệt quyết định kể hết chuyện đời tư cho bà Hiên và hai vợ chồng Thành cùng nghe. Đã đến lúc bà nói ra sự thật mà bao nhiêu năm qua bà vẫn giấu kín chưa nói cho Thành biết. Giọng đượm buồn, bà Nguyệt bắt đầu kể:
*****

- Ngày ấy, trước khi vào phục vụ trong chiến trường, bà Nguyệt đã có người yêu...
Đêm chia tay ấy thật đáng nhớ, sáng mai là ngày bà Nguyệt sẽ lên tàu để vào chiến trường nhận nhiệm vụ. Còn người yêu của bà cũng lên đường sang Liên Xô để học lái máy bay chiến đấu. Nhưng đó là một nhiệm vụ đặc biệt nên người yêu của bà không được phép tiết lộ.
Đêm ấy, bà Nguyệt đã tặng người yêu một vật để làm tin, đó là một chiếc khăn tay thêu đôi chim bồ câu bằng chỉ đỏ. Đó cũng là một biểu tượng của Hòa Bình và hạnh phúc lứa đôi. Hai người ước hẹn với nhau rằng nhất định ngày đất nước hòa bình độc lập rồi họ sẽ về làm đám cưới... Nhưng không ngờ, lần gặp nhau đó cũng chính là lần gặp gỡ cuối cùng. Để rồi hai người xa nhau vĩnh viễn...

Sau cái ngày kinh hoàng bên bờ suối năm ấy. Bà Nguyệt đã bị hoảng loạn và sang chấn tâm lý trong suốt một thời gian dài. Bà luôn dằn vặt bản thân vì cảm thấy có lỗi, không còn xứng đáng với tình yêu của người ấy nữa, bà tự oán trách mình đã không giữ gìn được cho họ. Thế rồi, bỗng một ngày bà Nguyệt nhận được thư nhà. Trong thư, em gái của bà báo một tin sét đánh... Người yêu của bà đã hi sinh khi lái máy bay chiến đấu với máy bay giặc để bảo vệ bầu trời miền Bắc. Bấy giờ bà Nguyệt mới biết người yêu của mình là một phi công. Vậy mà lần hai người chia tay anh chỉ nói rằng anh được đơn vị cho về nghỉ phép ba ngày và ngày mai anh phải trở về đơn vị.

Bởi bà Nguyệt mặc cảm về chuyện của mình nên bao lâu nay bà đã im lặng và giấu kín thông tin về hòm thư đơn vị nơi bà ở. Quá đau buồn vì mất người yêu, bà Nguyệt như người bừng tỉnh. Nỗi căm thù giặc Mỹ đến điên cuồng đã làm cho con người và tính cách của bà trở nên đanh thép lại. Sau đó, bà viết đơn tình nguyện để được lao vào tuyến lửa, nơi ngày đêm đạn xới Bom cày ác liệt nhất.
Và đó cũng là nơi có rất nhiều những cánh rừng bị trụi sạch lá bởi chất diệt cỏ mà Mỹ đã rải xuống khắp nơi hòng ngăn chặn bước tiến của quân giải phóng. Vì họ biết rằng, dưới những tán cây rậm rạp ấy đang có đầy rẫy những mối đe dọa đối với họ.
Còn đối với bộ đội Việt Nam thì rừng là nhà, rừng là bạn. "Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù". Ngủ cũng dưới những tán cây ấy, nấu ăn cũng nhờ tán cây ấy để những ngách dẫn khói của chiếc bếp " Hoàng Cầm" dẫn lên tán lá và tản ra như một làn sương mỏng. Hành quân cũng dưới những tán cây ấy, cứ chỗ nào rậm rạp thì bên dưới nó sẽ là đường...

Sau ngày đất nước hoàn toàn giải phóng, bà Nguyệt về lại quê hương và lấy chồng. Một người đàn ông được người thân mai mối. Thực lòng thì bà không yêu và cũng không có tình cảm với người đó.
Một năm sau, bà Nguyệt sinh con đầu lòng. Nhưng khi vừa nhìn thấy đứa con của mình thì bà đã... Hét lên kinh hãi rồi ngất lịm. Bởi vì đứa con ấy không phải là người, nhìn nó gớm ghiếc như một con yêu quái. Khi bà tỉnh dậy thì chồng bà đã đem đi chôn cất xong, nó đã chết.
Một năm sau, bà Nguyệt lại tiếp tục đẻ ra một đứa con đáng sợ như thế nữa. Lần này thì đầu to, mắt lồi, không có chân tay, mũi và miệng chung nhau một lỗ. Nó không sống được, chỉ mấy ngày sau là chồng bà lại phải vác cuốc đi đào huyệt để tự tay chôn cất cái hình hài bất hạnh ấy.
Bà đau đớn vô cùng, bà tự dằn vặt bản thân và sống trầm cảm như một cái bóng. Lúc đó bà chỉ nghĩ một cách ngây thơ rằng... Chắc là do mấy thằng giặc Mỹ đã hại đời con gái của bà ngày đó cho nên bây giờ bà mới bị như thế. Nghĩ vậy nên bà đã cố gắng cắn răng chịu đựng và giấu kín, không nói ra điều ấy cho chồng biết.

