Kính Cụ anh 1 lyLa Hầu (羅睺), Kế Đô (計都 ) là phiên âm sang tiếng Trung của Rahu và Ketu trong thiên văn học Ấn Độ cổ đại, truyền sang TQ theo con đường Phật giáo và được ghi chép trong một số kinh văn như Ma Đăng Già kinh, Đại Tỳ Lô Giá Na thành Phật kinh sớ v.v. Nguyên bản (theo Thất diệu nhương tai quyết, dịch và in ấn khoảng thế kỷ 9) thì La Hầu gắn với tiến động nút (nodal precession) với chu kỳ ~18,6 năm, Kế Đô gắn với tiến động củng điểm (apsidal precession) với chu kỳ ~8,85 năm trong tiến động nút thăng/giáng (các điểm nút mà bạch đạo (= quỹ đạo của Mặt Trăng) cắt hoàng đạo (= quỹ đạo của Mặt Trời) khi nhìn từ Trái Đất) và tiến động điểm cận/viễn địa của Mặt Trăng.
Các điểm nút thăng/giáng này cũng là nơi xảy ra nhật thực hay nguyệt thực do khi đó tâm của Mặt Trời, Mặt Trăng và Trái Đất gần như nằm trên cùng một đường thẳng. Từ thời Đường người ta sử dụng các khái niệm này để quan trắc thiên văn và tính toán lịch pháp. Đầu thời Tống thì có sự thay đổi với La Hầu gắn với giao điểm giáng (điểm mà Mặt Trăng lùi về phương nam) và Kế Đô gắn với giao điểm thăng (điểm mà Mặt Trăng tiến lên phương bắc). Đến thời Thanh thì Johann Adam Schall von Bell (= Thang Nhược Vọng) tiến hành cải cách lịch pháp, coi La Hầu gắn với giao điểm thăng còn Kế Đô gắn với giao điểm giáng nhưng hầu hết các nhà chiêm tinh học đương thời không sử dụng định nghĩa mới của ông.
Do trong thời Tống có sự thay đổi định nghĩa của Kế Đô nên người TQ nghĩ ra tứ dư (La Hầu, Kế Đô, Tử Khí, Nguyệt Bột), với Nguyệt Bột đảm nhận vai trò mà Kế Đô/Ketu bỏ lại còn Tử Khí cũng là một hư tinh (sao không có thật) với chu kỳ 28 năm (có lẽ là để giả lập tương tự như Thái Tuế tinh - tức sao Mộc với chu kỳ 11,862 năm hay xấp xỉ 12 năm; do 1 chu kỳ Meton 19 năm chí tuyến = 6.940 ngày xấp xỉ 235 tháng giao hội, hay 19 năm âm dương lịch = 12 năm thường 12 tháng + 7 năm nhuận 13 tháng để đồng bộ lịch với thời tiết 4 mùa, nên nếu tồn tại một sao có chu kỳ ~28 năm thì sẽ có ~18 năm thường + 10 năm nhuận). Các đạo sĩ và các nhà chiêm tinh thì sử dụng cửu diệu (Nhật, Nguyệt, Thủy, Kim, Thổ, Mộc, Hỏa, La Hầu, Kế Đô) trong giải đoán hạn/vận mệnh con người trong mỗi năm.
Kiến thức của Cụ anh rất quý giá
Trân trọng