Gia đình nhà chồng bắt đầu lạnh nhạt với bà. Lúc đầu thì họ còn nói xa nói gần, nói bóng nói gió. Lúc sau thì họ ghẻ lạnh ra mặt. Dần dần thì họ nói thẳng vào mặt, rồi họ chuyển sang nhiếc móc, đay nghiến, chì chiết. Họ nói rằng tại nhà bà ăn ở bất nhân thất đức nên bà mới đẻ ra quái thai như vậy...
Bà Nguyệt đau khổ và nhục nhã đến cùng cực không khác gì sống trong địa ngục. Thời của bà, đi lấy chồng là xác định sống là người nhà chồng, chết làm ma nhà chồng. Vì vậy mà bà phải cố chịu đựng, không dám tự ý bỏ chồng để về nhà bố mẹ.

Sang năm sau, bà Nguyệt lại tiếp tục thai nghén lần thứ ba. Lần này thì đứa con của bà đẻ ra nhìn còn đáng sợ hơn cả hai lần trước nữa. Khi vừa nhìn thấy đứa con ấy, nhà chồng của bà đã công khai tuyên bố dứt tình với bà ngay khi bà vừa rời bàn đẻ. Họ bắt người chồng kia cũng phải rũ tình vợ chồng ngay tại chỗ rồi đi về. Bỏ lại bà và một đứa con quái thai nằm bơ vơ lạnh lẽo đến run rẩy giữa căn phòng trống trải không có cửa sổ của Trạm Xá xã nghèo nàn.
Bà Nguyệt quá đau khổ và tuyệt vọng, bà toan đập đầu vào tường để tự tử ngay lúc ấy. May nhờ có mấy cô y tá ở Trạm Xá đã thương tình mà cưu mang hai mẹ con. Họ cho bà tạm thời ở lại, họ nhường những bát cơm độn toàn sắn cho bà ăn trong những ngày ở cữ. Nhưng cũng chỉ được một tuần sau thì đứa con ấy chết.

Lúc bấy giờ, nhiều người chưa biết về tác hại của loại chất độc dioxin này. Cho nên Bố Mẹ của những đứa trẻ quái thai ấy thường bị miệng đời ác khẩu gắn ghép cho cái tội do ăn ở thất đức nên đẻ con ra mới thế.
Mãi sau này người ta mới biết được sự thật rằng:
- Chính thành phần chất độc hóa học dioxin có trong chất diệt cỏ, và đựng trong những chiếc thùng phuy Màu Da Cam mà Mỹ đã rải xuống rừng Trường Sơn ấy mới là thủ phạm. Nó đã gây ra nỗi thống khổ cho bao nhiêu gia đình người Việt Nam, và bao nhiêu bà mẹ đã phải chịu đựng nỗi oan ức giống như Bà Nguyệt. Do đã uống nước ở những dòng suối bị nhiễm chất độc trong chiến trường.
Sau sự việc đau lòng đó, bà Nguyệt đã được nhận vào làm việc ở Trạm Xá của xã. Sau khi người Trạm trưởng hỏi thăm và biết bà đã từng là một Y Tá Quân Y.
*****

Một thời gian sau, chiến tranh biên giới Việt - Trung nổ ra. Rạng sáng ngày mười bảy tháng hai năm bảy chín. Trung Quốc bất ngờ nổ súng đồng loạt tấn công Việt Nam trên toàn tuyến biên giới phía Bắc, với quy mô lớn chưa từng có. Vô cùng ác liệt và tàn bạo. Có những nơi, chúng đã thực hiện chủ trương ba sạch:
- Phá Sạch, Đốt Sạch, Giết Sạch.
Vậy nhưng họ lại lu loa công bố với thế giới rằng... Đó là cuộc chiến tranh " Phản Vệ chống lại Việt Nam"... Và họ chỉ chống lại thôi.
Đúng là " Anh em như răng với môi, môi hở răng lạnh" Tốt thế đấy... Đúng là họ Quá Tốt... Khi mà đa số quân chủ lực của ba trên bốn Quân đoàn của Việt Nam vẫn còn đang ở biên giới Tây Nam và Campuchia chưa về kịp thì họ đã tranh thủ ra tay... Chống lại trước.

Quá căm thù, bà Nguyệt đã xung phong đi biên giới ngay lập tức. Bà đi ngay trong đợt đầu bổ xung quân và nơi bà đến là mặt trận Hà Giang.
Vừa lên đến nơi, đập ngay vào mắt bà dọc đường đi là hàng đoàn người bồng bế nhau hốt hoảng chạy giặc theo hướng ngược lại. Phía sau họ là những cột khói bốc lên từ những xóm làng tan hoang vì pháo kích của giặc. Nơi bà đến, người dân không biết chạy đi đâu ngoài trốn vào các hang núi...
Suốt một tuần đầu tiên, bà và một đơn vị chủ yếu là bộ đội địa phương, giành giật nhau từng tấc đất với giặc trên một cao điểm.
Khủng khiếp... Chỉ có thể dùng một từ... Khủng khiếp. Có những ngày, bọn chúng bắn vào trận địa đến mấy ngàn quả đạn pháo các loại. Phía ngoài cửa hang nơi bà cứu chữa cho những người bị thương ấy, đá núi cũng bị vỡ nhỏ ra và biến thành vôi bột vì sức công phá và nhiệt độ của mấy ngàn quả đạn pháo ấy. Thậm chí, còn có chỗ lội ngập đến lưng bắp chân trong bột đá.
Kĩ thuật pháo binh của chúng thật lợi hại, chỉ cần bên mình bắn đến loạt đạn thứ ba sau đó không di chuyển nhanh thì có thể sẽ có hàng trăm quả đạn pháo từ bên kia quả núi bắn cầu vồng sang rót trúng vào trận địa.

Có một điều thật đau xót mà không phải ai cũng biết là những kĩ thuật đó lại được phát triển từ một bộ óc của người Việt Nam... Hồ Nguyên Trừng - người con trai trưởng của Hồ Quý Ly.
Năm 1407 sau khi giặc Minh chiếm được Thành nhà Hồ, chúng đã bắt đi rất nhiều thợ thủ công. Trong đó, có cả Hồ Nguyên Trừng, một người đã phát minh ra súng Thần công của Việt Nam mà bao nhiêu quân giặc đã từng phải khiếp đảm. Từ đó, chúng đã ép buộc ông phải phục vụ và truyền dạy lại kĩ thuật đó cho chúng.

Khoảng giữa của những ngày chiến đấu, cao điểm nơi bà Nguyệt sát cánh cùng với những chiến sĩ đã không còn giữ được nữa. Bọn chúng bao vây tứ phía và bắn phá suốt ngày đêm. Các chiến sĩ bị thương và chết gần hết dưới làn mưa đạn và chiến thuật "biển người" của chúng. Tầng tầng lớp lớp quân giặc tiến lên chiếm cao điểm. Cứ lớp này bị tiêu diệt lại có tiếng "kèn con dê" thúc giục lớp khác tràn lên như những đợt sóng.
" Đó là một loại kèn lệnh của bọn chúng, có tiếng kêu như tiếng của con dê".

Khi lương thực và đạn dược đã cạn kiệt. Người chỉ huy và chiến sĩ thông tin không còn nữa, điện đài cũng đã hỏng hết. Đêm ấy, bà Nguyệt và mấy người còn lại bàn nhau rút khỏi cao điểm. Đến một hang đá khác mà một người đàn ông địa phương lên phối hợp chiến đấu cùng với bộ đội đã chỉ chỗ, trước khi người đó anh dũng hi sinh. Người đó còn cho biết thêm rằng, trong hang ấy có rất nhiều phụ nữ, cụ già và em nhỏ. Nếu không có người dày dạn kinh nghiệm trận mạc để tổ chức và phán đoán tình hình thì sẽ có nguy cơ chết hết. Bởi bọn chúng vô cùng tàn ác, chỉ cần chúng phát hiện ra thì sẽ là những cơn mưa lựu đạn, chất cháy và cả súng phun lửa tập trung lại để thiêu sống hết. Như chúng đã từng làm suốt từ đầu cuộc chiến đến giờ...

Chiều tối hôm đó, bà Nguyệt và mọi người đã đi theo khe hẹp của một con đường bí mật để đến được cửa hang đá. Sau khi dùng ám hiệu riêng mà người dân địa phương đã chỉ cho để không bị bắn nhầm. Bởi trong ấy cũng có vài tay súng của dân quân tự vệ.
Nhưng... Cũng vừa lúc đó... Mọi người vô cùng hoảng sợ... Nhiều người không giữ được bình tĩnh đã bắt đầu khóc lóc.
Từ xa xa dưới chân núi, quân giặc đang tràn lên đông nghịt. Bọn chúng đi đúng con đường dẫn đến hang đá bí mật này. Mọi người lo lắng đến tột độ, xác định chắc chắn hôm nay tất cả sẽ chết hết... Không còn một cơ hội sống sót nào nữa. Khi chúng đã đến rất gần cửa hang. Bỗng... Có một người phụ nữ đang bế đứa con nhỏ chừng một tuổi cũng chen lấn ra gần cửa hang để nhìn. Đột nhiên, chị ấy buông một tiếng chửi rủa.

Thì ra, chị ấy đã nhận ra một người mà chị biết mặt. Không biết ông ta sống ở làng xã nào nhưng thời gian gần đây rất hay xuất hiện ở vùng này. Ông ta đi ở hàng đầu tiên của bọn giặc đông nghịt ấy, trên tay cầm một lá cờ của giặc và miệng cười hớn hở.
Thì ra... Tên gián điệp khốn nạn đó đã dẫn đường cho giặc đến giết hại dân làng để hắn được trọng thưởng. Hóa ra gần đây hắn hay xuất hiện ở vùng này là để dò la tin tức. Hắn đã phản bội vùng đất này, vùng đất đã vô tình... Nuôi ong tay áo.

Khi bọn giặc đã đến gần hơn. Bỗng người phụ nữ đang bế đứa con nhỏ kia có một hành động mà không ai ngờ tới. Sau khi hỏi thăm và biết được chồng mình đã chết, chính là người đàn ông địa phương trên cao điểm ấy. Chị đã hiên ngang bước ra hướng bọn giặc đang tràn lên đông như kiến... Tất cả đều nín thở nhìn theo từng bước chân của chị.

Một tay chị bế đứa con nhỏ ủ trong tấm chăn mỏng. Một tay chị cầm chiếc áo giơ lên cao vẫy vẫy và hô to:
- Đừng bắn... Xin đừng bắn... Tôi biết chỗ có nhiều bộ đội Việt Nam đang trốn.
Tên gián điệp nghe được câu nói ấy thì vô cùng mừng rỡ. Hắn vội vàng nói với tên thổi kèn đi bên cạnh truyền lệnh xuống cho quân lính dừng lại và không được bắn.

Đợi cho bọn chúng tụ lại xung quanh tên chỉ huy... Người phụ nữ ấy bước gần đến nơi rồi chợt ngồi xuống để sửa lại tư thế và vén lại tấm chăn ủ ấm cho con. Sau đó chị âu yếm vỗ về đứa con thơ của chị.
Nhưng... Hành động thì lại giống như chị đang châm ngòi cho một kíp nổ... Rồi bất ngờ... Chị đứng lên và lao vào giữa đám đông đang vây quanh tên chỉ huy và tên gián điệp ấy. Ngay lúc đó, một ánh chớp lóe lên, kèm theo là tiếng nổ... Ầầm... Rung chuyển mặt đất phát ra từ khối thuốc nổ 10kg mà chị đang bế trên tay.
Sau tiếng nổ, hàng trăm tên giặc đứng gần nhất tan xương nát thịt và bị thương nằm giãy giụa. Liền sau đó là nhiều loạt đạn từ phía cửa hang xối xả bắn xuống. Bọn giặc quá bất ngờ và bị mất chỉ huy, những tên còn lại quay đầu bỏ chạy thục mạng.
Lúc đó trời cũng vừa tối, cánh quân nhỏ của bà Nguyệt cùng với tất cả dân làng đã mò mẫm rút ra khỏi hang đá an toàn đến nơi có nhiều bộ đội bảo vệ. Sáng hôm sau, người ta nói rằng cửa hang ấy đã bị sập bởi mấy trăm quả đạn pháo các loại của giặc bắn sang tới tấp.
Hàng trăm con người trong hang hôm ấy đã được chị ấy cứu mạng. Trước khi dời đi, rất nhiều người đã quỳ xuống để cúi đầu cảm ơn chị... Chị ấy đã chết để cho mọi người được sống... Một cái chết cảm tử... Một cái chết oanh oanh liệt liệt... Tất cả mọi người hôm ấy đã gọi chị là người anh hùng của họ.
Đó chính là khối thuốc nổ mà mọi người mang theo từ trên cao điểm xuống. Tất cả những chiến sĩ bảo vệ cao điểm ấy đã có lúc thống nhất với nhau rằng... Sẽ chiến đấu đến viên đạn cuối cùng rồi dụ trá hàng cho giặc đến gần rồi kích nổ khối thuốc này để chết chung với bọn chúng. Nhất định sẽ không để cho giặc bắt sống.

Trước khi ôm khối thuốc nổ bước ra ngoài, người phụ nữ ấy đã kịp trao đứa con nhỏ một tuổi của mình cho bà Nguyệt kèm theo lời dặn:
- Nhờ cô bộ đội mang cháu về miền xuôi nuôi dưỡng giúp tôi... Hãy tin tôi, tôi từng là thanh niên xung phong đi mở đường nên tôi biết châm thuốc nổ... Hãy để tôi chết một mình may ra còn cứu được mọi người, vì tôi biết tiếng của bọn chúng.

Kể đến đây... Bà Nguyệt bỗng dừng lại một lúc thật lâu. Bà đưa mắt nhìn Thành rồi nghẹn ngào nói trong nước mắt:
- Người phụ nữ đã hi sinh cảm tử để cho mọi người được sống kia... Chính là... Mẹ của con đấy Thành ạ... Con là con nuôi của Mẹ chứ không phải con của Mẹ sinh ra... Mẹ xin lỗi con... Bao nhiêu năm qua Mẹ vẫn giấu vì sợ con mặc cảm.
Nghe đến đây... Thành khóc nức nở rồi bất ngờ chồm người lao đến ôm chầm lấy Mẹ... Không cho Mẹ nói thêm nữa... Lúc này bà Hiên cũng khóc, vợ Thành cũng khóc. Nhưng người khóc to và nức nở như một đứa trẻ vẫn là Thành... Anh vừa khóc vừa nói với Mẹ:
- Không... Mẹ ơi con không hề trách Mẹ. Con cảm ơn Mẹ nhiều lắm... Con thương Mẹ...
Thương quá... Bà Hiên cũng nghẹn lại, không ngờ rằng bạn mình lại khổ thân đến như vậy.
*****

Sáng nay Thành lái xe chở bà Hiên và bà Nguyệt đi Hà Giang. Trước đây anh đã từng đi chơi với bạn bè trên cung đường vô cùng hiểm trở nhưng rất thú vị này rồi. Nhưng sao cảm xúc của chuyến đi lần này khác quá... Một cảm giác xốn sang và lâng lâng khó tả vô cùng. Đã mấy lần mắt anh nhòe đi vì cảm giác ấy. Có lẽ, đây là cảm giác được về với cội nguồn, về với quê Cha đất Tổ. Về với nơi mình đã được chôn nhau cắt rốn và cất lên tiếng khóc đầu tiên... Được uống những giọt sữa thơm ngọt đầu tiên của Mẹ... Nơi ấy, có cả hồn cốt máu xương của Mẹ của Cha đã thấm sâu vào từng gốc cây ngọn cỏ... Đã hòa vào từng nắm đất quê hương... Họ đã sinh ra và lớn lên trên mảnh đất ấy. Và họ cũng đã anh dũng hi sinh để bảo vệ bằng được mảnh đất thiêng liêng ấy của Tổ Quốc.
Nghĩ đến đây Thành lại khóc. Thành khóc vì thương Bố Mẹ nhưng cũng rất đỗi tự hào về Bố Mẹ. Lần này Thành không lén hai bà để đưa tay lên quệt nước mắt nữa... Thành cứ để kệ cho giọt nước ấm nóng mặn mòi ấy tràn xuống môi xuống má... Bất giác, Thành bật lên một tiếng gọi thầm...
- Mẹ ơi! Con đang về với mẹ đây rồi!

Thực ra, đối với bà Nguyệt, chuyến đi lần này không chỉ có một việc tìm lại nguồn cội của Thành. Mà còn có một việc khác quan trọng không kém nữa.
Sau khi bà bước ra từ trong quán thổ cẩm ấy, bà đã nghĩ ngay đến việc tìm nguồn gốc của những tấm vải thổ cẩm này. Bởi bà nghĩ, rất có thể từ nguồn gốc của nó sẽ dẫn đến manh mối để truy tìm ra tung tích của lão già trưởng nhóm kia giúp bạn.
Ngày ở chiến trường biên giới phía Bắc này, bà đã được tiếp xúc với người của mấy dân tộc khác nhau. Bà thấy trang phục của họ cũng bằng thổ cẩm. Nhưng kiểu cách, màu sắc, và những đường nét hoa văn trên trang phục thì không giống nhau. Từ đó sẽ phân biệt được từng dân tộc, thông qua trang phục của họ.

Trước khi đi, ba người đã mang theo mấy tấm vải thổ cẩm các loại để hỏi thăm những người dân địa phương ở vùng ấy. Hi vọng sẽ gặp được ai đó có thể giúp được. Ngày ở trong hang đá kia, chính Mẹ của Thành và nhiều người khác nữa cũng mặc quần áo thổ cẩm. Vì vậy mà khi bà Nguyệt bàn bạc phương án này với bà Hiên và Thành thì cả hai người đều gật đầu đồng ý.

Khi xe lên đến khu vực chiến trường xưa, bà Nguyệt ngồi ở băng ghế trước để tiện quan sát. Bà bảo Thành cho xe đi chậm lại để bà định hướng. Đã mấy chục năm trời, bây giờ cảnh vật thay đổi khác xưa nhiều quá, bà rất khó xác định. Bà bảo Thành cứ cho xe chạy vào những con đường làng ở gần các dãy núi.
Bỗng... phía trước xuất hiện một ngôi nhà sàn cũ kỹ nằm cạnh những ngôi nhà xây cấp bốn. Bà Nguyệt tin chắc chủ nhân của ngôi nhà ấy là một người dân địa phương sống lâu năm ở vùng này... Nghĩ sao làm vậy, bà quyết định bảo Thành đi hẳn xe vào trong mặt sân bằng đất của ngôi nhà sàn ấy để bà vào hỏi thăm.

Từ lúc xe chạy lên đến vùng đất này. Tuy ngồi ở băng ghế sau của chiếc xe tắc xi nhưng không hiểu sao bà Hiên cũng có một cảm giác bồi hồi rạo rực. Tuy không nói ra nhưng sao bà cứ có cảm giác vùng đất này như lạ mà lại như quen. Tâm trạng của bà lúc này thật khó diễn tả.
Khi xe vào hẳn trong sân và dừng lại, Thành xuống trước rồi bước lại mở cửa xe cho hai bà.
Đột nhiên... Một phép màu xuất hiện.

Khi cánh cửa xe mở ra... bà Hiên vừa bước xuống đã ngay lập tức loạng choạng lùi lại... Tay bà run run bám vào cửa xe... Miệng bà há to ra như muốn kêu lên mà không thành tiếng. Bà đưa tay lên dụi mắt liên tục mấy cái để xác định mình còn thức chứ không phải mơ như những lần trước... Bà hết nhìn ngôi nhà sàn rồi lại nhìn sang dãy núi trước mặt... Rồi miệng bà ú ớ không nói được... Bà vừa ú ớ vừa nhảy cẫng lên như một đứa trẻ... Tay bà chỉ về phía dãy núi trước mặt. Bà Nguyệt và Thành không biết chuyện gì cũng nhìn theo hướng tay bà chỉ trỏ... Ở đó, có một cửa hang đá rất to. Ngay ngoài cửa hang có mấy mỏm thạch nhũ trắng nhỏ xuống, nhìn từ xa rất giống cái miệng của em bé mới mọc răng đang há ra cười...

Bà Hiên lấy hết sức dặn thật mạnh cho cục nghẹn ngào đang dâng lên mắc ứ ở lồng ngực văng ra ngoài để bật lên một tiếng gào thật to... Mẹ ơi.!!! Ôi quê mẹ đây mà... Nhà này là nhà mình mà... Đúng rồi đúng rồi... Nhớ rồi, mình nhớ ra rồi... Không phải mơ... Mẹ ơi.!!! Con tìm được quê Mẹ rồi... Con về với Mẹ đây rồi...hu hu hu...
Bà lao đến ôm chầm lấy bà Nguyệt... Nguyệt ơi đây đúng là quê mình rồi... Thật mà... Không phải mình mơ đâu... Mẹ ơi!.. Mẹ còn sống không Mẹ ơi... Hu hu...Con... Mẹ về... Mẹ ơi... Quê ơi... Nhà ơi... Hang ơi....

Bà Hiên quá mừng... Mừng đến quýnh quáng, líu cả lưỡi, nói đứt quãng những câu không đầu không cuối.
Bỗng... từ chân cầu thang của ngôi nhà sàn ấy... Xuất hiện một bà Cụ. Cụ mặc một chiếc váy màu đỏ rất đẹp. Nhìn thấy có người và nghe tiếng la hét ở trước sân, Cụ chống gậy bước ra... Bà Hiên đang ôm bà Nguyệt khóc nức nở liền buông tay ra và lao đến. Bà hét lên... Mẹ ơi.!!! Đúng là mẹ rồi... Mẹ vẫn còn sống... Mẹ ơi.. Nguyệt ơi... Mẹ mình đây rồi...Hu hu hu... Mẹ ơi con là con gái mất tích của Mẹ đây... Con về với Mẹ thật rồi đây... Hu hu hu...

Mẹ bà Hiên vì niềm vui sướng quá đột ngột. Cụ không thể nói được... Cụ cũng không thể đứng vững được trên đôi chân đang run lên vì sung sướng ấy nữa... Cụ sắp khuỵu xuống mất rồi. Bà Hiên lao đến đỡ mẹ ngồi xuống bậc thềm rồi hai mẹ con cứ thế ôm chặt lấy nhau... Một cái ôm thương ôm nhớ sau đúng sáu mươi năm trời đằng đẵng, khắc khoải đợi chờ... Khoảnh khắc ấy, thời gian như ngừng trôi. Tất cả lặng đi đến mấy giây rồi mới thấy tiếng khóc của bà Hiên cất lên nức nở.
Còn bà Cụ... Có lẽ Cụ đã khóc nhiều quá rồi. Khóc vì mất chồng, khóc vì mất con. Đứa thì mất tích, đứa thì chết trẻ... Nước mắt của Cụ đã cạn hết rồi, không còn để mà chảy ra được nữa... Đôi mắt đã mờ đục ấy cứ nhướng mãi lên rồi lại nhắm nghiền lại...
Cụ cũng không còn hơi còn sức để mà gào lên được nữa. Cái miệng móm mém đã rụng hết hàm răng của Cụ cứ há ra ngáp ngáp như người bị thiếu ôxy, như người bị tức ngực khó thở.

Hai mẹ con bà Nguyệt quá ngỡ ngàng khi chứng kiến cảnh hội ngộ đặc biệt ấy. Cuộc hội ngộ bất ngờ sau sáu mươi năm trời đằng đẵng của người Mẹ mất con, của người con lạc Mẹ. Nay bỗng dưng được gặp lại đã Khiến cho bà Nguyệt quá cảm động mà khóc theo, còn Thành cũng không cầm được nước mắt.
Lúc này bà con chòm xóm nghe tiếng kêu khóc đã chạy sang rất đông. Khi đã biết câu chuyện, người thì chúc mừng, người thì sụt sùi lau nước mắt.

Một hồi lâu sau, sự xúc động nghẹn ngào đã dịu xuống, bà Hiên mới hỏi Mẹ:
- Bố con mất lâu chưa?.. Chị gái của con lấy chồng ở đâu hả Mẹ?
Bà Cụ từ đầu đến giờ rất ít nói... Cụ cứ thế nhìn... Một lúc lâu rồi Cụ mới cất giọng run run:
- Tất cả... Chết lâu rồi... Bố bị quân Trung Quốc giết... Anh rể cũng chết... Chị gái cũng chết... Nhưng mà chị gái con chết chung với giặc... Nó châm thuốc nổ cho hàng trăm thằng giặc chết chung với nó... Nó chết để cứu bà con dân làng... Nếu không thì chúng nó vào hang giết hết... Lúc nó chết, nó gửi con cho bộ đội nuôi rồi... Bây giờ cũng không biết ở đâu mà tìm nữa...
Nghe đến đây... Cả bà Hiên, bà Nguyệt và Thành cùng đồng thanh khóc to lên một lúc... Bây giờ thì đến lượt Thành... Thành lao vào ôm chầm lấy bà Ngoại và dì Hiên của Thành mà khóc rống lên... Vừa khóc vừa gọi... Bà Ngoại ơi.!!! Bố Mẹ ơi.!!! Dì Hiên ơi.!!! Các Cô các Bác ơi.!!! Con đây... Con là con trai của người đã châm thuốc nổ để chết chung với giặc đây... Con đã về đây rồi.!!!...
Lúc này thì tất cả những người hàng xóm có mặt đều khóc. Trong số họ có cả những người đã chứng kiến cái chết của mẹ Thành.
Thì ra... Thành chính là con của người anh hùng đã cứu mạng cho họ... Người đã dùng cái chết của mình để cứu cho cả làng thoát nạn năm nào...
Bỗng Thành buông tay rời bà ngoại, anh bước đến trước mặt mọi người và nói trong nước mắt:
- Cháu biết, bao nhiêu năm qua bà cháu chỉ sống có một mình... Không có ai là ruột thịt ở bên cạnh... Cũng nhờ tấm lòng của bà con cô bác đã đùm bọc mà bà cháu mới chờ đợi được đến ngày hôm nay...
Đột nhiên... Thành qùy sụp xuống trước sự ngỡ ngàng của tất cả mọi người... Anh dập đầu lạy ba lạy rồi chắp tay nói:
- Cháu xin được cúi đầu cảm ơn tất cả bà con cô bác...
*****
 

UnitedKondoms

Xe container
Biển số
OF-345680
Ngày cấp bằng
6/12/14
Số km
6,003
Động cơ
316,288 Mã lực

tomtomchát

Xe container
Biển số
OF-394561
Ngày cấp bằng
30/11/15
Số km
6,661
Động cơ
260,676 Mã lực
Tuổi
48
Nơi ở
Phủ Khai Thông
Đâm cho nó giãy đành đạch đi Lão...

Xong rồi ra đây

Bọn iêm chờ

Khú khú
E ra chap 5 rôi ợ, ra tuồn tuột luôn
Nó mà đành đạch khéo e cũng soắn quẩy cả ngày mai hơ hơ
Loài ma đấy công lực nó cao thâm lắm, độc lực hơn cả ma tóe ;)) ;))
 

Đại Ba

Xe điện
Biển số
OF-51041
Ngày cấp bằng
17/11/09
Số km
2,228
Động cơ
433,398 Mã lực
Nơi ở
Hà Nội
Có vẻ như phần câu chuyện trong chiến tranh của bà Hiên sẽ không thể bỏ được, mà chỉ có thể rút gọn lại. Vì nếu ko thì sẽ ko thể hiểu những sự kiện diễn sau này.

Em thì lúc trước vẫn kiên trì đọc, theo 1 thói quen, dù thấy câu chuyện có vẻ lạc đề
 

Graviu

Xe máy
Biển số
OF-354832
Ngày cấp bằng
18/2/15
Số km
81
Động cơ
264,503 Mã lực
Câu chuyện thì không phải dở nhưng kiểu thể hiện rõ nét là hư cấu nên đọc không thấy sợ như chuyện khác :D
Chúc cụ vững tay gõ phím hay copy để ae có cái đọc nhé
 

Huan Tran

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-496932
Ngày cấp bằng
12/3/17
Số km
1,186
Động cơ
200,741 Mã lực
Theo đề nghị của cụ billyjone em xin kể chuyện nữ tướng Phật Nguyệt của Hai Bà Trưng:

Vùng nam Trung Quốc vẫn còn lưu truyền truyền thuyết này:
« Ngày xưa, Ngọc-hoàng Thượng-đế ngự trên điện Linh-tiêu, có hai công chúa đứng hầụVì sơ ý hai công chúa đánh vỡ chén ngọc. Ngọc-hoàng Thượng-đế nổi giận đầy hai công chúa xuống hạ giớị Hai công chúa đi đầu thai được mấy ngày thì Tiên-lại giữ sổ tiên-giới tâu rằng có 162 tiên đầu thai xuống theo hai công chúa. Ngọc-hoàng Thượng-đế sợ công chúa làm loạn ở hạ giới, ngài mới truyền Thanh-y đồng tử đầu thai để theo dẹp loạn. Thanh-y đồng tử sợ địch không lại hai công chúa, có ý ngần ngừ không dám đị Ngọc-hoàng Thượng-đế truyền Nhị thập bát tú đầu thai theo.

Thanh-y đồng tử sau là vua Quang Vũ nhà Hán. Nhị thập bát tú đầu thai thành hai mươi tám vị văn thần võ tướng đời Ðông-Hán.

Còn hai công chúa đầu thai xuống quận Giao-chỉ, vào nhà họ Trưng. Chị là Trắc, em là Nhị. Lúc Trưng Trắc sinh ra có hương thơm đầy nhà, thông minh quán chúng, có sức mạnh bạt sơn cử đỉnh, được gả cho Ðặng Thi-Sách.

Thi-Sách làm phản, bị Thái-thú Tô Ðịnh giết chết. Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị phất cờ khởi nghĩa, được 162 anh hùng các nơi nổi lên giúp sức, nên chỉ trong một tháng chiếm hết sáu quận của Trung-quốc ở phía Nam sông Trường-giang: Cửu-chân, Nhật-nam, Giao-chỉ, Quế-lâm, Tượng-quận, Nam-hảị Chư tướng tôn Trưng Trắc lên làm vua, thường gọi là vua Bà.

Quang-Vũ nhà Hán sai Phục-ba tướng quân Tân-tức hầu Mã Viện. Long-nhương tướng quân Thận-hầu Lưu Long đem quân dẹp giặc. Vua Bà sai nữ tướng Phật Nguyệt tổng trấn hồ Ðộng-đình. Mã Viện, Lưu Long bị bạịVua Quang Vũ truyền Nhị thập bát tú nghênh chiến, cũng bị bại. Nữ vương Phật Nguyệt phép tắc vô cùng, một tay nhổ núi Nga-mi, một tay nhổ núi Thái-sơn, đánh quân Hán chết, xác lấp sông Trường-giang, hồ Ðộng-đình, oán khí bốc lên tới trời.

Ngọc-hoàng Thượng-đế sai thiên-binh, thiên-tướng trợ chiến cũng bị bạị Ngài phải sai thần Du Liệt sang Tây phương cầu cứu Phật Như Lai. Ðức Phật sai mười tám vị Kim-cương, ba ngàn La-hán trợ chiến cũng bị bạị Cuối cùng ngài truyền Quán Thế Âm bồ tát tham chiến. Nữ vương Phật-Nguyệt với Quan-Âm đấu phép ba ngày ba đêm, bất phân thắng bại. Sau Quán Thế Âm thuyết pháp nữ vương Phật Nguyệt giác ngộ, bỏ đi tu.
"
 

longmama

Xe container
Biển số
OF-132333
Ngày cấp bằng
25/2/12
Số km
5,564
Động cơ
129,112 Mã lực
Nơi ở
Ba Đình, Hà Nội
Chưa có gì mới hả các lão
 

Mít tố nữ

Xe tăng
Biển số
OF-707131
Ngày cấp bằng
10/11/19
Số km
1,636
Động cơ
165,700 Mã lực
Em vừa xem “buried in the backyard “ trên Axn. Có chi tiết mẹ của cô bé 14 tuổi bị mất tích sau khi tìm con trong tuyệt vọng đã nhờ tới thầy đồng sống ở một nước khác. Thầy nói bé đã chết và còn vẽ sơ đồ nơi cô bé mất tích và đánh dấu vị trí chôn xác.
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top